Nói đến tài nguyên du lịch (tourism resources) là nói tới những điều kiện về tự nhiên (tài nguyên thiên nhiên) và xã hội (tài nguyên nhân văn, gồm cả văn hóa, trong đó có các di tích, di sản,…) mang tính tiềm năng và cần thiết cho sự phát triển du lịch. Loại hình và giá trị của các nguồn tài nguyên ấy càng phong phú và có chất lượng cao thì càng tạo ra nhiều khả năng để có thể tiến tới nghiên cứu phát triển thành những sản phẩm du lịch (tourism product), ở đây là các “điểm du lịch” trong các “tuyến” du lịch (tours) cụ thể cùng với các dịch vụ du lịch (tourism sevices) kèm theo.
- 1.Giải pháp xây dựng di tích KCH - vườn QGCát Tiên từ một nguồn tài nguyên quan trọng trở thành “trọng điểm du lịch” của vùng Nam Bộ và Tây Nguyên, tiến tới là của cả quốc gia
Di tích KCH Cát Tiên gắn liền và cùng với vườn QG Cát Tiên có thể trở thành nơi mang đầy đủ tiềm năng và khả năng to lớn như vậy. Di tích KCH Cát Tiên bao gồm các di chỉ khảo cổ học quan trọng lần lượt được phát hiện và khai quật dọc hai bờ thượng nguồn sông Đồng Nai thuộc tỉnh Đồng Nai và Lâm Đồng gồm hàng chục di chỉ khảo cổ học dạng gò vốn là phế tích những đền, tháp được khai quật và các hố đào thám sát được tiến hành ở những địa điểm khác nhau. Tuy còn nhiều ý kiến chưa thống nhất nhưng nhìn chung người ta cho rằng các di tích này có mối quan hệ đặc biệt đối với lịch sử - văn hóa vùng Nam Bộ ở buổi đầu khai phá và có mối quan hệ nhất định với các di chỉ khảo cổ Đồng Nai (ở Đông Nam Bộ) và Óc Eo (ở Tây Nam Bộ)... Đặc biệt, di tích KCH Cát Tiên còn là một bộ phận gắn liền với vườn QG Cát Tiên, là vùng đất mang những giá trị đặc sắc về thiên nhiên, đa dạng sinh học, đã được công nhận là Khu dự trữ sinh quyển thế giới năm 2001 và Khu hệ đất ngập nước bàu Sấu thuộc vườn QG cũng đã được ghi tên vào danh sách Ramsar năm 2005, là một trong những vùng đất ngập nước quan trọng của thế giới. Với khoảng cách di chuyển không xa (khoảng 150 km) từ Thành phố Hồ Chí Minh và khả năng nối kết giao thông với cả ba tỉnh Đồng Nai - Lâm Đồng - Bình Phước cùng các điều kiện thuận lợi khác, di tích KCH Cát Tiên - vườn QG Cát Tiên là địa điểm lý tưởng để tổ chức các tour du lịch sinh thái, văn hóa, cụ thể là các loại hình du lịch giải trí, nghỉ dưỡng cho du khách trong và ngoài nước. Dựa vào nguồn tài nguyên phong phú và các điều kiện như vừa nêu, di tích KCH - vườn QG Cát Tiên nếu được đầu tư và phát huy tốt thì không chỉ là một điểm du lịch bình thường mà còn có thể trở thành một “trọng điểm du lịch” (main destination) của vùng, thậm chí của cả quốc gia trong tương lai không xa. Hiện nay, mỗi năm vườn QG Cát Tiên gồm cả di tích KCH Cát Tiên trong đó đã đón tiếp được khoảng 20 ngàn lượt khách du lịch (du khách quốc tế chiếm khoảng 1/3). Đây có thể xem là những kết quả bước đầu khá tích cực tuy vậy vẫn còn thấp so với tiềm năng và vị thế vốn có của nó lẽ ra ít nhất phải là một khu du lịch địa phương hoặc một điểm du lịch quốc gia[1].
