1. Một công trình văn hóa độc đáo bị lãng quên
Một tòa thành bằng đá sừng sững với một diện tích trên 76 ha, tồn tại đã hơn 600 năm, bị cố tình quên đi giá trị văn hóa, lịch sử, chỉ vì những quan niệm rất khác nhau về một triều đại phong kiến vốn là chủ nhân khởi dựng ra nó. Mặc nhiên, những huyền thoại lịch sử vẫn luôn sống động trong dân gian, những câu chuyện có thực hàng ngày vẫn diễn ra đâu đó, ở các làng Xuân Giai, Cẩm Bào, Xuân Áng, Vĩnh Long, Tây Giai... người nông dân khai khẩn trồng trọt trong thành nội đã bắt gặp nhiều di vật bằng vàng, bạc, gốm là đồ trang sức có in ấn triện của Hoàng cung. Đầu TK XX, một học giả người Pháp, L.Bezacier, khi nghiên cứu về tòa thành đá này viết: “Những công trình xây dựng, cung điện, dinh thự khác nhau bằng gỗ bên trong thành trước đây đã hoàn toàn biến mất trên mặt đất. Tuy nhiên, có điều rất thú vị lưu ý rằng các khoảnh ruộng lúa đã chồng lên các nền móng cũ của các bức tường. Khi quan sát trên máy bay còn thấy rõ sự nhô lên trên nền đất các cửa, hình dáng chung của các dinh thự, nền và lối đi rất rõ nét...”.
Nhiều di vật của Hoàng cung đã bị mất, hoặc vẫn còn bị chôn vùi trong lòng đất. Cuốn sách giới thiệu về tòa giám mục Phát Diệm phát hành năm 1989, đoạn tả về kiến trúc nhà phương đình có ghi: “Sập đá của thành nhà Hồ được đưa về đặt tại nhà phương đình; sập đá cao 0,70m, rộng 3,0m, dài 4,0m”. Tòa thành đá cao lớn ngạo nghễ trong không gian và thời gian, mặc dù nhiều hiện vật lộ thiên đã thất lạc, nhiều di vật to lớn như đôi rồng đá ở trung tâm hoàng thành đã bị bào mòn nhiều chi tiết, bốn cổng đá lớn có nhiều dấu hiệu sụt lở. Kiến trúc một kinh thành bằng đá ở TK XV còn lại ngày nay như một chứng tích chứa đựng nhiều bí mật của một triều đại ngắn ngủi, nhưng để lại không ít thị phi và thách thức, hứa hẹn nhiều điều đối với các nhà nghiên cứu văn hóa. Đúng như lời phân tích trong hồ sơ bảo vệ di sản văn hóa quốc tế của Sở VHTTDL Thanh Hóa: “Thành Nhà Hồ là một công trình có giá trị nổi bật toàn cầu với kiến trúc kiểu kinh thành phương Đông, vừa là trung tâm quyền lực, vừa là pháo đài quân sự, thể hiện sự gắn kết tài tình giữa công trình kiến trúc với cảnh quan văn hóa và thiên nhiên”.
2. Sự hấp dẫn từ cảnh quan và di vật văn hóa
Trước hết, để có thể đánh giá hết về sự độc đáo, kỳ vĩ của một tòa thành đá độc nhất, vô nhị ở Đông Nam Á và châu Á vào TK XV này thì cần liên hệ tới một số công trình khác trong khu vực. Những công trình bằng đá có trước thành nhà Hồ ở Campuchia là Angkovat và Angkothom, do vua Suriya Varman II ở TK XII khởi dựng, một thức kiến trúc đền núi theo tư tưởng của Phật giáo Ấn Độ. Một công trình kiến trúc bằng đá khác trong vùng có trước nữa cần xem xét là Borobudur ở đảo Java thuộc Indonexia, một dạng Vihara Buddha do triều đại vua Sailendra xây dựng ở TK IX. Cả hai công trình trên đều được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới (Angkovat và Angkothom năm 1970, Borobudur năm 2007). Cùng niên đại với thành nhà Hồ, ở Trung Quốc là thời Chu Đệ (đời vua thứ hai nhà Minh) đã xây dựng Tử Cấm thành (cố cung) vào năm 1406, một công trình kiến trúc gỗ vĩ đại bậc nhất thế giới, được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới năm 1987 (công trình này có sự tham gia của của một kiến trúc sư người Việt vốn là một giám quan có tên là Nguyễn An). Angkovat, Angkothom và Borobudur là các công trình tín ngưỡng theo phong cách Phật giáo Ấn Độ; Tử Cấm thành là hoàng cung của 24 đời vua các thời kỳ khác nhau ở Trung Hoa. Các công trình này không có mối liên hệ gì đến phong cách kiến trúc với thành nhà Hồ.
