Năm Minh Mạng thứ 20 (1839) ông được phong làm Tuy Quốc Công. Năm 1882, ông được cử làm Hữu Tôn chính Tôn nhân phủ, phong làm Tuy Lý Vương.
Giai đoạn quan trường của Tuy Lý Vương gắn liền với hoàn cảnh chính trị - xã hội Việt Nam vô cùng rối ren, phức tạp. Sau nhiều thất bại liên tiếp về mặt quân sự và sự nhân nhượng về mặt ngoại giao, chính trị của triều Nguyễn, đất nước dần bị thực dân Pháp đặt nền đô hộ. Năm 1883, vua Tự Đức mất, triều đình Huế chia làm hai phe, phe chủ chiến có Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết, còn Tuy Lý Vương đứng về phe chủ hòa, tuy không chấp nhận sự đô hộ của người Pháp, nhưng do bế tắc của thời cuộc và của ý thức “trung quân” đơn thuần nên Tuy Lý Vương rất bất bình trước việc Thuyết – Tường liên tục phế lập các vua (Dục Đức – Hiệp Hòa – Kiến Phúc). Cuối năm 1883, một người con của ông là Hồng Sâm bị giết vì tham gia chống lại phái chủ chiến không thành. Sinh mạng của Tuy Lý Vương lúc đó bị đe dọa nên ông đã xin tá túc với người Pháp một thời gian để tránh cảnh hoạn nạn, do vậy mà khi bị người Pháp đưa về lại Huế, ông bị Thuyết - Tường bắt tội giáng làm Huyện công, sau đó bị đưa đi an trí tại Quảng Ngãi (4/1884). Sau khi vua Đồng Khánh lên ngôi (1885), ông mới được trở về sống ở Huế phục tước Tuy Lý Công. Vào đầu thời Thành Thái (1889), ông được cử làm Phụ chính Thân thần. Năm 1897, ông cáo quan về hưu rồi mất vào năm 1897.
Sinh thời, ông sáng tác nhiều tác phẩm thơ văn có giá trị như: Vỹ Dã hợp tập, gồm 12 quyển, trong đó có 5 quyển văn, 6 quyển thơ, 1 quyển tự truyện. Nữ phạm diễn nghĩa từ (Lời diễn nghĩa các khuôn phép của nữ giới), là tác phẩm bằng chữ Nôm mang nội dung đề cao đạo đức người phụ nữ theo quan điểm luân lý phong kiến, Hòa Lạc ca (Bài ca về con thuyền Hòa Lạc) gồm 64 câu thơ Nôm cùng làm chung với Miên Thẩm và Miên Bửu.
Phủ Tuy Lý Vương tọa lạc tại số 140 đường Nguyễn Sinh Cung, phường Vĩ Dạ, thành phố Huế, diện tích khoảng hơn 2.000 m2 . Trong khuôn viên phủ hiện đang bảo tồn một số di tích kiến trúc sau: Cổng tam quan, Bình phong long mã, Từ đường bà Lê Thị Ái, Từ đường Tuy Lý Vương, Tả vu, Hữu vu. Trong đó, trừ Tam quan và Bình phong đứng riêng biệt ở phía trước, bốn di tích còn lại tạo thành lối cấu trúc nhà có bố cục theo dạng chữ khẩu (口), trong cấu trúc đó, đáng chú ý nhất là Từ đường Tuy Lý Vương nằm phía sau khuôn viên. Công trình này chiếm vị trí trung tâm trong quần thể kiến trúc phủ hợp với kết cấu “Trùng thiềm điệp ốc” chủ đạo (nóc sau nhà bao giờ cũng cao hơn nóc nhà trước), nhà rường ba gian hai chái, phía trước là ba bộ cửa bàn khoa (loại cửa đặc thù của phủ đệ, nhà vườn Huế) chạy nối tiếp, phía sau và hai bên là tường gạch che chắn, mái lợp ngói liệt. Phía trước khuôn viên là ngôi từ đường một gian hai chái thờ phụng thân mẫu ngài là bà Lê Thị Ái.
Về phương diện mỹ thuật, từ ngoài đi vào, có thể thấy tam quan với bờ nóc, bờ quyết đắp cao dáng mái cong hình thuyền với những mô típ trang trí thảo mộc được cách điệu thành rồng dây xen kẽ với mô típ kỷ hà. Trên đỉnh cổng là hình mặt trời với các hồi văn dạng thảo mộc hóa rồng, tất cả đều đắp nổi bằng kỹ thuật khảm sành sứ, trên là những hình bát bửu, tứ linh, tứ thời. Phía trước mặt cổng tam quan là nhiều câu đối bằng chữ Hán.