Nguyên nhân hạn chế của du lịch vườn QG Cát Tiên nói chung, di tích KCH Cát Tiên nói riêng vẫn là do tính chuyên nghiệp, bài bản trong tổ chức quản lý, tác nghiệp, cơ sở vật chất – kỹ thuật, đội ngũ cán bộ,... chưa thật sự đảm bảo đưa đến hệ thống sản phẩm du lịch và dịch vụ đạt chuẩn, có chất lượng theo tính chất du lịch chuyên đề,... chưa thật phong phú, hấp dẫn. Chưa kể nơi đây đã bắt đầu xuất hiện sức ép từ khách thăm quan và sự phát triển du lịch, nhất là vào mùa hè với những yêu cầu gia tăng tổ chức các loại hình du lịch “soi thú đêm”, “xem cá sấu”,… là những nguyên nhân sâu sa, tiềm ẩn những nguy cơ gây ô nhiễm môi trường, tác động xấu đến khu hệ động, thực vật của vườn QG. [Xem Huỳnh Quốc Thắng 2016: tr. 228 – 241]. Từ tình hình thực tế như vậy, một trong những giải pháp chiến lược để bảo tồn và phát huy di tích KCH gắn với phát triển du lịch của vườn QG Cát Tiên trong giai đoạn tới là nhất thiết phải thực hiện cho được mục tiêu đã xác định đúng trong kế hoạch hành động của vườn quốc gia: “Khu dự trữ sinh quyển Cát Tiên là trung tâm du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng cuối tuần, xem chim, xem thú, dã ngoại, khám phá thiên nhiên của du khách; đây cũng là nơi phát huy giá trị di sản văn hóa, trong đó đặc biệt có các di sản văn hóa khảo cổ...”. Đó là định hướng chính xác vì, về nguyên tắc, “sản phẩm du lịch tuy cũng là một thứ hàng hóa chịu sự chi phối sâu sắc bởi các quy luật kinh tế thị trường nhưng chất lượng của nó được quyết định không phải chỉ là những “giá trị” trao đổi bình thường mà phải là những“giá trị“ văn hóa đích thực (giá trị nhận thức, nhân bản, thẩm mỹ,…), cái tạo nên tính “đặc sản” độc đáo, lý thú (interest) cho các sản phẩm ấy đồng thời cũng là cái có thể đáp ứng tốt các nhu cầu văn hóa tinh thần của du khách các loại… Vì vậy, để thực sự có chất lượng và đủ khả năng phát triển bền vững, có sức cạnh tranh cao (trong nước và trên thế giới), không thể khác, sản phẩm du lịch phải khai thác tốt mọi thế mạnh trong tiềm năng và tài nguyên du lịch của đất nước, của địa phương, đặc biệt là các tài nguyên mang đậm giá trị văn hóa…” [Huỳnh Quốc Thắng 2003: tr.16]. Tuy nhiên, như thế vẫn chưa đủ, việc thiết kế ấy vẫn rất cần dựa vào điều kiện cụ thể “sản phẩm du lịch là tập hợp các dịch vụ cần thiết để thỏa mãn nhu cầu của khách du lịch trong chuyến đi du lịch” (Luật Du lịch Việt Nam, 2005). Do vậy, các “dịch vụ kèm theo” tại các điểm tham quan du lịch không thể không đầu tư nghiêm túc để xây dựng các cataloge, guide book, các băng, đĩa hình, quà lưu niệm, các dịch vụ ăn uống,…; kể cả các điều kiện, tiện nghi tối thiểu như điện, nước, phương tiện thông tin, nhà vệ sinh nhất thiết cũng phải được chú ý… Theo những định hướng như vậy, để tạo ra những sản phẩm du lịch ổn định và có chất lượng, trong đó các giá trị của di sản văn hóa KCH Cát Tiên phải đảm bảo được khai thác và phát huy tốt nhất theo cách thức là không tách rời mà phải gắn chặt với du lịch vườn QG Cát Tiên nói riêng, với du lịch địa phương nói chung, xa hơn là của cả vùng và cả nước. Bên cạnh những tour chuyên đề tập trung tìm hiểu sâu về văn hóa khảo cổ cho các đối tượng du khách đặc biệt nào đó, chúng ta vẫn có thể mở rộng nội dung du lịch văn hóa (tìm hiểu các tộc người tại chỗ) kết hợp du lịch sinh thái vườn QG Cát Tiên cho mọi đối tượng du khách,… Trong đó, như đã đề cập, những nơi có các hiện vật, di chỉ khảo cổ chắc chắn rất cần phải được đầu tư đúng mức để trở thành những “điểm đến” (interest sight, destination) mang đầy đủ tính chất sản phẩm du lịch thực sự với cách giới thiệu (thuyết minh) chu đáo, với các “quà lưu niệm” (souvenir) mang tính biểu tượng (symbol) kèm theo các hình thức phim ảnh, catalogue, tờ gấp,… được đầu tư nghiêm túc, có chất lượng [Xem Huỳnh Quốc Thắng 2016: tr. 228 – 241]… Tất nhiên, do vị trí và tính chất vấn đề như đã nêu, trên tổng thể phát triển du lịch di tích KCH - vườn QG Cát Tiên trước sau rất cần phải được đầu tư xây dựng bài bản thông qua một đề tài khoa học nghiêm túc tiến tới thành một đề án rõ ràng để triển khai thực hiện có hiệu quả thực sự.
