logo

  • Trang chủ
  • Giới thiệu
    • Thư ngỏ
    • Khái quát về Trung tâm
    • Nhân lực Trung tâm
      • Thành viên Trung tâm
      • Cộng tác viên
    • Giới thiệu Khoa Văn hóa học
      • Khái quát về Khoa
      • Nhân lực của Khoa
  • Tin tức
    • Tin nhà (Trung tâm)
    • Tin ngành
    • Tin liên quan
  • Đào tạo - Huấn luyện
    • Các chương trình
    • Tổ chức và Hiệu quả
    • Đào tạo ở Khoa VHH
      • Chương trình đào tạo
      • Kết quả đào tạo
  • Nghiên cứu
    • Lý luận văn hóa học
      • LLVHH: Những vấn đề chung
      • VHH: Phương pháp nghiên cứu
      • VHH: Các trường phái - trào lưu
      • Loại hình và phổ quát văn hóa
      • Các bình diện của văn hóa
      • Văn hóa học so sánh
      • Vũ trụ quan phương Đông
      • Văn hóa và phát triển
      • VHH và các khoa học giáp ranh
    • Văn hóa Việt Nam
      • VHVN: Những vấn đề chung
      • Văn hóa cổ-trung đại ở Viêt Nam
      • Văn hóa các dân tộc thiểu số
      • Văn hóa Nam Bộ
      • Văn hóa nhận thức
      • Văn hóa tổ chức đời sống tập thể
      • Văn hóa tổ chức đời sống cá nhân
      • Văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên
      • Văn hóa ứng xử với môi trường xã hội
    • Văn hóa thế giới
      • VH Phương Đông: Những vấn đề chung
      • VH Phương Tây: Những vấn đề chung
      • Quan hệ văn hóa Đông - Tây
      • Văn hóa Trung Hoa và Đông Bắc Á
      • Văn hóa Đông Nam Á
      • Văn hóa Nam Á và Tây Nam Á
      • Văn hóa châu Âu
      • Văn hóa châu Mỹ
      • Văn hóa châu Phi và châu Úc
    • Văn hóa học ứng dụng
      • VHƯD: Những vấn đề chung
      • VHH nghệ thuật
      • Văn hóa đại chúng
      • Văn hóa giao tiếp
      • Văn hóa du lịch
      • Văn hóa đô thị
      • Văn hóa kinh tế
      • Văn hóa quản trị
      • Văn hóa giáo dục - khoa học
    • Tài liệu phổ cập VHH
      • Văn hóa Việt Nam
      • Văn hóa thế giới
      • VHH ứng dụng
    • Tài liệu tiếng nước ngoài
      • Theory of Culturology
      • Vietnamese Culture
      • Applied Culturology
      • Other Cultures
      • 中文
      • Pусский язык
    • Thư Viện Số (Sách - Ảnh - Video)
      • Tủ sách Văn hoá học
      • Thư viện ảnh
      • Thư viện video
    • Các nhà văn hóa học nổi tiếng
  • Tiện ích
    • Dịch vụ Văn hóa học
    • Dịch vụ ngoài VHH
    • Trợ giúp vi tính
    • Từ điển Văn hóa học
    • Thư viện TT và Khoa
    • Tổng mục lục website
    • Tủ sách VHH Sài Gòn
    • Giải đáp thắc mắc
  • Thư giãn VHH
    • Văn chương Việt Nam
    • Văn chương nước ngoài
    • Nghệ thuật Việt Nam
    • Nghệ thuật thế giới
    • Hình ảnh vui
    • Video vui
  • Diễn đàn
  • Liên hệ
  • Trang chủ
  • Nghiên cứu
  • Văn hóa học ứng dụng
  • Văn hóa du lịch
Tuesday, 08 October 2019 13:44

Hà Thị Thùy Dương. Giải quyết mối quan hệ giữa bảo tồn, phát huy di sản văn hóa với phát triển du lịch ở Việt Nam hiện nay

Người post bài:  Nguyễn Thị Tuyết Ngân

Additional Info

  • Tiêu đề:

    GIẢI QUYẾT MỐI QUAN HỆ GIỮA BẢO TỒN, PHÁT HUY DI SẢN VĂN HÓA
    VỚI PHÁT TRIỂN DU LỊCH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

  • Tác giả:

    ThS. Hà Thị Thùy Dương

  • Chức danh:

    Học viện Chính trị khu vực IV

Hà Thị Thùy Dương. Giải quyết mối quan hệ giữa bảo tồn, phát huy di sản văn hóa với phát triển du lịch ở Việt Nam hiện nay

Di sản văn hóa trở thành tài nguyên để phát triển kinh tế du lịch và là một nguồn lực quan trọng trong sự phát triển bền vững của đất nước. Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa là yêu cầu cấp thiết hiện nay, nhất là trong bối cảnh nước ta đang hội nhập ngày càng sâu rộng với thế giới. Khai thác di sản văn hóa để phát triển du lịch là xu thế chung của thế giới hiện nay. Mối quan hệ giữa bảo tồn và phát huy di sản văn hóa với phát triển du lịch là mối quan hệ giữa kinh tế và văn hóa. Vì vậy, nắm được mối quan hệ giữa bảo tồn và phát huy di sản văn hóa với phát triển du lịch sẽ giúp chúng ta có phương hướng phù hợp, hiệu quả để vừa phát triển du lịch, vừa bảo tồn và phát huy di sản văn hóa dân tộc.