Hàng chữ ngang chính giữa tam quan: 綏理王祠門 (Tuy Lý Vương từ môn – Cổng nhà thờ Tuy Lý Vương). Hàng chữ ngang bên trái: 孝忠益茂 (Hiếu trung ích mậu – Trung hiếu dồi dào). Hàng chữ ngang bên phải: 文質兼優 (Văn chất kiêm ưu – Văn chất đều tốt).
Câu đối ở hai bên cổng tam quan:
大名垂宇宙
遺像肅清高
Phiên âm:
Đại danh thùy vũ trụ
Di tượng túc thanh cao(1)
(Tên lớn vang danh trùm vũ trụ
Hình dáng trang trọng mà thanh cao)
Câu đối chính giữa công tam quan:
文擬魏曹植
德企漢劉蒼
Phiên âm:
Văn nghĩ Ngụy Tào Thực
Đức xí Hán Lưu Thương
(Văn chương thì theo lối Tào Thực nhà Ngụy
Đức độ bao trùm cả Lưu Thương đời Hán)
Phủ Tuy Lý Vương là một công trình kiến trúc mang những giá trị cao về lịch sử - văn hóa và đã được công nhận là di tích quốc gia vào năm 1991, ngoài nét truyền thống trong kiến trúc một tòa phủ đệ, phủ còn lưu giữ được những giá trị di sản có giá trị như các lỗ bộ (gươm, chùy, kiếm, kích,…), các án thờ, khám thờ được sơn son thếp vàng chạm khắc tinh xảo, với các đồ án tứ linh, bát tửu quen thuộc được bày biện ở nội điện gian thờ từ đường Tuy Lý. Đặc biệt đáng kể đến là hệ thống di sản Hán Nôm mà phủ còn lưu giữ được, ngoài 150 mộc bản là các tác phẩm thơ văn của ngài, phủ còn lưu giữ được khá nhiều văn bản chữ Hán, chữ Nôm được thể hiện trên các hệ thống Hoành phi, đối liễn và 12 bức trướng (mỗi bên 6 bức ngăn cách 3 gian với 2 chái) bên trong gian thờ ngài Tuy Lý Vương. Tất cả đều có nội dung ca ngợi công đức, tài năng của Vương, sự cảm phục của các quan đồng triều, sự ngưỡng mộ của cả sứ thần nước ngoài dành cho ông và là sự thể hiện tình cảm của các thế hệ con cháu đối với Tuy Lý Vương.
Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi chỉ khảo sát phần Hệ thống Hoành phi, câu đối bên trong phủ thờ Tuy Lý Vương và Từ đường Lê Tiệp Dư.
II. Hệ thống Hoành phi câu đối tại phủ Tuy Lý Vương
Về Hệ thống Hoành phi, câu đối, hiện nay phủ còn lưu giữ được 4 bức hoành và 6 cặp đối liễn hầu như còn nguyên vẹn và được đặt ở 2 gian thờ chính.
Về Hoành phi, gồm 4 bức hoành.