Sự độc đáo của thành nhà Hồ chính là ở giá trị kiến trúc của một kinh đô, lại xây dựng theo kiểu pháo đài quân sự. Đồ án kiến trúc chủ yếu dựa vào địa thế tự nhiên của một vạt đồng bằng nhỏ, được bao bọc bởi các ngọn núi kế tiếp nhau hai bên tả, hữu sông Bưởi và sông Mã. Tòa thành bằng đá được gọi là Hoàng thành, có cạnh tường bắc dài 877,0m, cạnh tường nam 877,1m, cạnh tường tây 880,0m, cạnh tường đông 879,3m. Thành có chu vi 3513,4m, diện tích 769.086m2. Thành nhà Hồ được hiểu theo hai nội dung: tổng quan kiến trúc của một kinh thành, bao gồm một không gian rộng lớn từ vùng ngoại vi thành đá hiện có, đó là phố xá của một kinh kỳ và hoàng thành; nghĩa thứ hai được hiểu thành nhà Hồ chỉ là tòa thành bằng đá, vốn là thành nội của vương triều nhà Hồ. Tòa thành nằm lọt trong một thung lũng, phía tây bắc là dãy núi Song Tượng (voi mẹ, voi con), phía tây và tây nam có 5 ngọn núi hợp thành khu Động An Tôn với các núi Kim Ngưu và Kim Ngọ, điểm hợp lưu của sông Mã và sông Bưởi ở phía nam kinh thành. Địa thế của căn cứ quân sự này dễ dàng kết nối với núi rừng và nhanh chóng tiến xuống đồng bằng, tiếp cận nam - bắc đều thuận tiện, chính đây là yếu tố hết sức hấp dẫn khiến cho Hồ Quý Ly quyết định xây dựng Tây Đô vào năm 1937.
Bốn cổng thành vốn là biểu tượng rất độc đáo không thể nhầm lẫn với bất kỳ một công trình kiến trúc nào khác. Mỗi cổng thành mang theo một hình thái kiến trúc riêng. Cửa Nam (cửa tiền) thuộc đất làng Xuân Giai ngày nay, nối thẳng đến đàn Nam Giao trên núi Đún (cách 3,0 km), cửa rộng tới 34,85m, gồm 1 cửa lớn cao 8,5m, rộng 5,85m ở trung tâm, 2 cửa bên cao 7,8m, rộng 5,445m. Cả 3 cửa đều xây theo vòm cuốn, đá được đẽo vát hình thang xết ken khít nhau vững chắc. Cửa Bắc chỉ có một lối đi chính, vòm cuốn cao 5,425m, rộng của vòm cuốn 5,80m; cửa rộng toàn phần 21,342m, sâu 13,55m, cao đỉnh 8,098m. Cửa Nam và cửa Bắc được kiến trúc hoàn chỉnh, hiện còn nhiều dấu vết về cối kê, hèm cửa, đặc biệt nhiều chân lỗ cắm lan can, hàng chân tảng, biểu hiện của một vọng lâu trên gác mái rõ rệt. Cổng Nam và cổng Bắc hợp thành đường chính đạo xuyên qua công trình. Cửa Tây và cửa Đông hiện còn cho thấy một đồ án kiến trúc chưa hoàn chỉnh, phản ánh sự thi công gấp gáp của một pháo đài quân sự, dấu vết dang dở còn lại đến ngày nay. Kiến trúc cổng Nam thành nhà Hồ là một đồ án cổng có vọng lâu, một thức kiến trúc rất độc đáo, bao gồm 3 phần đặc trưng theo chiều ngang (3 cửa ra vào), 3 tầng theo chiều cao (mền móng, cửa thành, vọng lâu), thuộc loại có sớm nhất, to lớn nhất. Từ sau TK XV, thức kiến trúc này được áp dụng vào nhiều công trình khác trong nước và khu vực.