1. Mối quan hệ tương hỗ giữa bảo tồn và phát huy di sản văn hóa với phát triển du lịch

Di sản văn hóa là hệ giá trị cơ bản, trọng yếu và bền vững theo thời gian trong văn hóa của mỗi dân tộc. Đảng ta trong Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII đã đưa ra định nghĩa di sản văn hóa như sau: “Di sản văn hóa là tài sản vô giá, gắn kết cộng đồng dân tộc, là cốt lõi của bản sắc dân tộc, cơ sở để sáng tạo những giá trị mới và giao lưu văn hóa” [Đảng Cộng sản Việt Nam 1998: 63]. Luật Di sản văn hóa định nghĩa: “Di sản văn hóa bao gồm di sản văn hóa phi vật thể và di sản văn hóa vật thể, là sản phẩm tinh thần, vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác”. Di sản văn hóa tồn tại dưới hai dạng là di sản văn hóa vật thể và di sản văn hóa phi vật thể. Di sản văn hóa vật thể như hệ thống đình, chùa, miếu mạo. Di sản văn hóa vật thể được tạo tác từ bàn tay khéo léo của con người, để lại dấu ấn lịch sử xã hội rõ rệt, được khách thể hóa và tồn tại như một thực thể ngoài bản thân con người, luôn chịu sự bào mòn thách thức của thời gian trong những tác động, chi phối của con người. Di sản văn hóa phi vật thể là tiếng nói, chữ viết, ngữ văn dân gian, diễn xướng dân gian, tập quán xã hội và tín ngưỡng, lễ hội truyền thống, nghề thủ công truyền thống và tri thức dân gian khác. Dạng thức tồn tại của văn hóa phi vật thể là trí nhớ, ký ức, tập tính, hành vi ứng xử của con người. Đặc trưng rõ nhất của văn hóa phi vật thể là nó luôn chìm khuất trong tâm thức của một cộng đồng và chỉ bộc lộ qua hành vi và hoạt động của con người. Sự phân biệt giữa di sản văn hóa vật thể và phi vật thể chỉ là tương đối vì thực tế chúng luôn đi liền với nhau. Trong di sản văn hóa phi vật thể cũng có yếu tố vật thể, ví dụ lễ hội là di sản văn hóa phi vật thể nhưng vẫn chứa đựng những yếu tố vật thể vì bao giờ cũng diễn ra ở một nơi, gọi là di tích, có lễ phục, vật cúng,… Các di tích lịch sử văn hóa là di sản văn hóa vật thể nhưng luôn có những truyền thuyết, huyền thoại, thần phả, thần tích liên quan đến di tích, đó là di sản văn hóa phi vật thể.

Cả di sản văn hóa vật thể và phi vật thể đều cần phải được bảo tồn, được phát huy. Bảo tồn là bảo vệ và giữ gìn sự tồn tại của sự vật, hiện tượng theo dạng thức vốn có của nó, giữ lại không để mất đi, biến đổi. Tuy nhiên, bảo tồn di sản văn hóa vật thể có những nét khác so với bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể. Di sản văn hóa vật thể nằm ngoài con người nhưng nó cũng bị bào mòn, hư hỏng theo thời gian và các hoạt động của con người, do đó cần được bảo tồn. Tuy nhiên, bản chất của việc bảo tồn di sản văn hóa vật thể là giữ nguyên trạng và cố định, đảm bảo di sản vật thể đúng như ban đầu, nguyên gốc của nó. Di sản văn hóa phi vật thể tồn tại thông qua hành vi của con người, vì tồn tại qua hoạt động của con người nên di sản phi vật thể dễ bị mất đi nếu con người không có ý thức giữ gìn nó, vì vậy nó càng cần thiết phải được bảo tồn. Di sản văn hóa phi vật thể được chuyển giao qua nhiều thế hệ, được tái tạo để thích nghi với môi trường sống. Con người qua mỗi thế hệ, thời đại có những thay đổi làm cho di sản phi vật thể có sự thay đổi theo mục tiêu, yêu cầu, nhu cầu của con người ở thời điểm, không gian có tính lịch sử đó. Bởi lẽ đó, người ta mới nói di sản chính là lịch sử được lựa chọn, là sự lựa chọn của hôm nay với những cái hôm qua để lại. Sự vận động biến đổi là tất yếu bởi di sản văn hóa phi vật thể gắn bó chặt chẽ với đời sống con người. Bản chất của việc bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể là tiếp nối và biến đổi chứ không phải giữ nguyên dạng như văn hóa vật thể.

Phát huy là làm cho những cái hay, cái đẹp được nhân rộng, phát huy là khai thác và sử dụng sản phẩm một cách hiệu quả. Nếu chỉ bảo tồn di sản thì chưa đủ mà còn phải phát huy. Phát huy di sản là làm cho những giá trị của di sản được ứng dụng trong đời sống xã hội. Đó là cách bảo tồn di sản một cách hiệu quả nhất bởi lẽ di sản chỉ thực sự sống khi nó sống trong suy nghĩ, nhận thức và hành động của con người. Tuy nhiên, để phát huy được di sản thì trước hết phải bảo tồn được di sản. Một trong các cách thức để phát huy giá trị của di sản văn hóa là phát triển du lịch. Vì vậy, giữa phát triển du lịch với bảo tồn và phát huy di sản văn hóa có mối quan hệ gắn bó khăng khít, hòa nhập lẫn nhau không thể tách rời. Quan điểm gắn kết bảo tồn và phát huy di sản văn hóa với phát triển du lịch đã được Đảng ta khẳng định và chỉ đạo. Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI của Đảng về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước khẳng định: “Xây dựng cơ chế để giải quyết hợp lý, hài hòa giữa bảo tồn, phát huy di sản văn hóa với phát triển kinh tế, xã hội. Bảo tồn, tôn tạo các di tích lịch sử văn hóa tiêu biểu, phục vụ cho giáo dục truyền thống và phát triển kinh tế, gắn kết bảo tồn, phát huy di sản văn hóa dân tộc với phát triển du lịch”. Chúng ta phải gắn kết bảo tồn, phát huy di sản văn hóa dân tộc với phát triển du lịch vì mối quan hệ giữa hai vấn đề này, thể hiện cụ thể như sau:

