1. Những giá trị tiêu biểu của làng cổ Đường Lâm
Về cấu trúc tổng thể không gian làng xã truyền thống
Ngôi làng truyền thống của người Việt ở vùng châu thổ Bắc Bộ thường tập trung gọn vào một phạm vi không gian bao bọc bởi lũy tre. Làng thường có một lối vào chính, gọi là cổng trước, và một lối nhỏ hơn là cổng sau. Lối đi từ cổng trước đến cổng sau là con đường chính trong làng. Cổng làng có vai trò phân chia phần đất thổ cư (làm nhà ở, vườn), và đất canh tác ngoài cánh đồng... Những đặc điểm trên đều có thể tìm thấy ở làng cổ Đường Lâm.
Đường Lâm nằm trong vùng chân núi Ba Vì - Tản Viên, gần các sông Hồng, sông Đà, sông Tích, sông Đáy, mang cảnh quan của vùng trung du bán sơn địa với những đồi gò, rộc sâu, ruộng ven sông. Các làng xóm tụ cư quanh đồi gò và ven sông. Đặc biệt khi đến đây, vẫn còn thấy dấu vết của rặng duối cổ với 18 gốc (1) có niên đại gần 1000 năm tuổi, được gìn giữ và phát triển tốt.
Các làng cổ nơi đây liên kết với nhau rất chặt chẽ, tạo thành một thể thống nhất. Mỗi làng trong xã Đường Lâm không có sự phân tách bởi ruộng đồng đan xen, hay những lũy tre, ngoại trừ làng Cam Lâm nằm tách biệt so với các làng khác. Sự phân tách của các làng chỉ thông qua những trục đường bao. Ngoài ra, văn hóa, tín ngưỡng tôn giáo nơi đây cũng thể hiện tính gắn kết lịch sử bằng việc người dân công nhận đình tổng chung. Bên cạnh các đình riêng của từng thôn chùa Mía chung đặt tại làng Đông Sàng. Các ao chung đặt tại làng Mông Phụ, Đoài Giáp. Ngoài ra, một số công trình như đền Phủ bà chúa Mía, đền Phùng Hưng, lăng Ngô Quyền... được người dân coi là những di tích tín ngưỡng chung, không phân biệt của riêng làng nào.
Các di tích văn hóa lịch sử, và hệ thống các công trình kiến trúc
Trong quá trình đô thị hóa, sự phát triển cũng đi đôi với nguy cơ làm mất các giá trị văn hóa truyền thống nếu không được gìn giữ. Vùng đất Đường Lâm là quần thể di sản làng cổ thuần nông có bề dày truyền thống văn hóa. Mỗi di tích ở đây có vai trò, vị trí khác nhau, nhưng lại hòa quyện trong một không gian văn hóa chung tạo nên đặc trưng của làng quê truyền thống.
Cổng làng Mông Phụ được xây dựng vào đời vua Lê Thần Tông (1553). Người dân Mông Phụ đã rất khéo léo khi chọn hướng đông làm nơi đặt cổng làng, vì đây là nơi bắt nguồn ánh sáng của sự sống, nơi cho đất nhiều nguồn sinh lực nhất. Cổng làm theo kiểu thượng gia hạ môn (trên nhà dưới cổng), được xây bít đốc, có trụ đỡ mái và đầu nóc, bên trong có khung gỗ, kèo, hoành rui, mái lợp ngói. Thượng lương có dòng chữ khắc Thế hữu hưng nghi đại, nghĩa là “cuộc đời muốn được hưng thịnh cần phải thích nghi”(2), thể hiện quan điểm sống, phương châm xử thế của người xưa.