Các di vật bằng chất liệu đá hiện có trên công trình chủ yếu thuộc nhóm vật liệu xây thành. Có đến 10 loại vật liệu đá theo nhiều nhóm chức năng khác nhau trong công trình. Đá phiến xây móng, cỡ kích gần vuông, trung bình 2,5 x 1,8 x 1,5m. Đá bó thành hình khối hộp, chữ nhật, chiều rộng, dài khác nhau (kích thước không đồng nhất, chứng tỏ việc chế tác đá và xây dựng thành khá linh hoạt) phổ biến là 2,2 x 1,5 x 1,2m, nhiều viên lớn hơn gấp hai lần, nhiều điểm đá được đẽo gọt cho vừa hình khối, diện tích tường xây. Đá chèn vòm cuốn hình thang hộp, cạnh đỉnh bé hơn cạnh đáy lớn thường là 1/4. Đá làm kết cấu mộng, trụ, cối, kê cửa. Đá làm chân tảng trên hai vọng lâu cửa Nam và Bắc. Đá làm vật trang trí máng nước, trụ lan can. Đá làm bi đạn. Đá làm bi vận chuyển vật liệu... Do thành nội đã hoang phế hàng mấy trăm năm, nên các di vật điêu khắc đá chỉ còn đôi rồng đá có hình uốn lượn sóng nước, tạo nên 7 nhịp, biên độ cao 0,9m, dài gần 4,0m. Tượng rồng chầu về hướng làng Tây Giai (cửa thành Nam), có bốn chân, mỗi chân có 3 móng, hình khối khỏe mạnh, căng tròn, nhưng uyển chuyển. Tuy đầu rồng đã bị đập vỡ, nhưng dáng vẻ vẫn sống động, uy lực vẫn rất mạnh mẽ. Đây là tượng rồng điển hình ở TK XV. Nhiều giai thoại huyền bí về đôi rồng đá này, đặc biệt những thêu dệt về việc đầu rồng bị triệt phá, nhiều giả thuyết đặt ra, nhưng quy tụ vẫn là sự thiêng liêng của di vật, sự ám ảnh của một triều đại phong kiến khá đặc biệt trong lịch sử.
Các di vật bằng kim loại như đồ đồng hiện chiếm vị trí khá khiêm tốn, bởi lẽ đã hơn 600 năm rất khó tồn tại do giá trị tự thân của vật liệu. Tuy nhiên những kết quả khai quật khảo cổ mấy chục năm gần đây cho thấy, không ít di vật bằng đồng như tiền, tên, đạn bi ở di tích là khá đa dạng.
Các di vật là chất liệu gốm, đất nung có một giá trị tiêu biểu tại khu di sản văn hóa thế giới này. Có lẽ yếu tố kiến trúc đá quá cuốn hút nên người ta chưa có dịp nghiên cứu nhiều hơn về đồ gốm, đất nung tại đây. Có đến hàng nghìn đơn vị là hiện vật gốm, đất nung đã được đưa vào bộ sưu tập ở thành nhà Hồ. Tuy nhiên, con số này mới chỉ là một phần rất khiêm tốn so với những gì còn lại dưới lòng đất. Đồ gốm tại thành nhà Hồ sẽ mang lại nhiều ý nghĩa, bởi mối quan hệ đặc biệt của việc xây thành một cách gấp gáp, phải tháo gỡ nhiều vật liệu từ Thăng Long đưa về. Đặc biệt hệ thống gạch bìa, gạch bó, vỉa mà Chu Quang Trứ đã phát hiện từ 1976 nay khai quật phát hiện thêm nhiều chủng loại rất đa dạng với số lượng hàng trăm viên. Đây là loại gạch nung dùng để bó vỉa, xây cống thoát nước, ốp bìa mặt công trình. Mỗi loại gạch bên cạnh dọc hoặc cạnh ngang có dấu triện chữ Hán - Nôm, nội dung chủ yếu là ghi địa danh nơi cúng tiến, một số loại ghi nội dung khác. Kỹ thuật nung gạch đã đạt ở nhiệt độ cao, chín đều, bề mặt mịn, dấu triện đóng lên gạch, kiểu âm bản hay dương bản, khắc đẹp, tinh xảo. Các minh văn ghi trên gạch nung cho nhiều thông tin tư liệu lịch sử quý giá.