Thứ nhất, bảo tồn và phát huy di sản văn hóa dân tộc là cơ sở để phát triển du lịch

Theo Điều 4 Luật Du lịch, “du lịch là hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong một thời gian nhất định”. Với định nghĩa du lịch như vậy, chúng ta thấy tài nguyên du lịch gồm tài nguyên thiên nhiên và tài nguyên văn hóa (bảo tàng, di tích, lễ hội, phong tục tập quán,...). Du lịch có quan hệ mật thiết với văn hóa, với di sản văn hóa đến mức người ta đưa ra khái niệm mới là du lịch văn hóa. Xét về bản chất, du lịch văn hóa là hình thức trải nghiệm văn hóa mà nền tảng là các giá trị di sản văn hóa vật thể và phi vật thể. Các di sản văn hóa có thể đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải trí của con người. Đi du lịch lễ hội, người ta có thể tìm hiểu về những giá trị văn hóa độc đáo trong lễ hội như các hình thức diễn xướng nhân gian, cách thức biểu đạt tâm linh của cộng đồng, các món ăn truyền thống, đồng thời đáp ứng nhu cầu giải trí của con người, đặc biệt khi tham gia phần hội. Do đó, di sản văn hóa dân tộc là tài nguyên vô giá cho phát triển du lịch, làm tăng lượng điểm đến và sức hấp dẫn của điểm đến du lịch. Những giá trị văn hóa của di sản tạo nên tính đặc sắc của sản phẩm, tạo nên cái hồn cho sản phẩm du lịch, là động lực thúc đẩy khách đi du lịch. Những di sản văn hóa càng có giá trị độc đáo, càng sâu sắc lại càng có sức hấp dẫn cho điểm đến du lịch. Để hệ thống di tích, di sản phát huy được giá trị phục vụ cho hoạt động du lịch thì nó phải chứa đựng trong nó nhiều giá trị. Những giá trị đó mới là cái đích thực, nét văn hóa sâu sắc tạo nên đặc trưng của dân tộc. Bảo tồn, phát huy được những nét văn hóa này chúng ta mới tạo ra bước đột phá trong hoạt động du lịch. Vì vậy, chúng ta thấy những di sản văn hóa vật thể và phi vật thể của Việt Nam khi được UNESCO công nhận thì trở thành những điểm đến du lịch rất hấp dẫn, thu hút rất đông du khách trong và ngoài nước, mang lại nguồn doanh thu rất lớn. Di sản văn hóa thế giới Cố đô Huế đón 1,9 triệu lượt khách mỗi năm và doanh thu bán vé tham quan thắng cảnh đạt 139,8 tỷ đồng. Di sản Phố cổ Hội An đón 1,5 triệu lượt khách, doanh thu vé thắng cảnh đạt 80 tỷ đồng [Nguyễn Hữu Thức 2016]. Vì vậy, việc bảo tồn và phát huy di sản văn hóa có tác động trực tiếp tới phát triển du lịch. Nếu chúng ta bảo tồn và phát huy tốt di sản, những giá trị độc đáo, đặc sắc trong mỗi di sản được gìn giữ không bị mất hoặc làm biến dạng di sản thì sẽ thúc đẩy du lịch phát triển. Càng có nhiều di sản, giá trị của di sản văn hóa càng sâu sắc thì du lịch càng phát triển.

Thứ hai, phát triển du lịch tạo cơ sở, tiền đề cho bảo tồn và phát huy di sản văn hóa dân tộc

Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa là cơ sở để phát triển du lịch, đồng thời phát triển du lịch lại tạo tiền đề cho bảo tồn và phát huy di sản văn hóa dân tộc. Phát triển du lịch là một hình thức khai thác, phát huy di sản mà phát huy di sản cũng là cơ sở cho bảo tồn di sản. Điều đó thể hiện cụ thể như sau:

Du lịch là phát huy di sản vì nó góp phần tuyên truyền, giới thiệu, quảng bá về những giá trị độc đáo của di sản văn hóa Việt Nam tới mọi người dân và bạn bè quốc tế. Phát triển du lịch là một hình thức truyền bá các giá trị của di sản văn hóa ở trong nước và ngoài nước đã được Đảng ta khẳng định “thực hiện nghiêm túc các quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ, về bảo tồn, phát huy các giá trị di sản văn hóa vật thể và phi vật thể của dân tộc. Gắn kết chặt chẽ nhiệm vụ phát triển văn hóa, văn nghệ, bảo tồn, phát huy các giá trị di sản văn hóa với phát triển du lịch và hoạt động thông tin đối ngoại nhằm truyền bá sâu rộng các giá trị văn hóa trong công chúng, đặc biệt là thế hệ trẻ và người nước ngoài” [Đảng Cộng sản Việt Nam 2011: 225]. Có nhiều kênh để truyền bá các giá trị của di sản văn hóa. Một trong những kênh truyền bá các giá trị di sản văn hóa quan trọng là truyền bá qua các tour du lịch. Khác với các kênh thông tin có khả năng tuyên truyền và quảng bá các giá trị văn hóa khác, truyền bá, quảng bá bằng dịch vụ du lịch sẽ cho công chúng xem tận mắt, sờ tận tay, thưởng thức trực tiếp những giá trị văn hóa, vì thế, có sức lan tỏa và gây ấn tượng sâu sắc. Do đó, hiệu quả của việc truyền bá giá trị của di sản văn hóa qua du lịch là rất cao so với các hình thức khác.

