Đô thị hoá được hiểu là sự mở rộng của đô thị tính theo tỷ lệ phần trăm giữa dân số đô thị hay diện tích đô thị trên tổng số dân hay diện tích của một vùng hay khu vực (http//vi.Wikipedia. org/). Đô thị hoá là một quá trình xã hội - kinh tế nhiều mặt và phức tạp, hiện nay đang ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của xã hội, do đó đòi hỏi một phương pháp tiếp cận tổng hợp dựa trên sự hợp tác của nhiều ngành khoa học (Pivovarov, 1976, tr.1). Trong những năm qua, nghiên cứu về đô thị hoá đã được nhiều nhà khoa học quan tâm dưới những góc độ khác nhau. Trên thế giới, các nhà khoa học thường lấy các thành phố, các trung tâm lớn để nghiên cứu những biểu hiện của đô thị hoá, các vấn đề diễn ra trong quá trình đô thị hoá, hiệu quả của quá trình đô thị hoá, trên cơ sở đó, xây dựng các khung lý thuyết, học thuyết, các lý luận (O.N.Yanitski, 1975; Pivovarov 1976; Jon.M.Shepard, 1992…).
1. Vài nét về tỉnh Thái Nguyên và người Sán Dìu ở Thái Nguyên
Thái Nguyên là tỉnh miền núi và trung du thuộc Bắc Bộ, nằm ở phía Bắc sông Hồng cách thủ đô Hà Nội 80 km, có tổng diện tích tự nhiên là 3541,5 km2 được chia làm 9 đơn vị hành chính (thành phố Thái Nguyên, thị xã Sông Công, huyện Phú Bình, Phổ Yên, Đại Từ, Đồng Hỷ, Định Hoá, Phú Lương, Võ Nhai). Là tỉnh có vị trí thuận lợi về giao thông, cách sân bay quốc tế Nội Bài 50 km, biên giới Việt- Trung 200 km và cách cảng Hải Phòng 200 km. Thái Nguyên còn là điểm nút giao thông với hệ thống đường bộ, đường sắt, đường sông hình rẻ quạt kết nối với các tỉnh thành: đường quốc lộ 3 nối Hà Nội - Bắc Kạn; Cao Bằng và cửa khẩu Việt Nam – Trung Quốc; quốc lộ 1B Lạng Sơn; quốc lộ 37 Bắc Ninh, Bắc Giang. Hệ thống đường sông Đa Phúc - Hải Phòng; đường sắt Thái Nguyên - Hà Nội - Lạng Sơn.
Theo số liệu của Cục Thống kê tỉnh Thái Nguyên, cho đến năm 2005, dân số Thái Nguyên có 1.108.775 người trong đó thành thị có 259.604 người, nông thôn có 849.171 người, với 8 dân tộc chủ yếu: Kinh (Việt), Tày, Nùng, Sán Dìu, Sán Chay, Hoa, Dao, Hmông. Thái Nguyên còn là trung tâm đào tạo nguồn nhân lực cho các tỉnh miền núi phía
bắc. Hiện tại, Thái Nguyên có 6 trường đại học, 11 trường cao đẳng và trung học chuyên nghiệp, 9 trường trung cấp dạy nghề. Bên cạnh đó, Thái Nguyên còn được biết đến với những địa danh du lịch, danh thắng, sinh thái nổi tiếng như Hồ Núi Cốc, Hang Phượng Hoàng, Hang Thần Sa, thác Mưa Bay...
Là một trong 8 tộc người ở Thái Nguyên, dân tộc Sán Dìu cư trú rải rác ở tất cả các huyện thị trong tỉnh. Nghề sống chính của đồng bào là làm nông nghiệp, thế hệ trước vẫn truyền cho thế hệ sau: Buôn Đông bán Tây không bằng cày góc ruộng “Mai tông, mai slay mạo cộ số thén cóc”, những lúc nông nhàn, bà con tranh thủ làm thêm một số nghề thủ công như: mộc, đan lát, rèn, dệt vải, mộc... Trước Đổi mới (1986), do cư trú cạnh những cánh rừng, gò đồi, khúc suối nên hình thức kinh tế chiếm đoạt khá phổ biến trong cộng đồng người Sán Dìu. Sau đổi mới, đặc biệt là từ năm 1995 trở lại đây, do ảnh hưởng của đô thị hoá, đời sống kinh tế - xã hội - văn hoá của người dân ở Thái Nguyên nói chung và người Sán Dìu nói riêng đã có nhiều thay đổi.
