1.Tiềm năng và thế mạnh của di sản văn hóa biển đảo Khánh Hòa
1.1. Du lịch là một ngành kinh tế tổng hợp dựa trên sự huy động và khai thác: nguồn tài nguyên tự nhiên (địa chất, địa hình, khí hậu, thủy văn, hệ sinh thái, cảnh quan thiên nhiên) và tài nguyên nhân văn do con người sáng tạo ra, trong đó di sản văn hóa đóng vai trò quan trọng.
Di sản văn hóa bao gồm toàn bộ những giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể mang bản sắc đặc trưng của mỗi địa phương. Bản sắc văn hóa của vùng đất ấy sẽ cuốn hút du khách đến chiêm nghiệm, khám phá, tìm hiểu để làm giàu cho hành trang văn hóa của mình.
Di sản văn hóa và phát triển du lịch có mối quan hệ tương tác, gắn bó hữu cơ: di sản văn hóa là nguồn vốn, là cơ sở để du lịch khai thác làm giàu; còn du lịch, đến lượt mình, sẽ có tác dụng quảng bá, tôn lên các giá trị văn hóa của di sản, góp phần giữ gìn và phát huy di sản.
Di sản văn hóa là linh hồn của các điểm du lịch, làm tăng lên nhiều lần giá trị của điểm đến. Ngược lại, nếu không có du lịch khai thác, giới thiệu, biến thành những sản phẩm để du khách tiếp cận thì di sản văn hóa sẽ thiếu đi sức sống, không có cơ hội phát lộ những giá trị. Tựu trung lại, sự phát triển của du lịch không thể tách rời với di sản văn hóa và du lịch văn hóa chính là cầu nối để di sản đến với công chúng.
1.2. Khánh Hòa là tỉnh có thế mạnh và tiềm năng lớn về di sản văn hóa. Trên phương diện di sản văn hóa vật thể, tỉnh có hơn 1.000 di tích và địa điểm có dấu hiệu di tích. Trong đó, có nhiều di tích gắn với văn hóa biển, đảo tại các thành phố Nha Trang, Cam Ranh, thị xã Ninh Hòa, các huyện Vạn Ninh... Đến thời điểm 30/12/2010, số lượng các di tích-danh thắng được xếp hạng là 13 di tích cấp quốc gia, 129 di tích cấp tỉnh, bao gồm các loại hình di tích lịch sử, di tích kiến trúc nghệ thuật và danh lam thắng cảnh [Trương Đăng Tuyến 2011].
Một số di tích đã trở thành những địa danh du lịch nổi tiếng như: Tháp Bà Ponagar, thành cổ Diên Khánh, Hội quán vịnh Nha Trang, bia Võ Cạnh, thành Hời, miếu Ông Thạch, Am Chúa, chùa Long Sơn, lầu Bảo Đại, quần thể di tích lưu niệm A.Yersin, đồi Trại Thủy, cầu Xóm Bóng...
Tháp Bà Ponagar đã là một di tích rất đặc biệt, xứng đáng để du khách quan tâm tìm hiểu. Đây là khu đền tháp Chăm duy nhất được người Việt sử dụng làm nơi thờ Thiên Y A Na Thánh Mẫu. Xét trên góc độ lịch sử-văn hóa, đây là một trung tâm thờ Mẫu lớn nhất của người Việt ở miền Trung, là cầu nối thể hiện quá trình giao lưu và dung hợp văn hóa Việt – Chăm, một hiện tượng văn hóa đặc sắc trong lịch sử dân tộc.
Nhiều làng ven biển Khánh Hòa còn lưu giữ được những công trình kiến trúc, tín ngưỡng, những ngôi nhà cổ, các khu nhà vườn độc đáo…, tạo nên những không gian rất riêng, thu hút du khách về tham quan, thưởng ngoạn.
Về di sản văn hóa phi vật thể, Khánh Hòa có đầy đủ các loại hình nghệ thuật trình diễn dân gian, nghề thủ công truyền thống, ngữ văn dân gian, phong tục, tập quán xã hội, tín ngưỡng, lễ hội truyền thống, ẩm thực dân gian...