- 2.Giải pháp xây dựng di tích KCH - vườn QG Cát Tiên trở thành như một “Bảo tàng văn hoá sinh thái” đặc trưng của địa phương mang tầm quốc gia
Việc bảo tồn, phát huy di sản văn hóa khảo cổ và tài nguyên thiên nhiên thông qua di tích KCH - vườn QG Cát Tiên ngoài khía cạnh hoạt động du lịch như đã nói còn có thể được khẳng định ở tầm rộng lớn hơn, bởi vì thực chất giá trị của nó cần phải được xác định “là tài sản quý giá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam và là một bộ phận của di sản văn hóa nhân loại” (Luật Di sản). Những giá trị đó bao gồm hai hệ thống chủ yếu: văn hoá (di tích KCH Cát Tiên cùng các nhân tố dân tộc, di sản văn hoá,…), sinh thái (vườn QG Cát Tiên với các nhân tố sinh thái tự nhiên và nhân văn,…). Do vậy, khái niệm “văn hoá sinh thái” (ecological culture) ở đây không chỉ được xem như một nhận thức khoa học theo kiểu “văn hóa sinh thái là một dạng thức văn hóa tương ứng với một vùng sinh thái nhất định” [Ngô Đức Thịnh 2007: tr. 11] mà còn nhằm hướng đến mục tiêu thực tế: “Văn hóa sinh thái là tất cả các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình tác động và biến đổi giới tự nhiên nhằm tạo ra cho mình một môi trường sống tốt đẹp hơn, trong lành và hài hòa với tự nhiên, hướng đến cái đúng, cái tốt, cái đẹp vì sự phát triển lâu bền của xã hội ” [Trần Lê Bảo (chủ biên) 2001: tr.196]; thậm chí thiết thực hơn: “Khi nói về văn hóa sinh thái trong mối quan hệ với hoạt động du lịch của một địa phương, quốc gia cụ thể chính là chúng ta đang đề cập đến nét nổi trội trong các nguồn tài nguyên quan trọng hàng đầu của địa phương, quốc gia đó (cả về tự nhiên lẫn về nhân văn) gắn với các mục tiêu, giải pháp để phát triển du lịch theo những định hướng chiến lược…” [Huỳnh Quốc Thắng 2015: tr. 400 – 410]. Hoặc, bao quát hơn theo như cách nói của A.A.Radughin, nhà nghiên cứu văn hóa học người Nga: “Văn hóa dần dần lấy mối quan hệ với tự nhiên làm đối tượng của mình, tức là xuất hiện văn hóa hoạt động sinh thái của con người, hay như người ta thường nói, văn hóa sinh thái. Nhiệm vụ của văn hóa sinh thái là nâng việc đánh giá mối quan hệ giữa tự nhiên và con người lên một tầm mức mới, đưa kiến thức về mối quan hệ này vào hệ thống các giá trị văn hóa” [A.A.RaDuGhin 2004: tr. 133].