Bức thứ nhất được đặt ở gian thờ bà Lê Tiệp Dư nằm phía trước phủ thờ Tuy Lý; đây chính là nơi thờ thân mẫu ngài, bức hoành nằm ở giữa hai dải liên ba che thấp trước và sau gian giữa đề 5 chữ Hán có nội dung là 前朝藜婕妤祠 – Tiền Triều Lê Tiệp Dư(2) (Lê Tiệp Dư triều trước) kèm theo dòng phụ chữ cỡ nhỏ ghi lạc khoản: 嗣德丙寅孟春造 - Tự Đức Bính Dần mạnh xuân tạo – Tạo dựng vào tháng Giêng năm Bính Dần đời vua Tự Đức (Tự Đức thứ 19 năm 1866), phía dưới bố trí án thờ ở trước, giữa là hai sập thờ. Bức thứ hai chính là bức Hoành phi sơn son thiếp vàng gồm 4 chữ Hán đề danh hiệu ngài được đặt ở nội điện gian giữa thờ Tuy Lý Vương phía sau khuôn viên. Nguyên văn như sau: 綏理王祠 - Tuy Lý Vương từ (nhà thờ Tuy Lý Vương) kèm với dòng lạc khoản ghi năm tạo dựng: 成太乙亥仲春吉日造 (Tạo dựng xong vào mùa xuân năm Thành Thái thứ 11 năm 1899). Bức thứ ba và bức thứ tư nằm ở hai bên tả hữu gian thờ Tuy Lý với phần lạc khoản ghi thời gian và danh tính, tước vị của người thực hiện giống nhau. Bức thứ ba được đặt ở bên tả gian thờ (nhìn từ trong ra), phía dưới là bức ảnh ngài Tuy Lý với bộ thường phục với nguyên văn: 達天下尊 – Đạt thiên hạ tôn (Được thiên hạ tôn trọng); gồm 2 phần lạc khoản. Phần thứ nhất ghi danh tánh và tước vị người thực hiện: 清督尊室詠拜奉 - Thanh đốc Tôn Thất Vịnh bái phụng (Tổng đốc Thanh Hóa Tôn Thất Vịnh kính bái). Phần thứ hai ghi ngày thực hiện: 成泰丁酉仲秋 - Thành Thái Đinh Dậu trọng thu (Mùa thu năm Đinh Dậu đời Thành Thái – Thành Thái thứ 9 năm 1897). Bức thứ tư nằm ở bên hữu gian thờ (nhìn từ trong ra), phía dưới được đặt bức ảnh Vương đang mặc bộ triều phục, bức hoành như sau: 河间大雅 – Hà Gian(3) đại nhã (Dáng dấp tao nhã của Hà Gian).
Ngoài gian thờ chính giữa thờ phụng ngài Tuy Lý Vương, hai bên là hai gian tả hữu của từ đường còn có các án thờ và bài vị các con trai (gian tả) và các con gái (gian hữu) của ngài.
Về câu đối, gồm 6 cặp đối liễn.
Hầu hết các cặp đối liễn ở phủ thờ Tuy Lý Vương đều được trình bày theo ba lối chữ Hán chân, lệ, triện. Chữ được khắc chìm trên gỗ, sơn son thiếp vàng.
- 1.Cặp thứ nhất:
Nguyên văn:
才學識河间上品
德齒爵天下達尊
Phiên âm:
Tài, học, thức(4) Hà Gian thượng phẩm
Đức, xỉ, tước(5) thiên hạ đạt tôn.
Tạm dịch:
Cái tài, học, thức thì ông thuộc hàng thượng phẩm so với Hà Gian;
Về đức, xỉ, tước là ba điều ông có, đáng để thiên hạ tôn trọng.
Cặp đối liễn này gồm hai phần lạc khoản, phần thứ nhất ghi thời gian thực hiện成泰甲午 – Thành Thái Giáp Ngọ (Thành Thái thứ 6 năm 1894).
Phần thứ hai ghi danh tánh và tước vị người thực hiện:
輔政大臣東閣大學士充機密院大臣國史館副總栽充經筵講官張光亶拜上 - Phụ chính đại thần, Đông các đại học sĩ sung Cơ mật viện đại thần, Quốc sử quán phó tổng tài, sung Kinh diên giản quan Trương Quang Đản(6) kính bái (Phụ chính đại thần Đông các đại học sĩ, Cơ mật viện đại thần, phó Tổng tài Quốc sử quán, Kinh diên giản quan Trương Quang Đản kính bái).
- 2.Cặp thứ hai:
Nguyên văn:
天將元老維全局
帝重周親錫大封
Phiên âm:
Thiên tương nguyên lão duy toàn cục
Đế trọng Chu thân(7) tích đại phong
Tạm dịch:
Trời ban cho bậc nguyên lão để duy trì toàn cục;
Vua xem trọng bà con trong Hoàng tộc nên ban phong tước lớn.
Lạc khoản gồm 2 phần, phần thứ nhất ghi ngày thực hiện cặp đối liễn này:成泰乙未春 – Thành Thái Ất Mùi xuân (Thành Thái thứ 7 năm 1895)
Phần thứ hai ghi danh tánh những vị thực hiện: 尊爵等仝拜上 – Tôn tước đẳng bái thượng (các vị trong dòng họ đồng kính dâng).
- 3.Cặp thứ ba:
Nguyên văn:
與國同休周冢宰
處家樂善漢東平
Phiên âm:
Dữ quốc đồng hưu Chu Chủng tể(8);
Xử gia lạc thiện Hán Đông Bình(9).