Đặc trưng của văn hóa tín ngưỡng cư dân vùng duyên hải là tục thờ các vị thần bảo trợ ngư nghiệp. Các nghi lễ, nghi thức thờ cúng các vị thần biển, thành hoàng bảo trợ nghề biển, thờ Thủy Long thần nữ… đã đem đến cho lễ hội các cộng đồng cư dân ven biển Khánh Hòa những sắc thái độc đáo. Các lễ hội Cầu ngư (Đức Ngư, Ông Nam Hải, Ông Lớn, Ông Cậu, Ông Khơi, Ông Lộng, Nam Hải Đại Tướng Quân, Cự Tộc Ngọc Lân Tôn Thần…) thường xuyên diễn ra. Có nhiều diễn xướng dân gian đặc sắc gắn liền với lễ hội như: hát múa bả trạo, múa bóng (chỉ riêng ở Nha Trang mới có xóm được gọi là xóm Bóng nằm cạnh Tháp Bà), hát diễn ở các các nghi lễ cúng đình, chùa, miếu, lăng, đền, tháp... Khánh Hòa là tỉnh có khá nhiều lễ hội lớn như: lễ hội Tháp Bà, lễ hội Cá Ông, lễ hội Yến Sào, lễ hội Am Chúa, lễ hội Đền Hùng, lễ hội Kỳ an...
Bên cạnh đó, Khánh Hòa còn có các loại hình dân ca phong phú như: hát bài chòi (bài chòi đất, bài chòi trải chiếu), hát xà, hát mộc, hò kéo lưới, hò đẩy thuyền, hát giao duyên, huê tình ở các vùng đánh bắt hải sản tại các huyện ven biển và hải đảo...
Các làng duyên hải Khánh Hòa còn nổi tiếng với các nghề truyền thống như: nghề đúc đồng, nghề làm bánh tráng (huyện Diên Khánh), nghề làm gốm (Lư Cấm, thành phố Nha Trang), nghề làm nem, dệt chiếu (thị xã Ninh Hòa)…
Khánh Hòa có thế mạnh lớn về ẩm thực biển mang đậm đặc trưng duyên hải. Những loại hải sản vô cùng phong phú (cá, cua, tôm, mực, ốc…) có thể chế biến thành những món đặc sản hấp dẫn.
Thành phần dân cư ở đây có nguồn gốc đa dạng, nên phong cách ẩm thực cũng nhiều màu sắc. Đặc biệt Khánh Hòa nổi tiếng với đặc sản yến sào có vị thơm ngon hiếm có. Tổ yến vua (King nest) tạo thành thương hiệu ẩm thực của Khánh Hòa.
Từ hiện trạng di sản văn hóa trên đây, có thể thấy, Khánh Hòa là tỉnh có nguồn tài nguyên nhân văn vô cùng phong phú mà ta có thể phối, kết hợp, khai thác, tạo thành những sản phẩm du lịch đa dạng, giúp đẩy mạnh kinh tế biển của địa phương.
Cùng với những điều kiện thuận lợi như sự ưu đãi của thiên nhiên, các bãi biển đẹp và thơ mộng, khí hậu ấm áp, hiền hòa, cơ sở hạ tầng đang được đầu tư và nâng cấp nhanh chóng, Khánh Hòa là vùng đất đầy tiềm năng để trở thành một trong những trung tâm du lịch lớn nhất Việt Nam.
Hiện nay Festival Biển Nha Trang hai năm một lần là sản phẩm du lịch khá thành công của Khánh Hòa, thể hiện sự kết hợp khá tốt trong việc khai thác các loại tài nguyên du lịch khác nhau. Những năm gần đây, Nha Trang liên tục được lựa chọn làm nơi tổ chức các sự kiện văn hóa lớn của quốc gia và thế giới: các cuộc thi Hoa hậu Việt Nam, Hoa hậu Thế giới người Việt 2007 và 2009, Hoa hậu Hoàn vũ 2008, Hoa hậu Trái Đất 2010... đang khẳng định hướng đi đúng của ngành du lịch Khánh Hòa trong việc củng cố và khẳng định thương hiệu du lịch của mình.
2. Du lịch biển, đảo Khánh Hòa thời kỳ hội nhập và phát triển
Trong bối cảnh nền chính trị ở nhiều nước, nhiều khu vực trên thế giới có những biến động phức tạp. Các cuộc chiến tranh, xung đột liên tiếp diễn ra ở nhiều nơi thì Việt Nam là điểm đến an toàn và thân thiện. Chính sách đổi mới và mở cửa của Đảng và Nhà nước, chế độ chính trị ổn định, an ninh đảm bảo, con người Việt Nam mến khách... là những tiền đề thuận lợi cho du lịch phát triển.
Ở trong nước, nền kinh tế phát triển khá nhanh, đời sống vật chất cũng như tinh thần của người dân ngày càng được cải thiện đã làm gia tăng nhanh nhu cầu hưởng thụ văn hóa và tham quan du lịch.