Thông qua phát triển du lịch, chúng ta có nguồn thu để đảm bảo kinh phí cho hoạt động bảo tồn di sản, trùng tu, tôn tạo các di tích. Các nguồn thu từ phát triển du lịch di sản văn hóa luôn được trích lại để trùng tu, tôn tạo những di sản đó. Du lịch càng phát triển thì nguồn kinh phí cho công tác trùng tu tôn tạo càng lớn, càng thuận lợi cho công tác bảo tồn. Thực tế đó được thể hiện qua các số liệu sau:

Quỹ trùng tu tu bổ di sản văn hóa thế giới Đô thị cổ Hội An qua các năm

Đơn vị: tỷ đồng

Chỉ tiêu 2010 2011 2012
Doanh thu bán vé tham quan 32,09 43,13 54,26
Nộp quỹ bảo tồn trung tu di tích 24,068 32,348 40,695

[Nguyễn Thống Nhất 2016: 110]

Như vậy, quỹ trùng tu tu bổ di tích phố cổ Hội An chiếm 75% số tiền bán vé.

Quỹ trùng tu, tu bổ di sản văn hóa thế giới cố đô Huế qua        các năm

Đơn vị: tỷ đồng

Chỉ tiêu 2010 2011 2012
Doanh thu bán vé tham quan 62,88 70,4 83,65
Kinh phí trùng tu 52,795 59,016 64,164

[Nguyễn Thống Nhất 2016: 110]

Số tiền dùng để trùng tu di sản cố đô Huế hàng năm chiếm 80% số tiền bán vé.

Phát triển du lịch di sản văn hóa cũng sẽ góp phần vào việc tạo dư luận xã hội rộng rãi quan tâm đến sự nghiệp bảo tồn các giá trị của di sản văn hóa truyền thống. Chính quyền và người dân địa phương nơi có di sản văn hóa là người trực tiếp hưởng lợi từ phát triển du lịch. Số tiền thu được do bán vé tại các di tích và danh thắng mới chỉ chiếm 10% tổng chi trả của du khách cho tour du lịch, còn lại 90% là do ngành du lịch và cư dân địa phương thu [Nguyễn Kim Loan (cb) 2014: 156]. Vì vậy, khi một di sản văn hóa được đưa vào khai thác phát triển du lịch, người dân sẽ quan tâm đến việc bảo tồn và phát huy các di sản đó hơn, bởi hoạt động bảo tồn đã liên quan trực tiếp đến lợi ích của họ. Điều này càng có ý nghĩa khi đó là các di sản văn hóa phi vật thể tồn tại thông qua hoạt động của cộng đồng địa phương. Người dân là chủ thể, là người thực hiện các di sản văn hóa đó.

Phát triển du lịch di sản không chỉ thúc đẩy việc bảo tồn và phát huy di sản văn hóa đó mà còn thúc đẩy việc bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa khác có cùng môi trường, không gian tồn tại. Bởi lẽ, để có thể phát triển du lịch, người ta phải đa dạng hóa các sản phẩm du lịch, do đó phải khai thác các di sản văn hóa khác liên quan. Ví dụ, phát triển du lịch tham quan cố đô Huế thì đồng thời sẽ góp phần bảo tồn và phát huy di sản văn hóa phi vật thể như nhã nhạc cung đình Huế vì các hoạt động văn hóa phi vật thể cũng sẽ được bảo tồn và khai thác để phục vụ du khách.

Việc bảo tồn và phát huy giá trị của di sản văn hóa trong phát triển kinh tế du lịch được tiến hành đồng thời trong cùng một quá trình. Nếu chỉ quan tâm đến bảo tồn và không chú ý đến phát huy sẽ dẫn đến di sản chỉ là cái vỏ bề ngoài, mất đi giá trị - phần hồn bên trong của nó. Do đó, bảo tồn và phát huy di sản văn hóa phải gắn với phát triển du lịch. Ngược lại, nếu chỉ quan tâm đến khai thác, phát huy giá trị của di sản nhằm mục đích kinh tế (chỉ chú ý đến phát triển du lịch vì mục tiêu lợi nhuận) mà không chú ý đến bảo tồn sẽ dẫn đến nguy cơ hủy hoại toàn bộ giá trị của di sản. Do đó, để du lịch phát triển mà không ảnh hưởng đến bảo tồn và phát huy di sản mà ngược lại, góp phần thúc đẩy việc bảo tồn và phát huy di sản thì du lịch phải chú ý khai thác hợp lý di sản văn hóa. Khai thác hợp lý là khai thác nhưng vẫn giữ được tài nguyên, đảm bảo tài nguyên không bị hư hại mà vẫn đáp ứng được yêu cầu của thế hệ tương lại. Nhiều nhà nghiên cứu đã chỉ ra các tiêu chí khai thác di sản hợp lý cho phát triển du lịch

Xác định các tiêu chí khai thác hợp lý giá trị di sản

Nhân tố chính Tiêu chí khai thác hợp lý
Tăng cường giá trị của các di sản

1. Khai thác đầy đủ các di sản văn hóa

2. Khai thác đi đôi với trùng tu, tôn tạo, bảo vệ các di tích và giữ gìn những giá trị văn hóa truyền thông, phát huy tính độc đáo của các di sản văn hóa thế giới

3. Có nguồn vốn tái đầu tư để bảo vệ di sản văn hóa thế giới

Đảm bảo đem lại lợi ích kinh tế cho cộng đồng

1. Khai thác đem lại việc làm và thu nhập cho cộng đồng

2. Khai thác kết hợp với các loại hình du lịch khác

Quan tâm đến bảo vệ môi trường tại di sản

Chú ý đến sức chứa trong quá trình khai thác

Khai thác luôn đi đôi với bảo vệ môi trường du lịch

[Nguyễn Thống Nhất 2016: 58]