Vùng Vĩnh Lộc chiếm số lượng địa danh cung cấp gạch nhiều nhất, tuy nhiên có nhiều loại gạch ghi xuất xứ tận vùng Tuyên Quang, Hải Hưng... Theo Đại Việt sử ký toàn thư thì: “Vào năm Tân Tỵ (1401) Hán Thương ra lệnh cho các lộ nung gạch để dùng vào việc xây thành. Trước đây xây thành Tây Đô, tải nhiều đá tới xây, ít lâu sau bị sụp đổ, đến đây mới xây trên bằng gạch, dưới bằng đá”. Cứ theo sách trên thì gạch xây trên thành sẽ có rất nhiều, nay chỉ có thể khai quật tìm thấy phần còn dưới lòng đất. Vậy phần kiến trúc gạch xây trên thành có hình thức kiến trúc như như thế nào? Đó vẫn là một bí mật, chưa được làm sáng tỏ.
3. Sự hấp dẫn, ly kỳ từ huyền thoại
Thành Tây Đô chỉ tồn tại vẻn vẹn 7 năm (1400-1407) với tư cách là một kinh đô của nhà Hồ, tuy nhiên với ưu điểm đặc biệt của một thành lũy kiên cố bằng đá, lại ở vào một vị thế rất đắc dụng cho việc dụng binh mà nhiều thế lực quân sự, chính trị ở các thời kỳ sau đó đã sử dụng thành làm căn cứ (quân nhà Minh ở TK XV, nhà Hậu Lê TK XVI, XVIII...). Nhiều di vật văn hóa tại đây, thu được qua các lần khai quật khảo cổ, cho thấy sự đa dạng của nhiều thể loại phong cách đại diện cho mỹ thuật của các thời kỳ Trần, Lê, Nguyễn. Mặt khác, do tính chất ly kỳ nửa thực, nửa hư của các câu chuyện nửa lịch sử, nửa huyền thoại mà thành cổ Tây Đô càng thêm bí hiểm.
Về lịch sử xây dựng thành sách Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Năm Đinh Sửu (1397) mùa xuân, tháng giêng, Lại bộ thượng thư kiêm Thái sử lệnh Đỗ Tỉnh vâng mệnh vua (vua Trần Thuận Tông) đem người vào động An Tôn, huyện Vĩnh Ninh, trấn Thanh Hóa, xem xét, đo đạc đất đai, đào hào xây thành, lập nhà tông miếu, dựng đàn xã tắc, xây cung điện, mở đường phố. Vua có ý dời đô đến đó. Làm 3 tháng thì xong”. Một công trình kỳ vĩ có đến 24.000m3 đá xây dựng, tương đương với 40.000m3 đá nguyên liệu, với kỹ thuật thô sơ ở TK XV, lại phải xây dựng thêm các lầu gác, cung điện..., liệu 90 ngày làm xong bằng cách nào?
Những câu chuyện ly kỳ về kỹ thuật xây thành, với các giả thuyết khác nhau, về việc vận chuyển 24.000m3 đá từ núi An Tôn về đây, việc đưa những phiến đá lớn lên thành, có viên nặng trên 20 tấn. Những công việc lao dịch khẩn trương trên công trường đá ở TK XV, nhằm gấp rút hoàn thành pháo đài để chuẩn bị cho việc phòng thủ quân sự là duyên cớ gây ra biết bao cảnh tang thương, bi tráng như câu chuyện về nàng Bình Khương và chàng cống sinh Trần Công Sỹ...
Câu chuyện về hội thề trên núi Đún Sơn vào mùa hạ năm 1399, cũng như cái chết của 370 người cùng phe cánh với Thượng tướng quân, Vũ tước quan Nội hầu Trần Khát Chân và hàng ngàn con, em, thân thích của họ bị xử chết, tội đầy... rất bi tráng kéo dài nhiều năm tại đây. Sách Đại Việt sử ký toàn thư viết: “Người đời truyền rằng Khát Chân khi sắp bị chém, lên núi Đốn Sơn gào thét ba tiếng. Chết qua ba ngày sắc mặt vẫn như sống, ruồi nhặng không dám bậu vào. Sau đó gặp đại hạn đảo vũ thì ứng ngay”.