Tuy nhiên, trong bối cảnh hội nhập hiện nay, ngành du lịch Khánh Hòa cũng đang phải đối mặt với không ít khó khăn, thách thức. Bước vào sân chơi quốc tế, chúng ta phải chấp nhận những luật chơi chung, mà trước hết là sự cạnh tranh bình đẳng. Sự cạnh tranh giữa các quốc gia và giữa các sản phẩm du lịch trở nên khốc liệt hơn, không chỉ về giá cả mà còn về chất lượng phục vụ.
Trong những năm tới, mức độ cạnh tranh sẽ còn diễn ra gay gắt hơn, trên bình diện rộng và sâu hơn. Điều đó đòi hỏi ngành du lịch Khánh Hòa phải có những bứt phá và nỗ lực lớn hơn nữa thì mới có thể hội nhập thành công.
Việt Nam trong đối sánh với các nước trong khu vực và thế giới mới chỉ là nước có du lịch phát triển ở mức khiêm tốn. Riêng đối với khu vực Đông Nam Á, những năm gần đây, Singapore, Malaysia, Thái Lan, Indonesia, Brunei là những nước có tốc độ tăng trưởng lớn nhất thế giới về lượng khách quốc tế. Singapore được đánh giá nằm ở top đầu trong những nước phát triển du lịch nóng nhất với thu nhập mỗi năm hơn 10 tỷ đô la Mỹ và mỗi người dân trung bình đón gần 3 khách quốc tế mỗi năm. Gần đây, trong so sánh với Malaysia đón được gần 14 triệu lượt khách trên tổng dân số 25 triệu dân.3 Trong khi đó, Việt Nam chỉ đón được trên dưới 5 triệu lượt khách quốc tế trên tổng số 86 triệu dân trong các năm 2009, 2010. Và cái đích mà du lịch Việt Nam hướng tới đến năm 2015 thực sự vẫn còn là khá khiêm tốn: 7,5 triệu lượt du khách nước ngoài với thu nhập từ 7 đến 8 tỷ đô la.
Trong thời đại ngày nay, nhu cầu và đòi hỏi của du khách về hưởng thụ văn hóa trở nên ngày một cao hơn. Các sản phẩm du lịch văn hóa phải đáp ứng được thị hiếu ngày càng khắt khe của họ. Giữa thời đại bùng nổ thông tin, du khách có thể dễ dàng lựa chọn điểm đến của mình. Nếu không có điểm tựa văn hóa, chỉ dựa vào tài nguyên thiên nhiên, tài nguyên khí hậu thì du lịch địa phương sẽ khó có sức cạnh tranh cao.
Đặc biệt, trong xu thế toàn cầu hóa, việc bảo tồn và giữ gìn di sản văn hóa trong phát triển du lịch đang đặt ra những vấn đề cấp bách. Việc khai thác di sản quá mức, phát triển du lịch quá nóng, thiếu nguyên tắc đang đem tới những mặt trái, những tác động tiêu cực đến di sản. Nhiều di sản văn hóa Việt Nam phải đối mặt với những thách thức, áp lực từ tình trạng xuống cấp, xâm hại di sản, sự thương mại hóa, làm tổn thương hoặc biến dạng di sản, nhất là những di sản văn hóa phi vật thể. Không ít sản phẩm văn hóa do chạy theo mục tiêu lợi nhuận, mục tiêu kinh tế đã bóp méo, cải biên di sản, phản ánh không chân thực giá trị của truyền thống, làm sai lệch hình ảnh văn hóa dân tộc.
Hiện nay, cách làm khôn ngoan nhất của nhiều siêu cường du lịch là bảo vệ và đề cao bản sắc văn hóa dân tộc, biến văn hóa thành thương hiệu cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Những nước có lịch sử lâu đời, có nền văn hóa đặc sắc luôn là điểm đến hấp dẫn, mời gọi đối với du khách. Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc, Thái Lan là những quốc gia đã rất thành công trong việc “xuất khẩu” văn hóa thông qua con đường du lịch, dùng văn hóa làm công cụ để chiếm lĩnh các thị trường xuất khẩu hàng tiêu dùng trong khu vực và trên thế giới.
Do vậy, việc khai thác, phát huy di sản văn hóa ở Khánh Hòa phải gắn liền với việc giữ gìn, tôn tạo các tài nguyên này. Bảo vệ di sản văn hóa chính là một trong 3 tiêu chí để đảm bảo phát triển du lịch bền vững: bền vững về kinh tế; bền vững về tài nguyên môi trường và bền vững về văn hóa-xã hội.