2. Tác động của đô thị hoá đến văn hóa của người Sán Dìu ở Thái Nguyên
Quá trình đô thị hoá được xem xét đến qua các khía cạnh: sự thay đổi về cơ cấu dân số giữa thành thị và nông thôn, thay đổi cơ cấu nghề nghiệp... dẫn tới sự biến đổi về dân cư và dân tộc, biến đổi cơ cấu nghề nghiệp, môi trường, sự phân hoá giầu nghèo.... do giới hạn của đề tài, bài viết này chỉ tập trung tìm hiểu những biến đổi văn hoá của người Sán Dìu do ảnh hưởng của quá trình đô thị hoá, trong đó đề cập chủ yếu đến những khía cạnh dễ biến đổi của văn hoá như: ăn, mặc và ở.
(Thành phố Thái Nguyên. Nguồn: baothainguyen.org.vn)
2.1. Biến đổi trong tập quán ăn uống
- Về nguồn lương thực, thực phẩm:
Trước những 90 của thế kỷ XX, nguồn thức ăn có từ khai thác thiên nhiên và canh tác chiếm vị trí chủ đạo thì ngày nay nguồn lương thực, thực phẩm có do mua bán, trao đổi được bà con sử dụng nhiều hơn bởi sự tiện dụng của nó, không cần đến các chợ phiên hay các quán hàng nhỏ mà ngay tại nhà người ta cũng có thể mua được những thứ cần thiết do những người bán hàng rong bằng xe đạp hoặc xe máy chở đến. Việc khai thác nguồn lợi có sẵn từ thiên nhiên ngày càng trở nên khó khăn. Vì vậy, một số món ăn từ rừng đã trở nên hiếm hoi hoặc đã mất hẳn. Tuy nhiên, người Sán Dìu vẫn tiếp tục khai thác nguồn thực phẩm này cho bữa ăn - nhất là các làng bản ở vùng sâu vùng xa. Khi việc tìm kiếm nguồn thức ăn từ thiên nhiên trở nên khó khăn, những sản phẩm của núi rừng lại trở thành đặc sản có giá trị. Do vậy, người Sán Dìu nhanh chóng nắm bắt được nhu cầu của xã hội, họ lấy những sản phẩm thu hái hoặc đánh bắt được trong tự nhiên đem bán lấy tiền. Như vậy, biến đổi nguồn thức ăn của người Sán Dìu không chỉ thể hiện ở sự phong phú hoặc mất đi một số thức ăn mà còn ở sự hoán vị vai trò của các nguồn thức ăn từ khai thác, canh tác và trao đổi sản phẩm.
- Cơ cấu bữa ăn, cách thức chế biến:
Cơ cấu bữa ăn truyền thống của người Sán Dìu có thể khái quát thành công thức: Cơm, cháo + món ăn có nguồn gốc từ thực vật (Nguyễn Thị Quế Loan, 2008). Ngày nay, món cháo truyền thống gần như đã bị loại bỏ. Hoa màu trước đây được xe như nguồn lương thực chính thì ngày nay hầu như chỉ được chế biến để ăn chơi, rất ít hộ phải sử dụng chúng để ăn độn. Việc ăn độn củ nâu, củ mài hoặc bột búng, báng, đao đã mất hẳn. Thịt, cá đã và đang có mặt thường xuyên trong mỗi mâm cơm gia đình người Sán Dìu. Trước đây, do đời sống kinh tế còn thấp kém nên trong cách chế biến món ăn của người Sán Dìu có phần đơn giản và không chú ý đến hình thức của món ăn. Ngày nay, do kinh tế phát triển, mặt khác lại có sự giao lưu giữa các dân tộc nên họ tiếp thu cách chế biến của các tộc người khác- đặc biệt là của người Kinh, không những đồng bào học hỏi them các cách chế biến mới (chưng, tần, lẩu...) mà trong cách chế biến truyền thống (luộc, kho, làm nộm...) cũng có những đổi thay. Bên cạnh chất lượng, hình thức của món ăn cũng được bà con chú ý hơn.