Tạm dịch:
Vui cùng với đất nước, ông là bậc Chủng tể nhà Chu
Lấy việc thiện để làm nếp nhà, ông là Đông Bình vương nhà Hán
Cặp đối liễn này gồm có lạc khoản gồm hai phần, phần thứ nhất ghi rõ thời gian thực hiện: 成泰乙未仲春 – Thành Thái Ất Mùi trọng xuân (mùa xuân năm Ất Mùi đời Thành Thái – Thành Thái thứ 7 năm 1895).
Phần thứ hai ghi nơi thực hiện:
尊人府承辦司員屬同拜 – Tôn nhân phủ Thừa biện ty viên thuộc đồng bái (các quan viên thuộc ty Thừa biện, phủ Tôn nhân cùng kính bái).
- 4.Cặp thứ tư:
Cặp này được thể hiện theo lối chữ Hán triện, sơn son thiếp vàng.
Nguyên Văn:
闡發聖言亦經羽翼
輔成君德又稔憂勤
Phiên âm:
Xiển phát thánh ngôn diệc kinh vũ dực
Phụ thành quân đức hựu nẫm ưu cần
Tạm dịch:
Mở rộng lời của bậc thánh hiền, chấp thêm lông cánh (trợ giúp) cho bề trên;
Vì vua mà tạo nên đức lớn, lại có lòng lo cho nước, cho dân.
Cặp liễn đối này gồm hai phần lạc khoản, phần thứ nhất ghi thời gian thực hiện: 維新壬子冬吉旦 – Duy Tân Nhâm Tý cát đán (Ngày lành năm Duy Tân thứ 6 – 1912).
Phần thứ hai ghi rõ tước vị và danh tính những vị thực hiện cặp đối liễn như sau:
工部侍郎子洪蔎奉護使孫膺蒽拜 – Công bộ Thị lang tử Hồng Thiết Phụng Hộ sứ tôn Ưng Ân (Con là Công bộ Thị lang Hồng Thiết(10) cùng cháu Phụng Hộ sứ Ưng Ân kính bái).
5. Cặp thứ năm:
Nguyên Văn:
Cặp này được cách điệu theo lối chữ Hán lệ.
識曲酒邊調綠綺
齊名海外峙倉山
Phiên âm:
Thức khúc tửu biên điều Lục Ỷ(11)
Tề danh hải ngoại trĩ Thương Sơn(12)
Tạm dịch:
Vui vầy bên chén rượu, biết được tiếng đàn Lục Ỷ;
Tiếng tăm vang dội khắp ngoài nước, sánh ngang cùng Thương Sơn.
Cặp đối này gồm ba phần lạc khoản, phần thứ nhất ghi xuất xứ của cặp liễn với nguyên văn như sau: 綏理賢王賜題坦園樂府報之以聯 – Tuy Lý hiền vương tứ đề Thản viên Nhạc Phủ báo chi dĩ liễn (Cặp liễn đối đáp lại bài Nhạc phủ Thản Viên do Tuy Lý vương tứ đề).
Phần thứ hai ghi danh tính tác giả cặp liễn đối, chính là người họa lại bài Nhạc phủ của ngài Tuy Lý bằng chính cặp đối trên:
辛巳 仲夏長沙杨恩夀寄呈 – Tân Tỵ trọng hạ Trường Sa Dương Ân Thọ ký trình (mùa hạ năm Tân Tỵ (1881) Trường Sa Dương Ân Thọ(13) đề gửi).
Phần thứ ba ghi danh tánh vị thực hiện việc in khắc cặp liễn này: 孫膺恩擧刻奉供 – Tôn Ưng Ân cử khắc phụng cung (Cháu Ưng Ân đem khắc phụng cúng).
* Cặp đối này do Dương Ân Thọ đối đáp lại bài Nhạc phủ của ngài Tuy Lý Vương, sau đó cháu ngài là Ưng Ân đem khắc.
6. Cặp thứ sáu:
Nguyên văn:
老至不知子孫曾玄已見
仕優則學典墳邱索未窮
Phiên âm:
Lão chí bất tri tử tôn tằng huyền dĩ kiến
Sĩ ưu tắc học điển phần Khâu sách vị cùng
Tạm dịch:
Cái già đang đến, mà không biết con cháu đời sau đã có thấy vậy hay chưa;
Cái lo nghĩ của kẻ sĩ, người làm quan thì phải chăm chỉ vào sách vở không bao giờ thôi.