2. Những xu hướng phát triển du lịch có thể ảnh hưởng tiêu cực đến bảo tồn và phát huy di sản

Nếu phát triển du lịch, khai thác các di sản văn hóa một cách thái quá vì mục tiêu lợi nhuận thì có thể tác động tiêu cực đến việc bảo tồn và phát huy di sản văn hóa. Điều đó thể hiện ở chỗ hoạt động du lịch có thể gây ô nhiễm môi trường, ô nhiễm không khí, ô nhiễm tiếng ồn trong khu di tích, di sản. Những di sản văn hóa càng có giá trị độc đáo, càng thu hút nhiều du khách. Nếu du lịch phát triển không đúng hướng càng có nguy cơ cao dẫn đến phá hoại di tích, di sản. Số lượng khách du lịch quá tải vào mùa du lịch, mùa lễ hội, chất thải rắn do hoạt động của du khách không được thu dọn, đe dọa đến tuổi thọ của nhiều hạng mục trong khu di sản, đồng thời mất mỹ quan khu di sản, ảnh hưởng trực tiếp đến phát triển du lịch. Ví dụ, ở khu phố cổ Hội An, kênh Chùa Cầu, do hứng chịu các loại nước thải ngày càng nhiều nên trở thành kênh nước đen và bị ô nhiễm trầm trọng, bốc mùi gây ảnh hưởng đến cảnh quan di tích. Đó là nước thải từ các hộ dân, doanh nghiệp, nhà hàng, khách sạn không qua xử lý. Việc du khách tập trung quá đông tại di sản, vượt quá khả năng sức chứa của di sản có thể ảnh hưởng đến sự tồn tại của di sản, phá hỏng di sản. Thêm vào đó, nếu ý thức của du khách không cao, họ có thể có những hành vi xâm hại đến di tích như bẻ cành, hái hoa, viết vẽ, xô đổ hiện vật,...

Nếu phát triển du lịch một cách tự phát, phát triển vì mục tiêu lợi nhuận đơn thuần có thể dẫn tới tình trạng cho xây dựng các công trình phục vụ du lịch như hàng quán, khách sạn trong khu di sản, di tích, từ đó ảnh hưởng đến không gian tồn tại của di sản. Ví dụ điển hình là việc xây dựng khách sạn trong khu vực đồi Vọng Cảnh (Thừa Thiên Huế), may mà vi phạm này đã được ngăn chặn kịp thời.

Việc phát triển du lịch nếu chạy theo nhu cầu của du khách đơn thuần cũng có thể phá hoại các giá trị của di sản. Ví dụ như trùng tu, tôn tạo di tích theo hướng to hơn, hoành tráng, hiện đại, bắt mắt hơn với du khách có thể làm sai lệch nguyên dạng di tích, làm mất đi những giá trị vốn có của di tích. Hay để thu hút du khách tham gia lễ hội, người ta tổ chức nhiều trò chơi mang tính giải trí của thời hiện đại, lược bớt phần nghi lễ, các hình thức diễn xướng và trò chơi dân gian… sẽ làm mất đi những giá trị của di sản. Điều này cũng sẽ tác động tiêu cực trở lại đối với du lịch.

Phát triển du lịch di sản văn hóa, số lượng du khách đông nhưng không chú ý đào tạo, xây dựng một đội ngũ hướng dẫn viên am hiểu sâu sắc các giá trị của di sản, có khả năng trình bày thuyết phục thì du khách nhiều khi đến di sản nhưng không hiểu giá trị của di sản. Khi đó, ý nghĩa phát huy di sản thông qua hoạt động du lịch sẽ không thành hiện thực. Đó là chưa kể, nếu chúng ta không có đội ngũ hướng dẫn viên bản địa, hay quản lý được hướng dẫn viên của các công ty du lịch từ nơi khác đến thì lời thuyết minh của họ có thể làm sai lệch ý nghĩa, giá trị của di sản.

3. Giải pháp giải quyết tốt mối quan hệ giữa bảo tồn và phát huy di sản văn hóa với phát triển du lịch

Giải quyết tốt mối quan hệ giữa bảo tồn và phát huy di sản văn hóa với phát triển du lịch là làm sao để hoạt động du lịch vừa phát triển nhằm đạt được mục tiêu kinh tế vừa góp phần vào việc bảo tồn và phát huy di sản văn hóa. Muốn vậy, du lịch phải khai thác hợp lý di sản văn hóa thông qua các giải pháp sau đây:

Thứ nhất, tăng cường quảng bá điểm đến di sản văn hóa

Du lịch càng thu hút được nhiều du khách đến với di sản thì các giá trị của di sản văn hóa càng được quảng bá một cách rộng rãi. Vì vậy, để du lịch phát huy tốt các giá trị của di sản thì phải tăng cường quảng bá di sản. Trong những năm qua, nhiều sáng kiến quảng bá di sản góp phần quảng cáo du lịch, thu hút du khách đến với di sản như năm du lịch Hạ Long, Festival Huế, Quảng Nam hành trình di sản, Con đường di sản miền Trung,… Trong thời gian tới, chúng ta cần đa dạng hóa hơn nữa các hình thức quảng bá như xây dựng chuyên trang về di sản văn hóa nổi tiếng, giới thiệu những giá trị di sản, các tour, tuyến du lịch khai thác di sản. Thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng, đặc biệt là trong bối cảnh công nghệ thông tin hiện nay cần khai thác các trang mạng xã hội zalo, facebook, youtube, twitter,… vào việc quảng bá điểm đến di sản. Đồng thời, có thể viết các bài giới thiệu về giá trị, sức hấp dẫn của di sản thành các tờ rơi để ở nhà ga, bến tàu, bến xe khách, đăng ở các tờ tạp chí của các hãng hàng không để tiếp cận dễ hơn tới du khách, đặc biệt là du khách nước ngoài. Bởi đa số khách hàng không là du khách tham quan du lịch, có nhu cầu và khả năng đi du lịch.