- Món ăn, đồ uống và thức hút:
Bên cạnh những món ăn truyền thống như: Cheo leo, bánh nghé, bánh táp, mon thoi, sleo béng... xuất hiện nhiều món ăn mới: mỳ tôm, phở, cá biển, chả cá... Mặc dù về nguồn gốc, các món ăn phần lớn do người Kinh chế biến sẵn đem bán, nhưng nó đã được người Sán Dìu đón nhận và sử dụng trong bữa ăn của mình. Song song với quá trình xuất hiện đa dạng của các món ăn mới là sự mai một hoặc mất đi của một số món ăn. Có những món ăn do không ngon nên khi kinh tế phát triển, người dân không muốn làm, nhưng có món là do khan hiếm nguyên liệu nên dù muốn ăn cũng không có điều kiện để làm (các món chế biến từ trứng kiến, hạt đài hái...). Món thịt tái cũng ít được sử dụng bởi ý thức về ăn uống vệ sinh, an toàn thực phẩm của người dân được nâng cao. Về đồ uống, do đời sống văn hoá được nâng cao nên thói quen uống nước lã bị loại bỏ. Việc uống rượu hoà tiết sống đã hạn chế rất nhiều. Hiện nay, tập quán sử dụng cháo làm nước uống chỉ còn thấy ở các xã vùng sâu, vùng xa, còn những xã gần đô thị đã mất thói quen này.
- Ứng xử trong ăn uống:
Xưa kia, con dâu không được ngồi chung mâm với bố và anh trai chồng; việc lo ăn uống thường nhật nhất thiết dồn lên đôi vai người phụ nữ. Giờ đây, tục lệ đó đã bị phá bỏ, phụ nữ Sán Dìu được đối xử bình đẳng trên mọi phương diện. Lo liệu bữa cơm hàng ngày là việc chung của mọi thành viên trong gia đình, không phân biệt già, trẻ, nam, nữ, hễ ai rỗi việc đều có thể nấu nướng. Trong phạm vi cộng đồng, cung cách ăn uống cũng có nhiều thay đổi. Trước kia, trong lễ Kỳ Yên lớn hoặc lễ Cơm mới tổ chức ở đình làng, đàn bà trong độ tuổi sinh đẻ tuyệt đối không được tham dự. Ngày nay, mọi người trong làng đều có quyền tham dự vào lễ hội chung, không phân biệt nam, nữ, độ tuổi... Do được tuyên truyền nhiều về chế độ dinh dưỡng cho sản phụ và trẻ sơ sinh nên việc kiêng kỵ trong ăn uống của sản phụ đã bớt phức tạp. Trong thời gian mang thai, người phụ nữ chú ý ăn uống và bồi dưỡng hơn để mẹ khoẻ, con khoẻ. Thậm chí, với một số hộ cư trú gần trung tâm đô thị, điều kiện kinh tế khá giả còn mua được các loại sữa bột, viên sắt để bồi bổ cho thai nhi và người mẹ.
2.2. Trang phục
(Trang phục truyền thống phụ nữ dân tộc Sán Dìu. Nguồn: dantocviet.vn)
Xưa kia, vào những ngày lễ tết, hội thường, nam giới Sán Dìu thường mặc áo 5 thân, cổ cao, ống tay hẹp. Áo bên trong màu trắng, bên ngoài màu đen. Quần được cắt theo kiểu chân què màu nâu hoặc trắng. Ngày thường, nam giới vẫn mặc áo 5 thân song áo được may thân ngắn, màu chàm hoặc nâu, bên trong may thêm cái túi nhỏ để đựng những vật dụng cần thiết.
Bộ nữ phục của nữ Sán Dìu nghèo màu sắc, gam màu được sử dụng chủ yếu là màu chàm, đen và trắng, bao gồm: khăn đội đầu, áo, váy, dây lưng, xà cạp. Người ta chỉ sử dụng chỉ màu để thêu trang trí hoa văn trên thắt lưng hoặc túi đựng trầu. Cũng giống như nam giới, áo được mặc thành cặp may theo kiểu 4 thân, cổ cao, nẹp trơn, khi mặc, người trẻ tuổi vắt vạt áo phải sang bên trái, người già thì ngược lại vắt vạt áo trái sang bên phải. Phụ nữ Sán Dìu có kiểu váy truyền thống khá độc đáo, váy không khâu gồm 2 - 4 mảnh được đính trên một cạp, mảnh này chờm lên mảnh kia từ 10 - 15 cm. Nếu là váy 2 mảnh thì mỗi mảnh có từ 3 - 4 tấm can lại với nhau. Khi mặc, một mảnh ở phía trước, một mảnh ở phía sau tạo thành khe hở dọc theo hai bên chân.