Từ những nhận thức như trên, việc xây dựng di tích KCH - vườn QG Cát Tiên trở thành như một bảo tàng văn hóa sinh thái, một dạng kết hợp giữa bảo tàng tự nhiên với bảo tàng khảo cổ - dân tộc học ngoài trời mà nhiều nơi trên thế giới đã thực hiện là một định hướng có cơ sở và mang nhiều ý nghĩa. Trước mắt, đề cương quy hoạch, kế hoạch chi tiết liên quan các nguồn tài nguyên sinh thái tự nhiên và nhân văn của vườn QG Cát Tiên, đặc biệt là di tích KCH Cát Tiên… cần được đầu tư nghiên cứu bảo tồn và phát huy theo hướng như những “tư liệu, hiện vật gốc” thật sự trong một kế hoạch tổng thể nhằm “bảo quản”, “trưng bày”, “thuyết minh”,… thật nghiêm túc. Xa hơn, tất cả các nội dung của kế hoạch ấy có thể trở thành những đề án khả thi để tiến hành kêu gọi các nguồn tài trợ trong nước và trên thế giới.
Cụ thể hơn, đối với các tư liệu, hiện vật gốc liên quan những trọng điểm khai quật khảo cổ có thể được tiến hành nghiên cứu đầu tư trở thành điểm tham quan du lịch thuận lợi, từng bước có thể kết hợp xây dựng và phát triển thành bảo tàng ngoài trời. Các bộ sưu tập chuyên đề khảo cổ Cát Tiên được trưng bày tại bảo tàng sẽ có điều kiện đầu tư sâu theo nguyên lý khoa học: “Những di tích, di vật – đối tượng chủ yếu của khảo cổ học – đã tồn tại ở những thời điểm cách xa chúng ta hàng ngàn, vạn, hàng triệu năm nên không tránh khỏi bị đổi thay, bị hư hỏng hoặc bị huỷ hoại. Số còn lại, hầu như đều là những vết tích ít nguyên vẹn mà chỉ có con mắt tinh thông của nhà khảo cổ học mới gỡ được phần nào những bí ẩn bên trong chúng và những mối liên hệ vô hình bên ngoài chúng. Những di tích, di vật ấy đã cấu thành và tồn tại trong những điều kiện địa lý, lịch sử, xã hội khác nhau cả về không gian, lẫn thời gian, có khi trái ngược nhau, tương phản nhau. Bởi vậy nghiên cứu khảo cổ cần phải phân tích đầy đủ, không phải chỉ bản thân các di tích, di vật mà cả mối liên hệ biện chứng giữa chúng” [Viện Khoa học Xã hội tại TP Hồ Chí Minh – Uỷ ban nhân dân tỉnh An Giang 1984: tr. 15]. Nguyên lý đó có ý nghĩa lớn. Bởi trong khu vực vườn quốc gia Cát Tiên, dọc hai bờ thượng nguồn sông Đồng Nai thuộc tỉnh Đồng Nai và Lâm Đồng, những di chỉ khảo cổ học quan trọng lần lượt được phát hiện và khai quật trong một không gian khá rộng và mật độ khá dày. Tính đến nay đã có 12 di chỉ dạng gò vốn là phế tích những đền, tháp được khai quật và 10 hố khai quật khác đã được thực hiện ở những khu vực thấp. Riêng xã Quảng Ngãi (huyện Cát Tiên, tỉnh Lâm Đồng) là khu vực tập trung có đến 8 gò di tích, trong đó, di tích Đức Phổ thuộc địa phận thôn 3 của xã này thuộc vùng đệm vườn quốc gia Cát Tiên, cách trụ sở vườn quốc gia Cát Tiên 22 km với không gian của khu di chỉ kiến trúc tối thiểu phải có diện tích trên 1000 m2. Chưa tính 10 hố đào thám sát cũng được tiến hành ở những địa điểm