Thứ hai, đa dạng hóa sản phẩm du lịch để khai thác đầy đủ giá trị di sản

Thực tế, nhiều di sản văn hóa đã được khai thác phát triển du lịch nhưng chưa đầy đủ, cả về số lượng và chất lượng các giá trị của di sản. Vì vậy, khai thác đầy đủ sẽ giúp các giá trị của di sản được phát huy tốt nhất. Ví dụ như di tích Cố đô Huế vẫn còn có nhiều điểm do khách quan và chủ quan chưa được đưa vào khai thác, cho du khách đến tham quan. Di sản văn hóa là của cộng đồng địa phương, của dân tộc nên có sự kết nối với các di sản văn hóa khác trên địa bàn. Vì vậy, các tour du lịch cũng cần thiết kế nhiều chương trình trải nghiệm, tìm hiểu các giá trị của nhiều di sản văn hóa khác nhau trên một địa bàn. Ví dụ như tour du lịch tham quan cố đô Huế có thể thiết kế các chương trình tham gia lớp học một điệu nhạc cung đình miễn phí, chương trình nấu ăn cho du khách để tiếp cận văn hóa ẩm thực độc đáo của xứ Huế, cung đình Huế thời xưa… Điều này không chỉ tăng thời gian lưu trú của khách, đáp ứng mục tiêu tăng lợi nhuận của ngành du lịch mà còn giúp du khách tìm hiểu sâu hơn, đa dạng hơn các giá trị của di sản văn hóa.

Thứ ba, giáo dục ý thức bảo vệ di sản cho du khách và cộng đồng địa phương

Để hoạt động du lịch không làm ảnh hưởng đến công tác bảo tồn di sản thì phải nâng cao ý thức bảo vệ di sản cho cả du khách và cộng đồng địa phương với một số giải pháp sau:

Tập huấn chuyên môn, thái độ ứng xử với di sản, với du khách tham quan cho cán bộ và nhân dân địa phương có di sản. Các đối tượng tham gia khai thác du lịch tại di sản không chỉ cán bộ du lịch mà cả người bán hàng, dân địa phương, lái xích lô, xe ôm tạo ra hoạt động du lịch bền vững tại khu di sản văn hóa.

Nâng cao ý thức bảo vệ di sản của du khách bằng việc tăng cường các bảng hướng dẫn, ngăn cấm các hành vi xâm hại di tích cho du khách, công tác tuyên truyền ý thức bảo vệ di sản thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng,…

Thứ tư, huy động nguồn vốn trong nước và ngoài nước cho hoạt động trùng tu, tôn tạo, bảo vệ di tích

Khai thác di sản trong du lịch phải gắn liền với công tác tu bổ, trùng tu tôn tạo di tích nếu không di tích sẽ bị hủy hoại, tàn phá bởi chính hoạt động du lịch của con người. Chẳng hạn như trùng tu các di tích xuống cấp, mở rộng sức chứa của di tích bằng việc xây dựng thêm một số hạng mục kết cấu hạ tầng. Muốn vậy, cần phải có nguồn kinh phí lớn mà kinh phí từ hoạt động thu vé tham quan là không đủ. Ví dụ Thánh địa Mỹ Sơn có nhiều tháp đã xuống cấp cần được trùng tu bằng nguồn kinh phí rất lớn mà tiền thu vé hàng năm là quá ít so với nhu cầu. Vì vậy, cần huy động nguồn vốn trong và ngoài nước cho hoạt động trùng tu, tôn tạo. Ngoài nguồn thu vé tham quan, cần yêu cầu các doanh nghiệp lữ hành có đưa khách đến tham quan di sản trích một phần lợi nhuận của mình đóng góp vào quỹ bảo tồn di sản. Kêu gọi sự tài trợ của các tổ chức nước ngoài cũng như sự đóng góp của cộng đồng địa phương, nhất là người dân địa phương tham gia hoạt động du lịch tại di sản.

Thứ năm, quan tâm bảo tồn các giá trị của di sản để tăng tính hấp dẫn của điểm đến

Để di sản thu hút được du khách thì phải bảo tồn được nguyên vẹn những giá trị độc đáo, đặc sắc của di sản. Việc bảo tồn và phát huy các giá trị di sản trước hết phải vì cộng đồng, dân tộc, vì chính nhu cầu của địa phương hơn là vì nhu cầu của du khách. Cần tránh quan niệm của một số địa phương khôi phục lễ hội, đầu tư cho di tích chỉ vì mục đích thu hút du khách, phát triển du lịch. Vì vậy, trùng tu, tôn tạo cần đảm bảo tính chân thực của di tích, vật liệu trùng tu cần đảm bảo số lượng, chất lượng, quy cách, kích thước sao cho không ảnh hưởng đến tính nguyên vẹn của di tích. Việc khôi phục, bảo tồn các di sản văn hóa phi vật thể dù có những biến đổi cho phù hợp vẫn phải giữ nguyên những giá trị bất biến độc đáo, đặc sắc riêng có của các di sản. Đây là công việc khó khăn, đòi hỏi phát huy vai trò của các nghệ nhân đang nắm giữ linh hồn của di sản, những thợ mộc, thợ nề truyền thống, hội đồng thẩm định chuyên môn quốc gia về di sản văn hóa, những nhà nghiên cứu sâu về văn hóa, đồng thời kêu gọi nhà đầu tư, các tổ chức quốc tế hỗ trợ về mặt chuyên gia, kỹ thuật.