Ngày nay, do giao lưu văn hoá và dưới tác động của kinh tế thị trường, trang phục của người Sán Dìu đã biến đổi, theo điều tra của chúng tôi, những phụ nữ dưới 50 tuổi không còn mặc trang phục truyền thống và thậm chí không biết đến trang phục truyền thống, chỉ có một số ít người cao tuổi còn giữ được trang phục truyền thống thỉnh thoảng trong những dịp đặc biệt (đám cưới, lễ cấp sắc...) mặc chụp ảnh. Khi được hỏi vì sao không mặc trang phục truyền thống hàng ngày 88,7 % cho rằng vì không tiện lợi, số còn lại cho rằng vì ngượng khi tiếp xúc với người khác.
2.3. Nhà cửa
Theo Bônifacy, ngôi nhà cổ xưa của người Sán Dìu có kinh tế khá giả “được cất trên mặt đất, khung nhà bằng gỗ, tường và liếp bằng tre đan, ít khi bằng đất ép, mái lợp bằng rơm rạ. Nhà chính thường thường có 2 gian nhô ra, một hàng hiên trước gian nhà chính chạy giữa hai gian nhô ra này. Khi bước vào nhà, người ta bước vào phòng tiếp khách, trong không gian nhô ra bên phải có buồng của ông chủ nhà, trong không gian nhô ra bên trái là bếp. Hai gian này chiếm hết bề rộng của nhà, nhưng gian chính được ngăn cách theo chiều dài của bằng một tấm liếp. Như vậy, người ta tạo ra một thứ hành lang mà người ta đi vào lối bếp và phòng của ông chủ gia đình. Hành lang này được ngăn cho tới khoảng giữa cửa, thành những buồng nhỏ để cho con trai, con gái, con dâu và đầy tớ ở” (Bônifacy, 1904, tr. 10, 11).
Nhìn chung, ngôi nhà truyền thống của họ đều là nhà tranh, vách đất, ít cửa sổ, ẩm thấp. Có 2 kiểu nhà chính: nhà đất cột kê và nhà đất tường trình, cách bố trí khuôn viên và mặt bằng sinh hoạt của họ thường là: nhà chính, nhà ngang và nhà bếp được làm theo hình chữ u hoặc hình thước thợ. Nhà thường có số gian lẻ 1 gian 2 chái hoặc 3 gian 2 chái, 5 gian 2 chái. Gian giữa đặt bàn thờ tổ tiên và là nơi tiếp khách của gia đình, gian kế tiếp đặt giường ngủ của ông bà chủ và con trai, gian chái là nơi sinh hoạt của con dâu, con gái. Sau Đổi mới, đặc biệt là từ năm 1990 trở lại đây, cùng với những đổi thay về kinh tế, xã hội, do ảnh hưởng của đô thị hoá, nhà cửa của người Sán Dìu ở Thái Nguyên đã có nhiều thay đổi, hầu hết các ngôi nhà đều được xây dựng, kiến trúc theo kiểu của người Việt, nhà được xây bằng gạch mộc, lợp ngói đỏ hoặc mái bằng, có những ngôi nhà được xây 2, 3 tầng khép kín đem đến cho bản làng người Sán Dìu một dáng dấp mới. Làng xóm đã trở nên khang trang, sạch đẹp hơn với những con đường liên xã, liên xóm, liên ngõ.
Theo những người dân nơi đây, sống trong những ngôi nhà kiến trúc mới mặc dù không mát như kiểu nhà truyền thống nhưng lại tiện lợi, thoáng và vệ sinh hơn do vậy những nếp nhà truyền thống hầu như đã bị dỡ bỏ. Tuy nhiên, những tục lệ truyền thống khi xây dựng nhà như nhờ thầy địa lý xem đất, thầy cúng xua đuổI tà ma, lễ Kỳ yên khi vào nhà mới vẫn được bà con lưu giữ bởi quan niệm đó là những vịêc làm cần thiết để giải toả lo lắng về mặt tinh thần làm con người yên tâm hơn khi thực hiện những việc lớn trong đời người.
