1. Vai trò của công tác thuyết minh
Theo định nghĩa của ngành Bảo tàng học (museology), thuyết minh là “diễn giải”, trình bày những nội dung ẩn chứa bên trong của một hiện vật, sưu tập hay sự kiện lịch sử quan trọng nào đó. Trong tiếng Anh công tác thuyết minh được gọi là interpret, còn thuyết minh viên thì gọi là interpreter. Sẽ không đúng với ý nghĩa của chuyên ngành Bảo tàng học nếu chúng ta gọi công tác thuyết minh là guiding và thuyết minh viên là local guide hay museum guide như lâu nay một số người quen sử dụng. Đối với một nhà bảo tàng, thuyết minh là một trong sáu khâu công tác quan trọng bao gồm: nghiên cứu - sưu tầm, trưng bày - thuyết minh và kiểm kê - bảo quản. Vì vậy, để phục vụ tốt cho công tác hướng dẫn khách tham quan, các bảo tàng phải đầu tư xây dựng cho mình một đội ngũ thuyết minh viên chuyên nghiệp, đủ mạnh để đảm trách một cách hiệu quả nhất phần nội dung trưng bày của bảo tàng mình.
Thực tế khi tham quan một số bảo tàng trên địa bàn thành phố, chúng tôi nhận thấy rằng hầu hết các thuyết minh viên đều có chuyên môn nghiệp vụ phù hợp với công tác bảo tàng, nhiệt tình, duyên dáng, có chất vọng tốt, biết thể hiện cảm xúc của mình cho phù hợp với các chủ đề trưng bày liên quan đến các sự kiện lịch sử trọng đại của đất nước hay của các lãnh tụ cách mạng. Bằng khả năng hiểu biết và nghiệp vụ chuyên môn của mình, nhiều thuyết minh viên đã tạo nên được ấn tượng sâu sắc trong lòng khách tham quan. Chính những điều này đã góp một phần tích cực vào sự thành công chung của bảo tàng và giúp khẳng định tên tuổi, chỗ đứng của một vài nhà bảo tàng trong hệ thống các bảo tàng trên toàn thành phố.
2. Những khó khăn thường gặp
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực của công tác thuyết minh cũng có những vấn đề cần phải thay đổi cho phù hợp với xu hướng hiện đại trong bối cảnh toàn cầu hóa và những nhu cầu đòi hỏi ngày càng cao của khách tham quan bảo tàng. Vấn đề dễ thấy nhất là một số bảo tàng hiện nay sử dụng những tòa nhà không đúng theo nguyên tác bảo tàng học nên gây khó khăn cho cả thuyết minh viên và khách tham quan. Do có nhiều phòng trưng bày nằm tách biệt nhau sẽ làm sao lãng sự chú ý của khách tham quan, nhất là những đoàn khách ở lứa tuổi học sinh. Các phòng trưng bày có quá nhiều cửa ra vào sẽ làm phân tán sự tập trung theo dõi của khách tham quan. Công cụ hổ trợ thường dùng loa có dây mang, loại loa này thường chỉ thích hợp với hoạt động dã ngoại. Nếu sử dụng trong phòng trưng bày có diện tích nhỏ hẹp khi mở volume lớn thì âm thanh sẽ làm chói tai, nếu mở nhỏ sẽ rất khó nghe. Mỗi thuyết minh viên nên thuyết minh về nội dung trưng bày bằng chính sự hiểu biết của mình không nên học thuộc lòng theo chương trình đã soạn sẵn. Tùy vào đối tượng tham quan và tâm lý du khách mà thuyết minh viên phải chọn một cách thuyết minh cho phù hợp. Đặc biệt, khi thuyết minh bằng tiếng nước ngoài nên tìm những từ dễ hiểu thông dụng để diễn giải cho khách tham quan, tránh cách giải thích cầu kì phức tạp gây phản cảm cho người tham quan. Thành công nhất của công tác thuyết minh bằng tiếng nước ngoài là khi thuyết minh viên diễn đạt mà khách tham quan hiểu được nội dung và khi khách đặt câu hỏi thì có thể trả lời hay cùng trao đổi với khách tham một vấn đề nào đó liên quan đến nội dung trưng bày của bảo tàng. Cần tránh đi sâu vào những vấn đề nhạy cảm mang tính chính trị có thể gây tranh luận hay có ảnh hưởng đến hình ảnh của quốc gia dân tộc.