* (Ý câu này không những chỉ bản thân ngài Tuy Lý mà còn có ý ám chỉ rằng: đời người có hạn, mà cái học thì khôn cùng. Vì vậy, Ngài mong muốn các con cháu sau này dù có làm quan hay không thì cũng phải không ngừng rèn luyện học tập).
Lạc khoản gồm hai phần. Phần thứ nhất ghi thời gian thực hiện cặp đối liễn này: 成泰丁酉年仲夏 – Thành Thái Đinh Dậu niên trọng hạ (mùa hè năm Thành Thái thứ 9 - 1897).
Phần thứ hai ghi danh tính người thực hiện: 綏理王 - Tuy Lý Vương.
KẾT LUẬN
Hệ thống Di sản Văn hóa Hán Nôm tại phủ đệ Huế là một đề tài được chúng tôi thực hiện từ nhiều năm qua. Trong đó, hoành phi, câu đối là một bộ phận không thể tách rời đối với không gian kiến trúc - mỹ thuật của hệ thống cung điện, đền chùa, phủ đệ, nhà thờ các dòng họ,... ở nước ta. Hệ thống hoành phi, đối liễn tại phủ đệ Huế không những có giá trị về mặt di sản văn hóa vật thể mà còn là một hệ thống tư liệu cổ gắn liền với chủ nhân tòa phủ đệ, là cột mốc lịch sử về các sự kiện thành lập phủ, là kho tàng thi ca bác học cung đình được thể hiện qua tài năng thi phú, kinh sử của các ông hoàng, bà chúa, chứa đựng tình cảm mà họ muốn gửi gắm cho nhau, là sự chuyển tải tư tưởng, truyền thống đạo lý tốt đẹp của tổ tiên, cha ông đối với thế hệ sau. Hệ thống hoành phi, đối liễn tại phủ Tuy Lý Vương là những hiện vật có giá trị cả vật chất lẫn tinh thần mà các thế hệ chủ nhân của nó đã lưu giữ được cho đến ngày nay cần được bảo tồn và phát huy giá trị.
Chú thích:
(1) Nguyên đây là hai câu trong bài thơ Vịnh hoài cổ tích kỳ ngũ của đại thi hào Đỗ Phủ: Gia Cát đại danh thùy vũ trụ/Tông thần di tượng túc thanh cao (Gia Cát danh vang trùm vũ trụ, Tông thần hình bóng rạng thanh cao).
(2) Lê Tiệp Dư (1799 – 1863): tên thật là Lê Thị Ái, húy là Cầu, con gái thứ ba của danh sĩ thời Lê là Trần Tiến Hành, giữ chức Cẩm Y. Bà sinh ngày 20 tháng 10 năm Kỷ Mão (17/11/1799). Khi Minh Mạng lên ngôi (1820), bà được tấn phong Mỹ Nhân, năm Minh Mạng thứ 7 lại được phong Tiệp Dư. Sinh thời Tuy Lý Vương nổi tiếng hiếu thảo, sự thành kính đó được thể hiện bằng chính là gian thờ thân mẫu ngài được xây cất và hương khói trang trọng ngay ở phía trước khuôn viên phủ Tuy Lý Vương.
(3) Hà Gian: Tức Hà Gian Hiến Vương, Lưu Đức, con Hán Cảnh Đế, người có công sưu tầm bộ Chu Lễ, một bộ sách về các chế độ luật lệ, quy phạm hành vi, nghi thức lễ tiết, đạo đức luân lý và phong tục tập quán của xã hội Trung Quốc thời cổ đại. Theo sách Đại Nam liệt truyện quyển 6, truyện các hoàng tử, mục II có đoạn: “vua Tự Đức lên ngôi, năm thứ 4, đặt nhà Tôn học, để dạy các công tử, công tôn, sai vương trong coi. Năm thứ 5, mùa xuân, vương họa bài thơ Nguyên đán có câu “Lê vua ban, quít tiên cho, thủ vào tay áo đem về, để biếu mẹ già ở nhà có trồng cỏ huyên”. Được vua khen câu thơ ấy và phê là “câu nói chí tình, đáng yêu”. Sau tấn phong làm Tuy Lý công, xuống dụ ban khen là “nhạc phủ Hà Gian vương, văn nhã phủ Đông Bình vương”. Từ đó, danh hiệu Hà Gian gắn với Tuy Lý Vương.