Đình Mông Phụ là ngôi đình cổ mang đậm dấu ấn của lối kiến trúc Việt - Mường (đình có sàn gỗ), một bông hoa về nghệ thuật kiến trúc, được lưu giữ trên những bức chạm cốn và đầu dư... Tinh vi trong từng nhát đục, song cũng tinh tế trong quy hoạch tổng thể với sân đình được đặt thấp hơn mặt bằng xung quanh, khi mưa xuống nước đổ ào ạt vào sân đình với ý niệm tụ thủy sinh tài - tín ngưỡng cầu nước và khát vọng ấm no của người dân vùng đồng cao, khô. Sân đình còn là một cái ngã sáu khổng lồ của hệ thống đường làng, xòe ra như những nan quạt tỏa về các xóm, cũng như quy tụ được mọi con đường làng về trung tâm đình. Đặc biệt, dù xuất phát ở điểm nào (đến hoặc đi) trên đường làng, không bao giờ ta quay lưng lại một cách trực diện với hướng chính của đình. Chính lối kiến trúc này đã góp phần gia tăng tính cố kết cộng đồng của người dân và tạo một không gian thoáng mát.
Chùa Mía (Sùng Nghiêm tự) được xây vào thời Trần trên một ngọn đồi đá ong giữa làng Đông Sàng. Đây là một ngôi chùa cổ, trong chùa còn lưu giữ và bảo quản được hệ thống các tượng Phật thờ và nhiều đồ thờ phong phú, đa dạng (287 pho tượng và nhiều di vật quý). Chùa Mía cùng với đền phủ bà chúa Mía, bến Mía, chợ Mía, cổng làng Đông Sàng... là những công trình gắn liền với tên tuổi và công lao to lớn của bà Ngọc Dong (Ngọc Dao) - một người con của quê hương và là cung phi của Thanh Đô vương Trịnh Tráng.
Chùa Ón (Ôn Hòa tự), ngược lại với sự quy mô bề thế của các công trình kiến trúc khác, là một ngôi chùa nhỏ, ít có giá trị về kiến trúc nghệ thuật, nhưng lại có vai trò quan trọng trong đời sống sinh hoạt văn hóa dân gian của người dân Mông Phụ. Trước chiến tranh, hàng năm tại mảnh sân nhỏ trước chùa vào ngày 3 - 3 âm lịch, dân làng đến đây làm lễ cúng các thần linh xứ đồng Ón phù hộ cho toàn dân có được những vụ mùa bội thu. Sau khi cúng lễ, làng tổ chức thi đấu vật và thả diều. Hội vật chùa Ón có ảnh hưởng lớn khắp vùng xứ Đoài xưa, thu hút nhiều đô vật về đây thi tài.
Ngoài ra còn nhiều công trình có giá trị khác trên vùng đất này như: đình Phùng Hưng, đền và lăng Ngô Quyền, nhà thờ họ, xích hậu, các quán, điếm canh, giếng cổ...
Hệ thống các ngôi nhà cổ với kiến trúc độc đáo
Đường Lâm là quần thể di tích nhà cổ đá ong nổi tiếng, được xây dựng mang đậm phong cách truyền thống về kiến trúc cũng như thẩm mỹ. Hiện còn hơn 800 ngôi nhà gỗ cổ truyền, trong đó có 164 ngôi có giá trị đặc biệt, tập trung chủ yếu ở làng Mông Phụ (100 ngôi nhà), với khoảng 45 ngôi nhà gỗ có độ tuổi trên 100 năm và khoảng 5 ngôi có độ tuổi trên 200 năm.