Hai phương diện bảo tồn và phát huy di sản trong phát triển du lịch luôn phải gắn bó mật thiết với nhau. Bảo tồn là cái gốc, là cơ sở để phục vụ cho phát huy và ngược lại, phát huy giúp cho bảo tồn di sản được tốt hơn, vững bền hơn. Di sản văn hóa nếu chỉ bảo tồn, đóng khung mà không đem ra sử dụng thì không phát huy được giá trị ẩn chứa bên trong. Phát huy sẽ tạo ra hướng tiếp nhận, ảnh hưởng mới làm cho các giá trị văn hóa không những không bị lãng quên mà còn được củng cố và lan rộng. Và chỉ khi các giá trị của di sản văn hóa được khai thác, phát huy thì mới có cơ sở, có điều kiện vật chất để bảo tồn chúng.
Bên cạnh đó, việc phát huy tốt giá trị của di sản tuy mang lại một lợi ích vô hình nhưng vô cùng cần thiết đối với chúng ta. Nó giúp người dân nâng cao hiểu biết, nhận thức về di sản. Đồng thời, tác động trực tiếp tới ý thức bảo vệ di sản của cộng đồng.
Vì vậy, khi khai thác di sản phục vụ du lịch, việc xử lý hài hòa mối quan hệ giữa bảo tồn và phát triển là một bài toán khó cho ngành du lịch Khánh Hòa: bảo tồn không cản trở sự phát triển; phát triển không làm tổn hại đến bảo tồn.
3. Đẩy mạnh khai thác di sản văn hóa biển, đảo ở Khánh Hòa trong phát triển du lịch bền vững
Trước hết, ta cần nghiên cứu, tìm hiểu thấu đáo các giá trị di sản văn hóa biển, đảo của địa phương. Muốn vậy, cần có một cuộc tổng kiểm kê di sản văn hóa vật thể và phi vật thể vùng duyên hải và hải đảo. Trên cơ sở đó, giúp các nhà quản lý có căn cứ khoa học để lựa chọn, tìm ra những giá trị đặc sắc, tiêu biểu nhất để có thể biến thành tài nguyên du lịch hoặc để đề xuất các chính sách đầu tư, tôn tạo, và khai thác di sản.
Từ các tài nguyên văn hóa ấy, ta xây dựng thành các sản phẩm du lịch đa dạng, hấp dẫn, đáp ứng được nhu cầu, thị hiếu của du khách. Cần chuẩn bị những "thực đơn" du lịch văn hóa nhiều màu sắc để du khách có thể lựa chọn hưởng thụ. Phối hợp các loại hình du lịch đa dạng: nghỉ dưỡng, khám phá, thể thao, giải trí, mạo hiểm, hội nghị… để giới thiệu những nét đẹp ẩn chứa trong những di sản văn hóa vật thể và phi vật thể ấy. Ví dụ, tour du lịch tham quan đảo Hòn Nội kết hợp với lễ hội Yến Sào thờ Bà Chúa đảo Yến... Tăng cường khai thác những yếu tố lịch sử, tâm linh để hình thành những tour du lịch có nội dung tinh thần phong phú, có chiều sâu văn hóa, giúp du khách nâng cao hiểu biết, bồi bổ kiến thức cho mình.
Chú trọng phát triển du lịch cộng đồng nhằm huy động tối đa sự tham gia của người dân địa phương. Du lịch cộng đồng là cách tốt nhất để sử dụng các dịch vụ tại chỗ, phát triển văn hóa địa phương, thúc đẩy nghề truyền thống, kích thích người dân tham gia giữ gìn di sản văn hóa. Đây cũng là hình thức thiết thực nhất tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người dân, góp phần phát triển kinh tế, củng cố bình ổn xã hội. Hiện nay, nhiều làng chài ven biển đã khai thác rất hiệu quả các điều kiện tự nhiên và nhân văn của mình, tạo nên những sản phẩm du lịch độc đáo: làm tranh cát, câu cá, câu mực, chèo thuyền, lắc thúng, ngắm san hô, xem rùa đẻ, xem tảo phát sáng, ngủ trại trên bãi biển, sống trong các ngôi nhà sinh thái gần gũi với thiên nhiên (làm từ tranh, tre nứa, dừa), chế biến hải sản trên biển hay trong các vựa cá,... Tất cả tạo cho du khách có những giây phút trải nghiệm lý thú và bổ ích về đời sống ngư dân.
Trong xu thế hội nhập quốc tế hiện nay, để chủ động xúc tiến du lịch, mở rộng thị trường và tạo những sản phẩm liên kết mang tính khu vực và quốc tế, ta cần đẩy mạnh liên kết với các doanh nghiệp lữ hành nước ngoài. Cần khuyến khích những sáng kiến mới trong việc giao lưu và quảng bá văn hóa, chú trọng đến mối quan hệ giữa số lượng và chất lượng đối với du khách nước ngoài. Tăng cường học hỏi kinh nghiệm các nước có du lịch biển, đảo (đơn cử các nước ngay trong khu vực: Malaysia, Singapore, Thái Lan (với các bãi biển Pattaya, Phuket…).