3. Kết luận
Trong tiến trình của cách mạng Việt Nam, đặc biệt từ sau những năm 60 của thế kỷ 20, sự phân bố dân cư trên địa bàn toàn quốc có nhiều thay đổi, xu hướng người Việt lên tham gia phát triển kinh tế miền núi ngày càng nhiều. Ở Thái Nguyên, đây là thời điểm xây dựng hàng loạt các nhà máy và hầm mỏ thu hút hàng vạn lao động từ khắp mọi miền Tổ quốc đến sinh sống và làm việc. Tình hình đó dẫn đến sự cư trú xen cài giữa các dân tộc ở tỉnh Thái Nguyên trong đó có vùng người Sán Dìu sinh sống. Từ năm 1986, cùng với việc mở cửa, tiến hành công nghiệp hoá, với quá trình đô thị hoá được diễn ra mạnh mẽ, dẫn đến sự thay đổi về kinh tế, xã hội, văn hoá... của các tộc người trong đó có vùng người Sán Dìu sinh sống.
Nhìn lại những thay đổi trong văn hoá ăn - mặc - ở của người Sán Dìu ở Thái Nguyên do tác động của quá trình đô thị hoá có thể thấy, sự biến đổi về văn hoá biểu hiện sự thích nghi của văn hoá trong bối cảnh đô thị hoá do môi trường kinh tế chuyển đổi và sự ảnh hưởng mạnh mẽ của văn hoá Việt. Các biểu hiện của văn hoá vật chất như ăn, mặc, ở đều có sự thay đổi do sống xen cài với dân tộc Việt (Kinh). Ngôi nhà truyền thống, trang phục truyền thống chỉ còn trong ký ức của những người già, thậm chí trong đám cưới hiện nay của người Sán Dìu cách tổ chức, ăn uống, trang phục đều không khác gì người Kinh nhất là ở những xã gần thị tứ, chú rể mặc quần áo comple, cô dâu mặc váy nhiều tầng. Trong ăn uống có những biến đổi về cung cách ứng xử, cách chế biến, món ăn... Như vậy, quá trình đô thị hoá tạo ra cơ hội giao tiếp mạnh mẽ giữa văn hoá Sán Dìu với văn hoá Việt nhưng cũng đồng thời đem lại những thách thức lớn cho việc gìn giữ và bảo lưu văn hoá truyền thống của tộc người này, đặc biệt là đối với lớp trẻ khi họ đón nhận những yếu tố văn hoá mới mà không có sự chọn lọc.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bônifacy (1904), Monographie des Man Quan Coc, Devue indochinoise, 2esemestre, No 10et11 (Bản dịch của Viện Dân tộc học).
2. Mạc Đường (2004), Dân tộc học đô thị, Nhà xuất bản thành phố Hồ Chí Minh.
3. Lê Như Hoa (2000), Quản lý văn hoá đô thị trong điều kiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Nhà xuất bản Văn hoá thông tin Hà Nội và Viện Văn hoá.
4. Đỗ Thị Huệ (1997), “Mấy khía cạnh văn hoá trong quá trình đô thị hoá ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Nghiên cứu lý luận, Số 2, Tr.36-37.
5. Nguyễn Thị Quế Loan (2008), “Biến đổi trong tập quán ăn uống của người Sán Dìu tỉnh Thái Nguyên”, Tạp chí Dân tộc học, Số 2 (152), Tr.13- 25.
6. Nguyễn Hữu Minh (2002), “Đô thị hoá Việt Nam những năm 90; Một số đặc trưng kinh tế- xã hội cơ bản, Tạp chí Xã hội học, Số 1, Tr.11-20.
7. Jon.M.Shepard (1992), Đô thị hoá và thuyết đô thị hoá, Trung tâm nghiên cứu và tư vấn phát triển, Đề tài nghiên cứu Văn hoá- Lối sống- Môi trường, Hà Nội.
8. O.N.Yanitski (1975), Đô thị hoá và những mâu thuẫn xã hội của chủ nghĩa tư bản, Nhà
xuất bản Matscơva.
9. Pivovarov (1976), Những đặc điểm của công tác nghiên cứu đô thị và hiện tượng đô thị hoá, Nhà xuất bản Matscơva.
10. Vương Xuân Tình- Trần Văn Hà và các cộng sự (2007), Tác động của đô thị hoá đến sự biến đổi kinh tế- xã hội ở các tộc người vùng miền núi phía Bắc, 1986- 2006, Đề tài cấp Viện, Viện Dân tộc học.
11. Nguyễn Ngọc Tuấn (chủ biên) (2003), Những vấn đề kinh tế- xã hội và môi trường vùng ven các đô thị lớn trong qúa trình phát triển bền vững, Nhà xuất bản khoa học xã hội, Hà Nội.
Nguồn: Hội thảo quốc tế Việt Nam học lần 3, ngày 4-7 tháng 12 năm 2008.