Thứ sáu, xây dựng đội ngũ hướng dẫn viên đủ về số lượng và chất lượng cho các điểm đến di sản

Chất lượng của đội ngũ hướng dẫn viên có ý nghĩa rất lớn trong việc truyền bá đầy đủ, đúng đắn, sâu sắc những giá trị của di sản đến du khách. Tuy nhiên, có một thực tế là nhiều công ty du lịch, nhất là những công ty nhỏ, khai thác điểm đến di sản sử dụng hướng dẫn viên của họ, trình độ năng lực hiểu biết về điểm đến di sản còn hạn chế (hướng dẫn viên của công ty mà đến di sản nào cũng thuyết minh, giới thiệu thì chắc chắn sự hiểu biết sẽ không sâu), không thể am hiểu chuyên sâu về giá trị của di sản như những hướng dẫn viên của mỗi di sản văn hóa. Ví dụ như cố đô Huế có 800 hướng dẫn viên được cấp thẻ, trong đó 250 thẻ hướng dẫn viên nội địa và 550 thẻ hướng dẫn viên quốc tế [Nguyễn Thống Nhất 2016: 234]. Tình trạng hướng dẫn viên nơi khác dẫn đoàn đến Huế khá phổ biến. Việc không sử dụng hướng dẫn viên của địa phương có di sản, của chính di sản văn hóa ảnh hưởng đến mức độ hiểu biết giá trị di sản của du khách. Vì vậy, để du lịch thực sự góp phần quảng bá giá trị của di sản văn hóa, cần có cơ chế bắt buộc các công ty du lịch phải sử dụng hướng dẫn viên tại địa phương, hoặc có cơ chế kiểm tra năng lực, trình độ của hướng dẫn viên các công ty du lịch về mức độ hiểu biết các giá trị của di sản thì mới cấp thẻ hướng dẫn tại di sản đó.

Thứ bảy, tăng cường các biện pháp bảo vệ môi trường trong khu di tích, di sản

Trong kinh phí cho trùng tu, tôn tạo di tích cần dành một nguồn kinh phí cho công tác bảo vệ môi trường tại khu di tích, di sản như tăng cường số lượng các thùng rác cho du khách, áp dụng các hệ thống xử lý nước thải, rác thải trong khu di tích. Những điểm nóng về ô nhiễm môi trường ở khu di tích cần sớm được khắc phục, xử lý, thuê nhân lực thu gom rác thải trong khu ti tích... Áp dụng các tiêu chuẩn quản lý môi trường và cấp chứng chỉ du lịch bền vững, thường xuyên đánh giá và giám sát sự tác động của du lịch tới khu di tích, di sản là những giải pháp quan trọng để hoạt động du lịch không ảnh hưởng đến công tác bảo vệ di sản.

Giải quyết tốt mối quan hệ giữa bảo tồn và phát huy di sản với phát triển du lịch là một yêu cầu cấp thiết hiện nay để đảm bảo phát triển bền vững ở nước ta. Để có thể giải quyết tốt mối quan hệ này thì đòi hỏi sự chủ động, quyết tâm của cấp chính quyền, du khách, người dân địa phương và các ngành, các cấp với một hệ thống giải pháp đồng bộ.Tuy nhiên, chỉ có như vậy chúng ta mới vừa phát triển kinh tế, vừa giữ gìn được bản sắc dân tộc bởi di sản văn hóa chính là linh hồn, là yếu tố quan trọng nhất của bản sắc dân tộc.

TÀI LIỆU THAM KHẢO VÀ TRÍCH DẪN

  1. Đảng Cộng sản Việt Nam 1998: Văn kiện Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII. – NXB Chính trị Quốc gia.
  2. Đảng Cộng sản Việt Nam 2011: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. – NXB Chính trị Quốc gia, tr 225.
  3. Nguyễn Hữu Thức 2016: Bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa dân tộc trong phát triển kinh tế du lịch. - Tạp chí Tuyên giáo, số 5.
  4. Nguyễn Kim Loan (cb) 2014: Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa Việt Nam. - NXB Văn hóa Thông tin.
  5. Nguyễn Thống Nhất 2016: Phát triển du lịch trên cơ sở khai thác hợp lý các giá trị di sản văn hóa vật thể. - NXB Đà Nẵng.

Nguồn: Sách “Quản lý và khai thác di sản văn hóa trong thời kỳ hội nhập”

Lên trên

Cùng chủ đề

  • Nguyễn Phúc Lưu. Giải pháp phát triển du lịch di sản văn hóa

  • Misha Ketchell. Doanh thu của ngành công nghiệp du lịch sụt giảm 50% do dịch bệnh

  • Trần Hồng Cơ. Phát triển du lịch có bảo tồn được di sản văn hóa?