3. Ý kiến đề xuất
Thiết nghĩ rằng muốn tạo sự thành công hơn nữa cho công tác thuyết minh bảo tàng hiện nay, chúng tôi thấy rằng cần chuyên nghiệp hóa hơn nữa đội ngũ thuyết minh viên. Mỗi thuyết minh viên cần tập trung nghiên cứu chuyên sâu vào một khía cạnh nào đó trong các lĩnh vực lịch sử, văn hóa nghệ thuật…để có thể trở thành một chuyên gia bảo tàng (curator). Một người chuyên gia có thể giúp bảo đảm trách tốt công tác nghiên cứu khoa học và phổ biến tri thức khoa học của một bảo tàng. Điều này chúng ta có thể nghiên cứu và học hỏi kinh nghiệm công tác bảo tàng từ các nước tiên tiến. Nên thiết lập mối quan hệ bền vững giữa các bảo tàng và các trường văn hóa nghệ thuật, nơi có đào tạo chuyên ngành Bảo tồn – Bảo tàng để có một chương trình thống nhất chung giữa nhà trường và bảo tàng. Hệ quả của nó sẽ giúp cho sinh viên có thêm kiến thức thực tế về công tác bảo tàng, tránh được lối học xuông chỉ dựa vào lí thuyết không phù hợp với thực tế công việc. Tại một số trường đại học như Đại học Văn hóa Hà Nội, Đại học Văn hóa tại TP.HCM cần xây dựng thêm chương trình Cao học Bảo tàng học (Master Program of Museum Studies) kiểu như Anh, Australia và nhiều nước khác trên thế giới đã làm. Hiện tại, những trường đại học văn hóa của ta chỉ dừng lại ở cấp độ đại học nếu một người tốt nghiệp chuyên ngành Bảo tồn – Bảo tàng muốn tiếp tục học tập nâng tri thức chuyên môn của mình thì phải chuyển sang học một chuyên ngành khác.
Các nhà bảo tàng nên được thiết kế theo đúng nguyên tắc của chuyên ngành Bảo tàng học như thiết lập một lối vào tham quan (entrance) và một lối ra (exist) riêng biệt nhau. Nếu các phòng trưng bày liên hoàn với nhau thì sẽ tạo được sự tập trung rất lớn cho khách tham quan và thuyết minh viên sẽ cảm thấy thoải mái hơn khi tác nghiệp. Về kỹ thuật, các bảo tàng cần thiết kế và điều chỉnh âm thanh cho thích hợp với các phòng trưng bày, nên bỏ loại thiết bị hỗ trợ bằng loa có dây mang. Ở một số phòng trưng bày quan trọng cần trang bị thêm thiết bị hỗ trợ là một máy vi tính có cài sẵn chương trình thuyết minh kèm theo phim ảnh để những khách tham quan đi lẻ có thể tự điều khiển và nghe chương trình thuyết minh ở phần trưng bày đó, đặc biệt là các bảo tàng có phần trưng bày di sản văn hóa phi vật thể (Intangible cultural heritage section). Ngoài ra, các bảo tàng phải tạo cho mình một website để giới thiệu về nội dung trưng bày, chương trình tham quan, các công trình khoa học, ấn phẩm, tạp chí, thông báo các hoạt động khoa học, vui chơi liên quan đến bảo tàng mình và xây dựng một diễn đàn (forum) chung cho những người yêu thích bảo tàng cùng tham giatranh luận và đóng góp ý kiến.
4. Kinh nghiệm ở Thái Lan
Thái Lan là một quốc gia du lịch nổi tiếng ở Đông Nam Á vì vậy các bảo tàng luôn có chỗ đứng vững chắc trong nền công nghiệp không khói này. Trong năm 2006, chúng tôi có cơ hội nhận được học bổng của tổ chức Asian Scholarship Foundation (Quĩ học Bổng Châu Á) để thực hiện đề tài nghiên cứu về nghệ thuật cổ Thái Lan tại Bảo tàng Quốc gia Bangkok (Bangkok National Museum). Đây là một viện bảo tàng danh tiếng nhất tại Thái Lan được thành lập vào năm 1874 dưới triều đại vua Rama IV. Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi có dịp tìm hiểu về hoạt động thuyết minh của bảo tàng bạn và nhận thấy rằng có nhiều điều chúng ta cần học hỏi và rút kinh nghiệp từ họ. Về quản lý, ở Thái Lan tất cả các bảo tàng quốc gia (National Museum) đều đặt dưới quyền quản lý của Vụ Mĩ thuật Thái Lan (Department of Fine Arts) tương tự như Cục di sản văn hóa ở nước ta. Công tác thuyết minh nằm trong bộ phận Curator Section giống như bộ phận nghiệp vụ trong một số bảo tàng bên ta vậy.