Nhà kết cấu theo kiểu 5 gian hay 7 gian 2 rĩ, 5 hàng chân cột, dựng theo kiểu quá giang vượt tường. Nhà chính phân biệt với hiên bằng ngưỡng cửa gỗ cao khoảng 40cm. Những ngôi nhà cổ được xây cất bằng các loại vật liệu truyền thống như đá ong (cấu tạo lên các bức tường, bảo đảm cho nhà mát về mùa hè, ấm về mùa đông), tre, gỗ xoan, nứa, gạch đất nung, trấu, bùn, mùn cưa, vôi, cát, sỉ, rơm rạ... Nhà nào có kinh tế khá giả thì dùng chất liệu gỗ tứ thiết (đinh, lim, sến, táu). Gian giữa, chiếm nhiều diện tích nhất trong ngôi nhà là nơi bố trí ban thờ tổ tiên, với các bộ hoành phi, câu đối, tranh ảnh cổ, đồ thờ, những kỷ vật..., phía dưới đặt bộ phản để ngồi. Nhà truyền thống ở đây mang đặc trưng của cư dân nông nghiệp, chưa bị tác động nhiều của lối sống đô thị. Hầu như không có kiểu nhà trổ cửa ra đường, cổng nhà cũng không nhìn chính diện gian giữa. Trong vườn, những cây lưu niên, cây cau, giàn trầu gợi vẻ thân thuộc, hòa nhập với thiên nhiên tạo nên sự bình yên, hạn chế những bất lợi của khí hậu.
Nét văn hóa ẩm thực độc đáo, đậm chất làng quê
Trong tâm thức của người dân xứ Đoài, những câu ca dao Kẻ Mía kéo mật hộn đường / Dưa hấu, dưa gang là làng Mông Phụ hay Chẳng đi nhớ cháo dốc Ghề / Nhớ cơm phố Mía, nhớ chè Đông Viên đã khắc họa phần nào nét văn hóa của người dân Đường Lâm. Nhiều món ăn được chế biến cầu kỳ, mang hương vị riêng, không nơi nào có như: chè Đông Viên, được nấu bằng đậu đen bung nhừ, mật mía re Đường Lâm và bột lọc từ bột củ đao hoàng tinh. Chè nấu đặc, cắt ra đông đặc như miếng thạch. Người làng Cam Lâm thường uống nước chè xanh, các làng khác như Phụ Khang, Mông Phụ... thường uống nước nụ vối, lá vối tự trồng trong vườn nhà. Cà trắng dầm tương cũng là một đặc sản, cà phải đảm bảo tiêu chuẩn to vừa phải, không quá non hoặc quá già, rửa sạch phơi qua cho ráo nước, ướp muối cho vào vại nén chua. Khi đã chua, lấy ra ép nước (để trên gỗ hoặc cánh cửa, đè gỗ, nén đá ong lên) rồi thả vào chum tương. Thường tháng 8, tháng 9 mùa gió heo may về, vớt cà ra, dùng dao thái từng miếng. Màu trong lòng quả cà đỏ au như hổ phách, cơm chan với nước luộc rau, ăn với cà dầm tương là thức ăn phổ biến của nhà nông.
Mảnh đất khoa bảng, hiếu học và các dòng họ trâm anh thế phiệt
Đây là vùng đất sinh ra những nhân vật nổi tiếng trong lịch sử dân tộc như Phùng Hưng, Ngô Quyền - anh hùng cứu nước; bà Man Thiện - thân mẫu của Hai Bà Trưng, đã góp sức cùng con gái và các nữ tướng đánh giặc Đông Hán những năm 43; bà Nguyễn Thị Ngọc Dao (Ngọc Riêu, Ngọc Dong) - cung phi của Thanh Đô vương Trịnh Tráng, người con gái hiền tài, đẹp nết; thám hoa Giang Văn Minh - nhà ngoại giao tài ba, dũng lược; Phan Kế Toại - quan khâm sai đại thần; Kiều Oánh Mậu - phó bảng...