khác nhau… Điều quan trọng là bảo tàng KCH ngoài trời như vừa nêu có thể mở rộng gắn với bảo tàng dân tộc học ngoài trời bao gồm hơn 30 thành phần dân tộc sống trong vườn quốc gia Cát Tiên và vùng phụ cận gồm ngoài người Kinh chiếm đa số (67,1 %), còn có các dân tộc ít người thuộc các tỉnh miền núi phía Bắc di cư và cư dân bản địa như Tày (11,1%); Nùng (8,1%); Mạ (6,2%); S’Tiêng (2,3%)…Trong đó, người Mạ, vốn là một trong những tộc người sinh sống tại chỗ từ rất lâu đời, phân bố chủ yếu trên địa bàn huyện Tân Phú (Đồng Nai), Đa Tẻh, Cát Tiên, Bảo Lâm (Lâm Đồng) và Bù Đăng (Bình Phước)…
Riêng đối với khía cạnh “sinh thái” của “bảo tàng văn hoá sinh thái” nơi đây, chắc chắn chúng ta không thể không chú ý tập trung khai thác một trong những“vẻ đẹp khác thường” đã được khái quát trong “hồ sơ khoa học di tích danh thắng quốc gia đặc biệt vườn quốc gia Cát Tiên” mà Ban Quản lý Di tích – Danh thắng tỉnh Đồng Nai biên soạn năm 2012 rằng:
+ Vườn quốc gia Cát Tiên có cảnh quan sông suối và hệ thống hồ nước có giá trị quan trọng / có cảnh quan đồng cỏ trên bình nguyên bazan có giá trị quan trọng bảo tồn các loài thú lớn / có cảnh quan rừng kín thường xanh nhiệt đới mưa mùa lá rộng, có giá trị bảo tồn loài tê giác một sừng và các loài thú lớn / là nơi sinh sống tự nhiên, quan trọng và có ý nghĩa đối với việc bảo tồn đa dạng sinh học; là nơi có nhiều loài động, thực vật; nhiều loài quý hiếm đang bị đe doạ... ở Việt Nam, Đông Nam Á và thế giới...
+ Vườn quốc gia Cát Tiên chứa đựng những giá trị đặc biệt của quá trình sinh học, sinh thái đang diễn ra trong quá trình tiến hoá và phát triển của hệ sinh thái trên cạn và ngập nước...
Những “vẻ đẹp” nói trên của vườn QG Cát Tiên kết hợp với giá trị các di tích KCH Cát Tiên có thể tạo thành hệ thống giá trị về văn hóa và lịch sử tự nhiên góp phần đem lại những hiệu quả tốt cho hoạt động giáo dục truyền thống bằng hình thức “bảo tàng văn hoá sinh thái” thông qua hoạt động du lịch sinh thái, một bộ phận trong những xu hướng quan trọng của xã hội công nghiệp - hiện đại: “Du lịch sinh thái là du lịch hướng tới mục tiêu thưởng thức và có trách nhiệm cao đối với việc bảo tồn môi trường sống (gồm sinh thái tự nhiên và sinh thái nhân văn) thông qua các điểm đến được chủ định thiết kế gắn với thiên nhiên và văn hóa mang những giá trị đặc trưng nhất định. Phát huy giá trị các địa danh kết hợp với du lịch thực chất là khai thác giá trị các di tích, di sản như những “bảo tàng văn hóa - dân tộc học ngoài trời” hoặc “bảo tàng tự nhiên”, thông qua những “hiện vật gốc” liên quan cả thiên nhiên lẫn nhân văn gắn với một môi trường đời sống thực tế của cộng đồng địa phương do đó nó là hình thức bảo vệ, tôn vinh môi trường sống (sinh thái) một cách sinh động, bền vững nhất!” [Huỳnh Quốc Thắng 2015: tr. 286 – 295].