(4) Tài, học, thức: Tài: Chỉ tài năng, Học: học hành, rèn luyện, Thức: hiểu biết. Ba điều này chỉ cái biểu hiện bên ngoài của ngài Tuy Lý Vương.
(5) Đức, xỉ, tước: Đức: là phẩm hạnh, tác phong của người quân tử. Xỉ: là tuổi tác, Tước: là thứ bậc, chức tước. Theo Mạnh Tử, có ba hạng người được thiên hạ tôn trọng cao nhất. Thứ nhất là trong xã hội, người có Đức được xem là tấm gương hướng thiện cho mọi người học tập, trong chốn hương đảng (xóm làng) thì người cao tuổi (xỉ) được mọi người kính trọng. Trong triều đình, người có tước vị cao sẽ được mọi người tôn trọng. Trong ba điều trên, ngài Tuy Lý Vương có cả ba (tố chất bên trong).
(6) Trương Quang Đản (1833 – 1914): tự là Tử Minh, hiệu Cúc Khuê, Cúc Viên; sinh năm Quý Tỵ (1833) tại kinh đô Huế. Ông là con trai Phụ chánh Trương Đăng Quế (1793–1865). Năm Tự Đức thứ 8, Ông đỗ Tú Tài tại trường thi Hương Thừa Thiên. Năm 1880, ông làm Tĩnh biên phó sứ cai quản vùng Lạng Giang, sau thăng Tổng đốc Bắc Ninh, hiệp binh với quân Thanh (Trung Quốc) chống quân Pháp. Năm 1883, sau khi Hòa ước Quý Mùi được ký, nghe ông và Hoàng Kế Viêm không chịu rút quân, viên khâm sứ Pháp ở Huế gây áp lực buộc triều đình phải truyền dụ cho Hoàng Kế Viêm và Trương Quang Đản lập tức trở về kinh. Vì việc này, ông bị giáng làm Tuần phủ Quảng Trị. Tại đây, ông cùng anh ruột là Trương Văn Đễ đã tham gia trong việc đưa vua Hàm Nghi ra căn cứ Tân Sở (Quảng Trị) và đưa xa giá Tam cung trở về kinh, sau khi phe chủ chiến ở Huế thất bại trong trận tấn công quân Pháp tháng 7 năm 1885. Đồng Khánh lên ngôi, nhờ có công phò giúp, Trương Quang Đản được thăng Thái tứ thiếu phó, Đông Các Đại học sĩ. Năm 1889, Thành Thái lên ngôi, ông được cử làm Phụ chính đại thần, năm 1894, ông được cử làm Tổng tài sử quán, kinh diên giảng quan, quản lý Quốc Tử Giám.
(7) Chu thân: chỉ những người có quan hệ huyết thống với nhà Chu. Ý câu này muốn nói nhà vua xem trọng những người bà con trong hoàng tộc nên ban phong tước vị lớn.
(8) Chu Chủng tể: một chức quan thời nhà Chu (1122–256 TCN), tương đương với chức thừa tướng ở triều đại Tần, Hán, Tống. Chu Chủng tể còn chỉ ngài Chu Công, tên thật là Cơ Đán, là công thần khai quốc nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc. Ông có công giúp Chu Vũ Vương (Cơ Phát) lập ra nhà Chu, giành quyền thống trị Trung Hoa từ tay nhà Thương. Sau khi Chu Vũ Vương chết, Cơ Đán đã giúp vua mới là Chu Thành Vương xây dựng và phát triển nhà Chu thành một nước mạnh mẽ và có công xây dựng nền văn hóa Trung Hoa rực rỡ trong quá khứ.
(9) Hán Đông Bình: Tức Đông Bình Vương Lưu Thương, con thứ tám của Quang Vũ nhà Đông Hán, giỏi kinh thuật, có công sửa sang lễ nhạc. Ông lại là người hiếu thiện. Vua Hán thường ngày hỏi ông trị gia như thế nào là hạnh phúc nhất, ông đáp: “Thiện tối lạc”.