Các làng cổ ở Đường Lâm gắn kết với nhau thành một thể thống nhất với phong tục, tập quán, tín ngưỡng hàng ngàn năm nay không thay đổi. Những lệ cổ hơi gàn, nhưng tạo nên nét độc đáo, cái hay, cái đẹp trong đời sống văn hóa nơi đây. Người Đường Lâm ai cũng nhớ chuyện cụ Phan Kế Toại (từng là khâm sai đại thần triều Nguyễn rồi Phó thủ tướng chính quyền cách mạng). Mỗi lần về, cụ đều hạ mã ở đầu làng, thay khăn xếp, áo the, guốc mộc vào làng, gặp ai cũng trịnh trọng chào. Nhiều vị quan vinh quy về làng, gặp đứa trẻ lên mười cũng tươi cười chào hỏi. Có ông chậm chào, lại nghênh ngang mũ áo vua ban, bị mấy cụ già gõ ống hút cành cạch vào điếu bát, thét: “Anh làm quan ở đâu thì làm. Từ cái cổng làng này đổ vào, anh chỉ là thằng cu sứt ở truồng chăn trâu. Anh láo, tôi cho tráng đinh nó vạch đít ra đánh cho mà toét mông!”. Cái lệ cổ gàn còn thể hiện ở việc trong làng xưa kia có nhiều anh chơi thân với nhau nhưng không lấy anh chị em họ hàng của nhau vì “cái làng khép tròn vo ấy nhiều khi bà con lấy nhau nhưng lại là họ hàng chưa xa lắm”, việc phân chia vai vế trong xưng hô và đặc biệt khi đi ăn tiệc làng hoặc có dịp cỗ bàn gặp nhiều khó khăn.
2. Hiện trạng phát triển du lịch
Trước khi được công nhận là làng Việt cổ, khái niệm và ý tưởng về kinh doanh du lịch trong tiềm thức của người dân nơi đây còn mờ nhạt và ít được quan tâm. Chưa có cơ quan, ban ngành nào phụ trách quản lý, hoạt động du lịch mang tính tự phát. Và thường là chương trình tham quan, dã ngoại của nhiều nhóm học sinh, sinh viên về ngắm cảnh làng quê hoặc do hướng dẫn viên du lịch các hãng lữ hành lớn ở Hà Nội và vùng khác đến Đường Lâm. Sau khi được công nhận là di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia năm 2005, các làng cổ Đường Lâm được biết đến nhiều hơn và trở thành điểm thu hút khách du lịch.
Thống kê lượng vé tham quan di tích làng cổ Đường Lâm thời gian qua cho thấy lượng khách du lịch có sự tăng trưởng. Năm 2005, có hơn 4.000 lượt khách, liên tục trong 5 năm qua lượng khách du lịch đã tăng lên gấp 6 lần. Cuối năm 2010 thống kê được 30.000 lượt khách mua vé thăm quan làng cổ. Và ước tính 9 tháng đầu năm 2011 có khoảng 46.000 lượt khách. Như vậy, trung bình một ngày có khoảng 300 - 500 lượt khách ghé thăm làng cổ Đường Lâm. Tăng trưởng về khách trung bình đạt 49,6%/năm.
Khách du lịch quốc tế chiếm tỷ lệ khoảng 40% - 41% tổng số khách đến Đường Lâm. Từ năm 2008 trở lại đây, thị trường khách du lịch quốc tế liên tục tăng trưởng ổn định ở mức 32,6%/năm. Trong cơ cấu khách quốc tế, đối tượng đến từ các quốc gia trong cộng đồng Pháp ngữ (Pháp, Canada, Hà Lan, Bỉ, Thụy sĩ, Luxambua...) chiếm 50%.
Thời gian qua, lượng khách du lịch tăng mạnh, tuy nhiên, họ chỉ ghé qua một lần, không lưu trú lại, lượng khách quay trở lại lần thứ 2 rất ít. Dịch vụ du lịch nơi đây còn nhiều hạn chế, du khách đến tham quan khó có thể tìm mua được những sản phẩm lưu niệm...
Đến nay, hoạt động du lịch tại các làng cổ ở Đường Lâm chưa thực sự phát triển tương xứng với tiềm năng. Trong làng có duy nhất 1 đơn vị kinh doanh du lịch là Công ty cổ phần du lịch làng cổ Đường Lâm, với khoảng 10 lao động trực tiếp được tuyển chọn và đào tạo ngắn hạn. Mặc dù, có khoảng hơn 3.000 người trong độ tuổi lao động có thể trở thành lực lượng bổ sung, tuy nhiên, đội ngũ tham gia vào hoạt động du lịch còn hạn chế.