- 3.Giải pháp tổ chức, quản lý và liên kết xây dựng di tích KCH - vườn QG Cát Tiên thành một mô hình văn hóa - kinh tế vùng trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay
Do vị trí địa lý liên quan trực tiếp một số địa phương trong vùng cùng với mô hình hoạt động như một thiết chế văn hoá - du lịch mang tính chất “liên ngành, liên vùng”, di tích KCH - vườn QG Cát Tiên cần phải được tổ chức, quản lý bằng một phương thức hợp lý và mang tính bền vững. Trong “Báo cáo tổng hợp quy hoạch tổng thể phát triển văn hoá, gia đình, thể dục thể thao và du lịch vùng Đông Nam Bộ và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030” do Cục Công tác phía Nam - Bộ Văn hoá Thể thao và Du lịch thực hiện thì vườn QG Cát Tiên (gồm cả di tích KCH Cát Tiên) được xếp vào các di tích, di sản nổi bật hàng đầu của vùng như dinh Độc Lập (TP Hồ Chí Minh), nhà tù Côn Đảo (Bà Rịa – Vũng Tàu), đường mòn Hồ Chí Minh (Bình Phước)... và được xem là một trong những “sản phẩm du lịch quan trọng” của vùng, đặc biệt là về du lịch sinh thái (mục 4.2.2.). Trong phần nhận định về “vị trí và mối liên hệ vùng” (mục 2, chương 1), báo cáo này đã khẳng định: “Vùng nằm gần tuyến đường biển quốc tế quan trọng, điểm trung chuyển của tuyến đường hàng không quốc tế từ Bắc xuống Nam và từ Đông qua Tây, trên tuyến đường xuyên Á nối liền các nước Đông Nam Á lục địa và hành lang phía Nam… Vùng có TP Hồ Chí Minh là trung tâm kinh tế, công nghiệp, thương mại, dịch vụ, du lịch, khoa học, kỹ thuật, đầu mối giao thông và giao lưu quốc tế lớn nhất cả nước; có Vũng Tàu là thành phố cảng, trung tâm dịch vụ, công nghiệp và du lịch biển lớn của quốc gia…; các tỉnh Tây Ninh, Đồng Nai, Bình Phước và Bình Dương gắn với các quốc lộ 51, 14, 22…, có trục đường xuyên Á chạy qua… mang lại nhiều lợi thế cho vùng trong quá trình phát triển văn hoá… và du lịch”. Trên cơ sở đó trong phương hướng phát triển tới của vùng (chương VI), báo cáo đã nêu rõ: “Định hướng liên kết hợp tác giữa các lĩnh vực văn hoá…và du lịch” (mục 1), “Định hướng hợp tác phát triển giữa vùng Đông Nam Bộ và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam với các vùng và các tỉnh lân cận” (mục 2), và “Định hướng hợp tác, giao lưu khu vực và quốc tế” (mục 3)… Như vậy, việc liên kết và hợp tác giữa các địa phương trong vùng đối với hoạt động bảo tồn, phát huy và phát triển du lịch và công tác giáo dục truyền thống của di tích KCH - vườn QG Cát Tiên là điều cần thiết. Điều đó càng được khẳng định rõ hơn theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 9 (khóa XI) về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước (tháng 5 năm 2014): “Xây dựng cơ chế để giải quyết hợp lý, hài hòa giữa bảo tồn, phát huy di sản văn hóa với phát triển kinh tế - xã hội. Bảo tồn, tôn tạo các di tích lịch sử - văn hóa tiêu biểu, phục vụ giáo dục truyền thống và phát triển kinh tế, gắn kết bảo tồn, phát huy di sản văn hóa với phát triển du lịch…, góp phần quảng bá hình ảnh đất nước và con người Việt Nam”.