(10) Hồng Thiết (1848-1937): Tự Lục Khanh, hiệu Liên Nghiệp Hiên, con trai thứ 18 của Tuy Lý Vương Miên Trinh. Dưới thời Đồng Khánh (1886-1888), Ông được bổ Kiểm khảo viện Hàn Lâm, tham gia soạn bộ sách Đại Nam quốc cương giới vựng biên cùng Hoàng Hữu Xứng. Đời Thành Thái (1889–1907), làm Biên tu Quốc sử quán, rồi Tá lí bộ Hình, thăng Án sát sứ tỉnh Quảng Nam, đổi Bố chánh tỉnh Bình Thuận. Năm 1911, ông về kinh giữ chức Thị lang bộ Công, rồi về hưu. Tác phẩm chính: Liên Nghiệp Hiên tập (thơ), Luân Lý đồ thuyết (văn), Việt sử diễn nghĩa tứ tự ca (cùng soạn với Hồng Nhung). Đặc biệt, trên lĩnh vực văn hóa, ông có một đóng góp quan trọng hơn cả là đã vẽ “Đại Nam quốc toàn đồ” vào năm 1890 thể hiện tương đối toàn bộ lãnh thổ và lãnh hải Việt Nam nhằm khẳng định chủ quyền đất nước.
(11) Lục ỷ: Là cây đàn của Tư Mã Tương Như, văn nhân đời Hán. Tư Mã Tương Như vốn nghèo, nhưng thi phú của ông cực kì có danh khí. Lương Vương nghe tiếng mời ông làm phú, ông viết tặng thiên “Như ngọc phú” 如玉賦. Lời bài phú này hoa lệ, khí vận phi phàm. Lương Vương vô cùng vui mừng nên đã lấy cây đàn “Lục ỷ” của mình tặng lại. “Lục ỷ” là một danh cầm truyền đời, trên đàn có khắc minh văn: “Đồng tử hợp tinh” 桐梓合精, tức tinh hoa của cây đồng cây tử hợp lại. Tương Như có được “Lục ỷ” như được báu vật, cầm nghệ tinh thông của ông phối cùng âm sắc tuyệt mĩ của “Lục ỷ” khiến đàn nổi tiếng nhất thời. Về sau, “Lục ỷ” trở thành biệt xưng của cổ cầm. Một lần nọ, Tư Mã Tương Như đến thăm người bạn, hào phú Trác Vương Tôn 卓王孙 mến mộ danh tiếng đã bày tiệc khoản đãi. Đương lúc cao hứng, mọi người nói rằng: Nghe nói, “Lục ỷ” ông đàn cực hay, xin đàn cho một khúc để mọi người thưởng thức.
Tương Như từ lâu đã nghe nói con gái của Trác Vương Tôn là Văn Quân 文君 tài hoa xuất chúng, tinh thông cầm nghệ, lại ngưỡng mộ mình, nên đã đàn khúc “Phụng cầu hoàng” 鳳求凰 để bày tỏ tình cảm. Văn Quân sau khi nghe đàn, đã hiểu được hàm ý của cầm khúc. Văn Quân động lòng trước văn tài của Tương Như và để đáp “tri âm chi ngộ”, đêm đó theo Tương Như kết mối lương duyên. Từ đó, chuyện Tư Mã Tương Như dùng đàn để truy cầu Văn Quân được truyền tụng thành giai thoại.
(12) Thương Sơn: Tức Tùng Thiện Vương, tự Thận Minh, Trọng Uyên, hiệu Thương Sơn, biệt hiệu Bạch Hào Tử. Ông là con trai thứ 10 của vua Minh Mạng. Nổi tiếng giỏi thơ văn đương thời.
(13) Dương Ân Thọ: Có thể là một nhân vật trong phái đoàn sứ thần Trung Quốc sang Việt Nam dưới triều vua Tự Đức năm 1881.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Viện Sử học 1993: Đại Nam Chính biên Liệt truyện, Tập 2, NXB Thuận Hóa, Huế.
2. Viện Sử học 1993: Đại Nam Chính biên Liệt truyện, Tập 3, NXB Thuận Hóa, Huế.
3. Nguyễn Hiến Lê 2007: Mạnh Tử, NXB Văn hóa Thông tin.
4. Phan Thuận An 2008: Huế xưa và nay - Di tích - Danh thắng, NXB Văn hóa Thông tin.
5. Nhà Bảo tàng thành phố Huế 1997: Di tích – Cảnh quan trên địa bàn thành phố Huế và phụ cận, tập 3.
Nguồn: Sách “Quản lý và khai thác di sản văn hóa trong thời kỳ hội nhập”