Hiện cũng chưa có hướng dẫn viên du lịch nào được cấp thẻ, trình độ ngoại ngữ của thuyết minh viên chưa được chú trọng, khả năng giao tiếp với du khách quốc tế còn nhiều hạn chế
3. Hướng phát triển du lịch
Những giá trị nổi bật về cảnh quan, môi trường sinh thái, lịch sử... là điều kiện thuận lợi để Đường Lâm phát triển du lịch. Cùng với đó là sự mở rộng liên kết hợp tác cùng nhiều vùng khác trong và ngoài tỉnh để xây dựng, quy hoạch, bảo tồn, tôn tạo gắn với khai thác phát triển du lịch theo nhiều giai đoạn ngắn hạn, trung hạn, dài hạn...
Để hoạt động du lịch ở Đường Lâm có hiệu quả, cần thiết phải hình thành một Ban quản lý Du lịch tại làng cổ:
Ban quản lý có vai trò quan trọng trong quá trình triển khai hoạt động du lịch, là trung gian trong việc liên kết với các ban ngành liên quan để xây dựng phương hướng phát triển: phối hợp triển khai các hoạt động đào tạo, nâng cao năng lực đội ngũ nhân lực về các kỹ năng giao tiếp, nghiệp vụ nghề buồng, bàn, bếp, hướng dẫn và thuyết minh; chấn chỉnh các hoạt động dịch vụ du lịch để không làm tổn hại đến những giá trị văn hóa, tinh thần và môi trường của sản phẩm; căn cứ vào những giá trị văn hóa, kiến trúc, nét độc đáo, chất lượng dịch vụ của từng hộ kinh doanh... để tiến hành phân loại xếp hạng. Bộ máy của Ban quản lý du lịch cần gọn nhẹ, có sự tham gia của nhiều thành phần trong cộng đồng và được quản lý một cách tự chủ, minh bạch.
Phát triển du lịch là lối ra, nhưng đồng thời cũng xuất hiện nguy cơ phá vỡ các giá trị văn hóa quý báu vốn có. Bởi vậy, cần phải nhìn nhận, và có phương án phát triển du lịch một cách hợp lý, mang tính bền vững. Du lịch văn hóa là phương thức hiệu quả để có thể phát triển tiếp nối mạch nguồn truyền thống đặc sắc của làng cổ Đường Lâm. Bên cạnh đó, cần sớm hình thành một Ban quản lý phát triển du tại làng cổ với những chức năng nhiệm vụ cụ thể để có thể phối hợp cùng chính quyền địa phương và cơ quan quản lý chuyên ngành trong việc hình thành những thể chế, chính sách về phát triển du lịch, thiết lập cơ chế quản lý cũng như phân chia lợi nhuận của các bên liên quan nhằm đảm bảo sự phát triển bền vững.
_______________
1. Ngày 22-4-2011, Hội Bảo vệ thiên nhiên và môi trường Việt Nam, Liên hiệp các hội KHKT Hà Nội và UBND thị xã Sơn Tây tổ chức công bố và phát bằng chứng nhận Cây di sản cho rặng duối cổ gồm 18 cây ở khu vực đền - lăng Ngô Quyền, thôn Cam Lâm, xã Đường Lâm. Tương truyền đây là nơi vua Ngô Quyền từng làm chỗ buộc voi, buộc ngựa sau các cuộc tập trận cùng với nghĩa quân để chuẩn bị tiến về vùng cửa sông Bạch Đằng đánh quân Nam Hán.
2. Cũng có tài liệu khác ghi là Thế hữu hưng ngơi đại (Đời nào cũng có người tài giỏi), thể hiện niềm tự hào của dân làng về các danh nhân, anh hùng là con dân của làng.
Nguồn: Tạp chí VHNT số 333, tháng 3-2012