Theo định hướng trên, ngoài việc tiếp tục phát huy những mối quan hệ phối hợp về nghiên cứu khoa học và những hình thức ký kết văn bản, kế hoạch hợp tác giữa các địa phương, để tiến tới xây dựng những mô hình hoạt động quy mô ngày càng lớn (như hình thức “Bảo tàng văn hoá sinh thái” vừa gợi ý chẳng hạn), các địa phương trong vùng liên quan di tích KCH - vườn QG Cát Tiên từ gần đến xa (Đồng Nai, Lâm Đồng, Bình Phước, Tây Ninh, Bình Dương, Bà Rịa Vũng Tàu, TP Hồ Chí Minh…) rất cần có những cơ chế chính sách, những kế hoạch phối hợp không chỉ về tổ chức, về tác nghiệp chuyên môn mà còn phải tính toán đến cả những cơ chế chính sách về kinh tế, tài chính để nuôi dưỡng và phát triển bền vững mọi hoạt động liên quan… Trong đó, phát huy vai trò chủ động của mình, Ban Quản lý vườn QG Cát Tiên cũng cần tiếp tục phát huy những phương thức phối hợp với chính quyền địa phương hỗ trợ và nâng cao đời sống cho người dân vùng đệm bằng các dự án trong nước và quốc tế như Dự án phát triển du lịch cộng đồng do Chính phủ Đan Mạch tài trợ trước đây chẳng hạn[2]. Trong các giải pháp cụ thể như vậy, vai trò của cộng đồng công chúng đặc biệt quan trọng. Bởi “việc sử dụng dân địa phương tham gia vào hoạt động du lịch với tư cách chủ động như là những cán bộ (cộng tác viên) du lịch góp phần giữ gìn, phát huy, giới thiệu về các giá trị của các di sản văn hóa… có ý nghĩa rất tích cực” [Huỳnh Quốc Thắng 2011: tr. 18]. Khi đông đảo người dân trở thành chủ thể tham gia góp phần vào các hình thức tuyên truyền quảng bá du lịch, các khâu hướng dẫn, thuyết minh tại chỗ, thực hiện các dịch vụ du lịch phù hợp, có tổ chức (biểu diễn nghệ thuật, bán quà lưu niệm…) và thu nhập du lịch tạo nguồn sống đáng kể cho họ thì chắc chắn họ cũng sẽ trở thành là lực lượng chủ công góp phần gìn giữ, bảo tồn các vốn di sản văn hoá, tài nguyên thiên nhiên tại địa phương như một thành tố tổ chức, quản lý quan trọng…
Di tích KCH Cát Tiên cùng với vườn QG Cát Tiên rõ ràng đã là nguồn tài nguyên nhân văn và thiên nhiên đặc biệt có thể tiến tới xây dựng trở thành một “trọng điểm” du lịch tiêu biểu về du lịch sinh thái - văn hóa - khảo cổ của Nam Bộ, Tây Nguyên và cả của Việt Nam. Hơn nữa, nơi đây có thể quy hoạch xây dựng thành mô hình như một “bảo tàng văn hoá sinh thái” mang tính chất một thiết chế văn hoá - du lịch quy mô góp phần giáo dục truyền thống về văn hoá và lịch sử tự nhiên tiêu biểu của địa phương, tiến tới mang tầm quốc gia trong tương lai gần. Thiết chế văn hoá - du lịch ấy với một cơ chế tổ chức, quản lý vận hành hợp lý, đạt hiệu quả cao về văn hoá lẫn kinh tế thông qua những sản phẩm du lịch văn hóa sinh thái đặc trưng có thể góp phần tích cực làm cho vườn QG Cát Tiên (gồm cả di tích KCH Cát Tiên) thực sự trở thành là một trong những mô hình kinh tế - văn hoá điển hình của vùng Đông Nam Bộ nói riêng, vùng kinh tế trọng điểm phía Nam nói chung. Tất cả mục tiêu, định hướng như vậy đặt ra vấn đề cần phải xác lập rõ hơn nữa mối quan hệ phân công phân cấp nội bộ, sự hợp tác giữa các ban, ngành tại địa phương, giữa các địa phương trong vùng cùng với các vùng, miền khác trong, ngoài nước nhằm thực hiện việc quy hoạch, tổ chức quản lý, đầu tư khai thác, phát huy tốt nhất các vốn tài nguyên du lịch liên quan di tích KCH Cát Tiên nói riêng, vườn QG Cát Tiên nói chung không chỉ tích cực góp phần giáo dục truyền thống văn hoá, lịch sử tự nhiên mà còn có thể đem lại hiệu quả phát triển bền vững kinh tế - xã hội cho địa phương, cho toàn vùng và cho cả nước trong bối cảnh công nghiệp - hiện đại và hội nhập hiện nay.