  • Ban Quản lý Di tích Lịch sử - Văn hóa Lăng Lê Văn Duyệt. Công tác quản lý và khai thác di sản văn hóa trong phát triển du lịch

  • Võ Văn Thành. Di sản văn hóa thế giới tại Việt Nam trong du lịch

Thông báo

Tư vấn khoa học và kỹ năng nghiên cứu…

Tủ sách văn hoá học Sài Gòn

  • Thư viện ảnh
  • Thư viện video
  • Tủ sách VHH

Phóng sự ảnh: Toạ đàm khoa học: Xây dựng…

Hình ảnh văn hóa Tết xưa (sưu tầm)

Phóng sự ảnh: Lễ hội truyền thống VHH 2011

Phóng sự ảnh Lễ hội truyền thống VHH 2010

Thành phố Sankt-Peterburg, Nga

Bộ ảnh: Việt Nam quê hương tôi 2

Tranh Bùi Xuân Phái

Bộ tem tượng Phật chùa Tây Phương

Bộ ảnh: Đá cổ Sapa

Bộ ảnh: Phong cảnh thiên nhiên

Bộ ảnh: Việt Nam quê hương tôi

"Biển, đảo Việt Nam - Nguồn cội tự bao đời":…

Con dê trong văn hóa và văn hóa Việt Nam

Văn hóa Tết ở Tp.HCM (Chương trình truyền…

Văn hóa Tp. HCM: Một năm nhìn lại và động…

Phong tục Tết cổ truyền của người Nam Bộ

Bánh tét và Tết phương Nam

Con ngựa trong văn hóa và văn hóa Việt Nam

Điện Biên Phủ - Cuộc chiến giữa hổ và voi

Nhìn lại toàn cảnh thế giới từ 1911-2011…

Tọa độ chết - một bộ phim Xô-Việt xúc động…

Video: Lễ hội dân gian Việt Nam

Văn hoá Việt từ phong tục chúc Tết

Văn hoá Tết Việt qua video

Tết ông Táo từ góc nhìn văn hoá học

“Nếp nhà Hà Nội” trên “Nhịp cầu vàng”: tòa…

Văn hóa Thăng Long - Hà Nội qua video: từ…

Hướng về 1000 năm TL-HN: Xem phim “Tử Cấm…

Hướng về 1000 năm TL-HN: Người Thăng Long…

Phim "Chuyện tử tế" – tập 2 (?!) của “Hà…

Default Image

Hướng về 1000 năm TL-HN: "Chuyện tử tế" -…

Sách “Di sản Ấn Độ trong văn hóa Việt Nam”

Nguyễn Văn Bốn. Tín ngưỡng thờ Mẫu của người…

Sách: Quản lý và khai thác di sản văn hóa…

Hồ Sĩ Quý. Con người và phát triển con người

Alonzo L. Hamby. Khái quát lịch sử Mỹ. Phần 3

Alonzo L. Hamby. Khái quát lịch sử Mỹ. Phần 2

Alonzo L. Hamby. Khái quát lịch sử Mỹ. Phần 1

Hồ Sỹ Quý. Tiến bộ xã hội: một số vấn đề về…

Hồ Sỹ Quý. Về Giá trị và Giá trị Châu Á (Phụ…

Hồ Sỹ Quý. Về Giá trị và Giá trị Châu Á…

Hồ Sĩ Quý. Về Giá trị và Giá trị Châu Á…

Sách: Chuyên đề Văn hoá học

Sách: Một số vấn đề về hệ giá trị Việt Nam…

FitzGerald. Sự bành trướng của Trung Hoa…

Hữu Đạt. Đặc trưng ngôn ngữ và văn hoá giao…

Sống chụ son sao (Tiễn dặn người yêu)

Gs. Mai Ngọc Chừ. Số phận & Tâm linh

Trần Văn Cơ. Những khái niệm ngôn ngữ học…

Đoàn Văn Chúc. Văn hóa học (Phần 3 - hết)

Đoàn Văn Chúc. Văn hóa học (Phần 2)

Các nhà VHH nổi tiếng

Julian Haynes Steward

Wen Yi'duo (Văn Nhất Đa)

Leslie Alvin White

Huang Wen'shan (Hoàng Văn Sơn)

Radcliff-Brown, Alfred Reginald

Sapir, Edward

Margaret Mead

Thăm dò ý kiến

Bạn thích cuốn "Cơ sở văn hoá VN" của tác giả nào nhất?

Chu Xuân Diên - 4.8%
Lê Văn Chưởng - 0.9%
Trần Diễm Thuý - 1%
Trần Ngọc Thêm - 37.4%
Trần Quốc Vượng - 53%
The voting for this poll has ended on: 26 06, 2020

Tổng mục lục website

tong muc luc

Tủ sách VHH Sài Gòn

tu sach VHH SG

Thống kê truy cập

  • Đang online :
  • 488
  • Tổng :
  • 3 7 7 2 1 0 3 2
  • Đại học quốc gia TPHCM
  • Đại học KHXH&NV
  • Tran Ngoc Them
  • T.c Văn hóa-Nghệ thuật
  • Tc VHDG
  • Viện NCCN
  • Khoa Văn hóa học
  • Khoa Đông phương học
  • Phòng QLKH
  • Khoa Việt Nam học
  • Khoa Hàn Quốc học
  • BM Nhật Bản học
  • Khoa Văn học - Ngôn ngữ
  • Khoa triết học
  • Khoa Quan hệ quốc tế
  • Khoa Xã hội học
  • Bảo tàng Lịch sử - Văn hóa
  • viettems.com
  • myfaifo.com
Previous Next Play Pause

vanhoahoc.vn (các tên miền phụ: vanhoahoc.edu.vn ; vanhoahoc.net)
© Copyright 2007-2015. Bản quyền thuộc Trung tâm Văn hóa học Lý luận và Ứng dụng, Trường Đại học KHXH & NV - ĐHQG Tp. HCM
ĐT (028) 39104078; Email: ttvanhoahoc@hcmussh.edu.vn; ttvanhoahoc@gmail.com. Giấy phép: số 526/GP-BC, do Bộ Thông tin và Truyền thông cấp ngày 27-11-2007
Ghi rõ nguồn vanhoahoc.vn khi phát hành lại các thông tin từ website này.

Website được phát triển bởi Nhà đăng ký tên miền chính thức Việt Nam trực thuộc Trung Tâm Internet VNNIC.

Văn hóa du lịch