Câu chuyện về họ Hồ thất trận, hoàng tộc kéo nhau vào rừng sâu lánh nạn. Chuyện về ý chí kiên cường chống trả quân nhà Minh của quân sĩ họ Hồ không thành công để lại dấu tích An Tôn ngày nay trên đất xã Vĩnh Yên (phía tây bắc thành).
Câu chuyện về việc xây đàn tế Nam Giao năm 1402, sách Đại Việt sử ký toàn thư viết: “Nhâm Ngọ 1402, tháng 8, Hán Thương sai đắp đàn Nam Giao ở núi Đốn Sơn để làm lễ tế giao; đại xá thiên hạ. Ngày hôm lễ, Hán Thương ngồi trên kiệu Vân Long do cửa nam mà đi ra”. Ngày nay đàn Nam Giao còn khá nguyên trạng nền móng, như vậy tại đây có hai mốc lịch sử liên quan đến hai sự kiện: một là núi Đốn Sơn ở năm 1399 là đất mà Trần Khát Chân tổ chức hội thề và đất mà từ năm 1402 Hồ Hán Thương dùng làm đàn tế giao. Tại đây các dấu tích về giếng Vua, nền Thượng, nền Trung, nền Hạ còn khá rõ ràng. Dân gian vẫn còn đọng ký ức về ngọn núi linh thiêng với các buổi lễ giao hàng năm, với nhiều tên xóm, làng mang theo hình thế nghi thức lễ bái xưa như: Dọc Bái, Dọc Sen. Tục lễ giao từ thời nhà Hồ được nhà Lê, nhà Nguyễn thực hiện thành điển lễ rất quy củ sau này.
Ngày 27-6-2011, tại Paris (Pháp), Ủy ban di sản thế giới thuộc Tổ chức văn hóa, khoa học và giáo dục Liên hợp quốc (UNESCO) đã công nhận di tích thành nhà Hồ ở Thanh Hóa là di sản văn hóa thế giới. Thành nhà Hồ là một di sản văn hóa thế giới có nhiều giá trị độc đáo, trên cả bình diện văn hóa vật thể và phi vật thể. Những điều bí ẩn vẫn còn chờ đợi công tác khảo cổ học tiếp tục làm sáng tỏ. Nhưng những hiện vật, tư liệu hiện có cũng đủ làm cho di sản văn hóa thế giới này trở nên hấp dẫn du khách quốc tế và trong nước. Vấn đề là cần đầu tư cho công tác trưng bày hiện vật khảo cổ một cách trang trọng, tương xứng với giá trị quý hiếm của hàng ngàn hiện vật đang có. Cần nghiên cứu xác định rõ quy hoạch thành nội và tổ chức khảo cổ một cách có hệ thống, nhằm làm xuất lộ hình hài của tòa thành xưa và bảo tồn nó theo kiểu một bảo tàng khảo cổ học phục vụ du khách, thay vì vẫn cho canh tác nông nghiệp như ngày nay. Cần kết hợp phục dựng một phần đàn tế giao trên núi Đốn Sơn cho du khách xem một nghi thức tế giao ở TK XV. Cần quyết tâm quy hoạch lại không gian của thành ngoại, trong đó phục dựng lại hào thành là rất cần thiết, đây còn là giải pháp bảo tồn lâu dài cho tòa thành cổ.
Việc UNESCO công nhận di tích thành nhà Hồ ở Thanh Hóa là di sản văn hóa thế giới là một cơ hội đặc biệt để xúc tiến quảng bá thương hiệu cho các điểm du lịch đầy tiềm năng ở Thanh Hóa. Cùng với Khu di tích lịch sử văn hóa Lam Kinh, Khu Du lịch sinh thái văn hóa Hàm Rồng và Thị xã du lịch biển Sầm Sơn, chắc chắn thành nhà Hồ sẽ có vai trò động lực, thúc đẩy chuỗi các điểm du lịch tiềm năng ở Thanh Hóa hội nhập với du lịch quốc gia và quốc tế trong một tương lai gần.
Nguồn: Tạp chí VHNT số 334, tháng 4-2012