Chú thích
[1] Luật Du lịch (Quốc hội Khóa XI thông qua tại kỳ họp thứ 7, số 44/2005/QH11, ký ngày 14 tháng 6 năm 2005):
Điều 23. Khu du lịch có đủ các điều kiện sau đây được công nhận là khu du lịch địa phương:
a) Có tài nguyên du lịch hấp dẫn, có khả năng thu hút khách du lịch; b) Có diện tích tối thiểu hai trăm héc ta, trong đó có diện tích cần thiết để xây dựng các công trình, cơ sở dịch vụ du lịch; c) Có kết cấu hạ tầng, cơ sở vật chất - kỹ thuật du lịch, cơ sở lưu trú và dịch vụ du lịch cần thiết phù hợp với đặc điểm của địa phương, có khả năng bảo đảm phục vụ ít nhất một trăm nghìn lượt khách du lịch một năm.
Điều 24. Điểm du lịch có đủ các điều kiện sau đây được công nhận là điểm du lịch quốc gia:
a) Có tài nguyên du lịch đặc biệt hấp dẫn đối với nhu cầu tham quan của khách du lịch; b) Có kết cấu hạ tầng và dịch vụ du lịch cần thiết, có khả năng bảo đảm phục vụ ít nhất một trăm nghìn lượt khách tham quan một năm.
[2] Dự án này đã thực hiện từ năm 2009 đến năm 2011 tại 2 xã vùng đệm là Tà Lài và Đắc Lua (huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai) nhằm khai thác các tiềm năng văn hóa tại chỗ trên cơ sở tạo điều kiện cho người dân địa phương có điều kiện trực tiếp tham gia bảo tồn và giới thiệu bản sắc văn hóa dân tộc của mình đến với khách du lịch trong và ngoài nước.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Quản lý Di tích – Danh thắng tỉnh Đồng Nai (2012), Hồ sơ khoa học di tích danh thắng quốc gia đặc biệt vườn quốc gia Cát Tiên.
2. Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam (2008), Văn hoá Óc Eo & vương quốc Phù Nam, Kỷ yếu Hội thảo Khoa học nhân 60 năm phát hiện văn hoá Óc Eo (1944 – 2004), NXB Thế Giới.
3. Huỳnh Quốc Thắng (2011), “Quản lý di sản văn hóa với phát triển du lịch bền vững vùng kinh tế trọng điểm phía Nam”; Kỷ yếu Hội thảo “Hội nhập phát triển và vấn đề bảo tồn phát huy giá trị di tích lịch sử - văn hóa khu vực III”, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, trang 14-22.
4. Huỳnh Quốc Thắng (2015), “Địa danh với toàn cầu hóa và địa phương hóa du lịch”, Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc tế Toàn cầu hóa du lịch và địa phương hóa du lịch, Trường CĐ Văn hóa Nghệ thuật và Du lịch Sài Gòn &Trường ĐH Charles de Gaulle – Lille, NXB Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh, trang 286 – 295.
5. Huỳnh Quốc Thắng, “Di sản văn hóa khảo cổ Óc Eo từ tài nguyên đến sản phẩm du lịch – trường hợp An Giang”, Kỷ yếu hội thảo quốc gia “Giá trị của di sản văn hóa Óc Eo – An Giang trong tiến trình phát triển kinh tế - xã hội, Đại học KHXHNV, ĐHQG TP HCM – Ban Quản lý Di tích Văn hóa Óc Eo, UBND tỉnh An Giang, 15/01/2016.
6. Huỳnh Quốc Thắng, “Di sản văn hoá khảo cổ học với du lịch Vườn Quốc gia Cát Tiên”, Trong: Nam Bộ Đất &Người (Tập XI), NXB Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, 2016, trang 228 – 241.
7. Lê Xuân Diệm, Đào Linh Côn, Võ Sỹ Khải (1995), Văn hóa Óc Eo - những khám phá mới.
8. Sue Beeton (2006), Community development through tourism, Collingwood VIC: Landlinks Press.
9. Trần Lê Bảo (chủ biên) (2001), Văn hóa sinh thái nhân văn, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội, tr.196.
10. Viện Khoa học Xã hội tại TP Hồ Chí Minh – Uỷ ban nhân dân tỉnh An Giang (1984), Văn hoá Óc Eo và các văn hóa cổ ở đồng bằng sông Cửu Long, Sở Văn hoá và Thông tin An Giang.
Nguồn: Sách “Quản lý và khai thác di sản văn hóa trong thời kỳ hội nhập”