Tại Bảo tàng Quốc gia Bangkok, công tác thuyết minh được chia làm hai bộ phận chính, thuyết minh tiếng Thái do người Thái đảm trách và thuyết minh tiếng nước ngoài do các tình nguyện viên bảo tàng (Museum Volenteers) là người nước ngoài thực hiện. Tình nguyện viên của Bảo quốc Gia Bangkok (Bangkok National Museum Volenteer) là một tổ chức phi chánh phủ (NGO) thuộc Liên đoàn Thế giới Những Người bạn Bảo Tàng (World Federation of Museum Friends) đã bắt đầu làm việc tại Thái Lan từ thập niên 60 của thế kỷ 20. Tổ chức này tập trung nhiều phụ nữ đam mê văn hóa và nghệ thuật, sẵn sàng làm việc xa quê hương nhiều năm để giúp đỡ cho công tác chuyên môn tại Bảo tàng Quốc gia Bangkok. Họ có một tờ Monthly Newsletter để giới thiệu các công trình khoa học của các tình nguyện viên, đồng thời cũng là diễn đàn cho tổ chức. Hàng năm, họ còn tổ chức một đợt tập huấn kéo dài suốt tháng 10 và 11 để truyền đạt kinh nghiệm cho các nhân viên bảo tàng mới vào nghề, trong đó có kinh nghiệm về hướng dẫn khách tham quan. Ngoài ra, hàng năm họ còn trích một nguồn kinh phí hơn 60.000 Baht (khoảng hơn 1.500 USD) để giúp thư viện của bảo tàng mua thêm các loại sách mới. Trong trường hợp có nhận thêm nguồn tài trợ từ các Mạnh Thường Quân, họ sẽ dùng một phần lớn số tiền này giúp bảo tàng mua thêm hiện vật hoặc xây dựng những phần trưng bày mới cho bảo tàng.
Đặc biệt công tác thuyết minh tiếng nước ngoài được một nhóm Tình nguyên viên giàu kinh nghiệm đảm trách. Có bốn thứ tiếng được sử dụng tại bảo tàng này gồm: tiếng Anh, Pháp, Đức và Nhật. Tùy theo quốc tịch của từng thuyết minh viên mà được phân công đảm trách một ngôn ngữ riêng phù hợp. Vốn là người bản ngữ nên họ thuyết minh rất chuẩn và dễ thuyết phục khách tham quan hơn là những người Thái thuyết minh bằng ngoại ngữ. Điều ích lợi là bảo tàng không phải trả bất kỳ một khoảng tiền thù lao nào cho họ mặc dù họ đã làm ra một nguồn lợi lớn cho bảo tàng. Với cách thức sắp xếp công tác thuyết minh như vậy nên bảo tàng hầu như đảm nhận rất tốt công tác hướng dẫn khách tham quan, mặc dù du khách đến bảo tàng rất đông.
Từ kinh nghiệm của Bảo tàng Quốc gia Bangkok, chúng tôi thiết nghĩ rằng các bảo tàng nằm trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh cũng cần nên đặt quan hệ với các tổ chức quốc tế tình nguyện viên bảo tàng hoặc thiết lập một câu lạc bộ những người bạn bảo tàng (Club of Museum Friends) để làm tốt hơn nữa công tác bảo tàng của chúng ta vốn còn nhiều hạn chế. Trong giai đoạn mà Đảng và nhà nước ta đang có chủ trương giới thiệu hình ảnh đất nước Việt Nam với bạn bè quốc tế thì việc thiết lập mối quan với các tổ chức tình nguyện viên bảo tàng là việc làm cần thiết để thông qua họ, chúng ta có thể phổ biến tốt hơn nữa văn hóa lịch sử nước nhà ra thế giới bên ngoài. Nếu chúng ta có những bộ óc quản lý bảo tàng giỏi thì chúng ta hoàn toàn có thể làm được việc này một cách hoàn mỹ. Chúng ta có thể điều chỉnh hoạt động của họ theo định hướng nghiên cứu khoa học của chúng ta. Hiện tại thì hầu như các nhà quản lý bảo tàng đã từ chối việc tiếp xúc với các tổ chức này mặc dù đã có một vài lời đề nghị hợp tác từ phía họ. Nếu chúng ta xem vấn đề lịch sử văn hóa là một vấn đề nhạy cảm thì chính người Thái Lan phải sợ điều này hơn người Việt Nam. Vì đất nước Việt Nam có hơn 4.000 lịch sử còn Thái Lan là một nước trẻ, mới lập quốc vào thế kỷ 13. Lịch sử hình thành nhà nước Thái Lan là một quá trình xâm lược đẫm máu các dân tộc bản địa nhưng tại sao người Thái vẫn mạnh dạng sử dụng một đội ngũ tình nguyện viên bảo tàng trên đất nước họ. Đây là một câu hỏi làm chúng tôi phải suy nghĩ rất nhiều. Về phía Việt Nam, chúng tôi mong rằng các nhà quản lý bảo tàng cần tỉnh táo hơn nữa để tìm ra một giải pháp khả thi cho một chiến lược phát triển bền vững về bảo tàng, trong có phải chú ý đến vấn đề hợp tác quốc tế. Một số nhà quản lý bảo tàng cần nên vứt bỏ thái độ tự cao với kiến thức giới hạn của mình và sự tự mãn với một vài thành công mà mình đạt được thì mới có thể đưa các bảo tàng của chúng ta vươn với tầm cao của những bảo tàng trong khu vực.