Nâng cao chất lượng đội ngũ những người làm du lịch theo hướng chuyên nghiệp hóa: từ công tác marketing, kinh doanh nhà hàng, khách sạn đến đội ngũ hướng dẫn viên, công tác quảng bá... Đặc biệt, vai trò của các hướng dẫn viên tại các điểm di sản văn hóa có ý nghĩa rất quan trọng. Họ có thể trở thành những đại sứ văn hóa đối với du khách nước ngoài, làm cầu nối giữa di sản - công chúng đối với du khách trong nước. Những người làm du lịch văn hóa phải là người có phông nền kiến thức tốt, am tường lịch sử, địa lý, văn hóa của vùng đất, có cách diễn giải, thuyết minh hay và quan trọng là có lòng yêu nghề. Hướng dẫn viên chính là một phần quan trọng tạo nên thành công của chuyến đi.
Nâng cao nhận thức của người dân về vai trò của di sản văn hóa trong phát triển du lịch, giúp họ có ý thức hơn trong việc trân trọng và giữ gìn di sản. Cần làm cho cộng đồng hiểu rõ phương châm lấy văn hóa để phát triển du lịch và ngược lại phát triển du lịch là để bảo tồn và phát huy di sản văn hóa, qua đó, gia tăng sự ủng hộ của cộng đồng đối với bảo tồn di sản. Tuy nhiên, bên cạnh đó, cũng phải trang bị cho họ những hiểu biết về những mặt trái mà sự phát triển này có thể mang lại, nhằm giảm bớt những nguy cơ và hậu quả không mong muốn.
Du lịch bền vững phải gắn với bảo vệ môi trường sinh thái: cần giữ gìn cảnh quan, môi trường xung quanh các di tích-danh thắng, Không khai thác cạn kiệt tài nguyên của biển, giữ gìn sinh thái biển, đảo. Giáo dục người dân và du khách nâng cao ý thức bảo vệ môi trường sinh thái, giữ gìn vệ sinh chung (không xả rác và chất thải ra biển, không chặt phá rừng ngập mặn, khai thác bừa bãi san hô, đánh bắt hải sản mang tính hủy diệt…).
Với những tiềm năng văn hóa và du lịch to lớn của mình, Khánh Hòa đã và đang là điểm đến lý tưởng cho du khách. Trong những năm gần đây, số lượt du khách và doanh thu từ dịch vụ du lịch ngày càng tăng đã chứng tỏ sức hấp dẫn rất riêng, rất quyến rũ của vùng đất, văn hóa và con người xứ Trầm Hương. Có cơ sở để tin rằng đến năm 2020, Khánh Hòa sẽ đạt được mục tiêu kinh tế biển và ven biển chiếm 55 – 60% GDP toàn tỉnh như Đảng bộ và chính quyền địa phương đã đề ra, trong đó du lịch biển, đảo có đóng góp một phần không nhỏ.
Tài liệu tham khảo
- 1.Nghị quyết TW 4: Nghị quyết Trung ương 4 khóa X của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam.
- 2.Nguyễn Văn Đính, Trần Thị Minh Hòa 2004: Giáo trình kinh tế du lịch, Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội.
- 3.Phạm Trung Lương (cb) 2000: Tài nguyên và môi trường du lịch Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
- 4.Trần Đức Thanh 1999: Nhập môn khoa học du lịch, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
- 5.Trần Nhạn 1995: Du lịch và kinh doanh du lịch, Nxb Văn hóa, Hà Nội.
- 6.Trương Đăng Tuyến 2011: Tiềm năng của di sản văn hóa trong bối cảnh phát triển du lịch ở Khánh Hòa. - Kỷ yếu Hội thảo Di sản văn hóa Nam Trung bộ với sự phát triển du lịch trong hội nhập quốc tế, UBND tỉnh Phú Yên – Viện Văn hóa nghệ thuật Việt Nam, TP.Tuy Hòa, ngày 2/4/2011.
- 7.UBND tỉnh Phú Yên - Viện Văn hóa nghệ thuật VN 2011: Di sản văn hóa Nam Trung bộ với sự phát triển du lịch trong hội nhập quốc tế, Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc tế, TP. Tuy Hòa - Phú Yên, ngày 2/4/2011.
Nguồn: Văn hóa Biển Đảo Khánh Hòa, NXB Văn hóa, 2012.