Thế nào là mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và sáng tạo?
Càng ngày càng thấy rõ rằng sáng tạo là một nguồn lực quan trọng trong việc thúc đẩy đổi mới kinh tế. Các ý tưởng sáng tạo là phần cốt lõi trong đổi mới sản phẩm và quá trình sản xuất. Các loại đổi mới này là động lực của sự thay đổi công nghệ, đến lượt mình, nó lại giúp tăng trưởng kinh tế. Như vậy là mối quan hệ giữa sáng tạo và hoạt động kinh tế của doanh nghiệp và của cả nền kinh tế được thiết lập. Các ngành văn hóa đóng một vai trò quan trọng trong việc tạo ra các ý tưởng sáng tạo. Nếu chúng ta hình dung các ngành văn hóa như là một hệ thống với nghệ thuật sáng tạo ở vị trí trung tâm là chúng ta bắt đầu hiểu được cách thức các nghệ sĩ và các tổ chức văn hóa tạo ra các ý tưởng. Các ý tưởng này sẽ khuếch tán ra bên ngoài qua các ngành sáng tạo như phim ảnh, truyền thông, xuất bản, thiết kế thời trang và đóng góp cho đổi mới cả trong các ngành sáng tạo lẫn trong nền kinh tế rộng lớn hơn. Ngoài ra, lao động sáng tạo được đào tạo trong lĩnh vực nghệ thuật cũng có thể áp dụng tài năng và kỹ năng của mình trong những ngành khác xa với ngành văn hóa như sản xuất hay dịch vụ tài chính. Bất kỳ một nền kinh tế nào muốn tối đa hóa tiềm năng sáng tạo cũng phải chăm sóc ngành văn hóa và đặc biệt phải đảm bảo sức khỏe và tính bền vững của các ngành sáng tạo chủ yếu, nơi đó các ý tưởng mới được nảy sinh và nơi đó những con người sáng tạo đạt được những kỹ năng và trải nghiệm của mình.
Có những yếu tố rủi ro và thành công nào trong việc đầu tư văn hóa?
Thuật ngữ “đầu tư văn hóa” là một thuật ngữ có nghĩa rộng, bao gồm nhiều hình thức và mức độ khác nhau trong chi tiêu cho văn hóa của khu vực nhà nước, của doanh nghiệp tư nhân và của sự hợp tác công – tư. Ở một thái cực, đây là loại đầu tư dài hạn như đầu tư vào cơ sở hạ tầng văn hóa, nó sẽ giúp tạo ra các giá trị kinh tế và văn hóa liên tục qua thời gian, và điều quan trọng là nó củng cố cho sức mạnh văn hóa của cộng đồng và quốc gia. Ví dụ, đầu tư vào các cơ sở văn hóa như bảo tàng, phòng tranh, thư viện, kho lưu trữ, hệ thống thông tin đại chúng, di sản lịch sử… cung cấp những nền tảng cần thiết cho một đời sống văn hóa vừa trầm tư vừa sôi nổi. Cũng cần phải được hiểu rằng những loại chi tiêu như vậy, bởi chính phủ hay chủ doanh nghiệp tư nhân, không chỉ giới hạn ở các tổ chức có quy mô lớn mà còn áp dụng cho các doanh nghiệp nhỏ nhất kinh doanh về nghệ thuật, ở đó số tiền hỗ trợ tương đối khiêm tốn có thể được xem là một sự đầu tư để duy trì nghệ thuật và tài chính cho doanh nghiệp sáng tạo. Ở thái cực khác, đây là loại đầu tư ngắn hạn như đầu tư vào một lễ hội mới, một dự án làm phim, một dự án phát triển du lịch di sản, một sản phẩm sân khấu mới hay một sáng kiến sử dụng công nghệ truyền thông mới (kỹ thuật số) cùng với các ứng dụng văn hóa. Các loại đầu tư này tương tự như đầu tư vào nghiên cứu và phát triển trong kinh tế nói chung, cho nên khả năng thành công có thể là khó dự đoán. Trong ngành văn hóa, rủi ro như vậy là một phần của cuộc sống, nhưng khi có nhiều dự án để làm, lợi ích có thể sẽ rất cao – có khi là lợi ích văn hóa, có khi là lợi ích kinh tế, mà thường gồm cả hai. Ở đây có sự vận dụng chính sách. Các cơ quan nhà nước có thể giúp kết hợp các nhà kinh doanh và các nhà đầu tư khác lại với nhau để chia sẻ rủi ro. Các khích lệ sáng tạo như vậy được dùng trong nhiều lĩnh vực công nghiệp và việc vận dụng chúng vào ngành văn hóa cần phải được đánh giá thêm.
Chúng ta có thể hình dung phát triển văn hóa mà không cần đầu tư tài chính không?
Nếu “phát triển văn hóa” được hiểu là sự tiến bộ của nghệ thuật, câu trả lời là “có thể”. Cho nên các nghệ sĩ đã liên tục sáng tạo ra nghệ thuật bằng một động lực tinh thần để thực hiện quan điểm nghệ thuật của họ, bất chấp hoàn cảnh kinh tế của họ. Nhưng nhiều cuộc điều tra về các nghệ sĩ đương đại ở tất cả các hình thức nghệ thuật - nhà văn, nghệ sĩ thị giác, nhạc sĩ, diễn viên, nghệ sĩ múa - cho thấy một điều chắc chắn rằng các khó khăn về tài chính đã ngăn cản các nghệ sĩ cống hiến hết thời gian và khả năng của họ cho một tác phẩm nghệ thuật. Cho nên chắc chắn là một sự đầu tư đáng kể vào phát triển văn hóa của chính phủ các nước, của các tập đoàn, của các quỹ đầu tư và của các công dân là điều kiện quan trọng giúp cho hoạt động sáng tạo được đơm hoa kết trái. Chỉ cần nhìn qua một chặng đường dài lịch sử của nghệ thuật sáng tạo, người ta cũng thấy rằng những thời kỳ huy hoàng nhất là những thời kỳ mà sự sáng tạo của các nghệ sĩ, các tổ chức và doanh nghiệp làm văn hóa được cổ vũ bằng những hệ thống hỗ trợ tài chính ổn định. Những lập luận này là quan trọng trong các nước phát triển, mà cũng liên quan đến thế giới đang phát triển – người ta càng ngày càng hiểu ra rằng đầu tư tài chính vào các ngành văn hóa có thể là một yếu tố có ý nghĩa trong việc thúc đẩy sự phát triển ở các nước nghèo, vì các ngành này đóng vai trò thúc đẩy sự gắn kết xã hội, tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo một cách bền vững.
Nguyên bản tiếng Anh
Investing in culture - Interview of David Throsby
9 Jan 2011, DEBATES 2011
What is the link between growth/economic performance and creativity?
It is becoming increasingly clear that creativity is a key resource in promoting innovation in the economy. Creative ideas are an essential ingredient in both product and process innovation, and these sorts of innovation are the drivers of technological change which in turn fuels economic growth. Thus a link between creativity and the economic performance of businesses and of whole economies is established. The cultural industries have an important role to play in generating creative ideas. If we imagine the cultural industries as a system with the creative arts at the centre, we can begin to understand how artists and arts organisations generate ideas that diffuse outwards through creative industries such as film, media, publishing, fashion and design, and contribute to innovation both in those creative industries and also in the wider economy. Moreover creative workers who are trained in the core arts also move from there to apply their talents and skills in other industries that may be far removed from the cultural sector, such as manufacturing or financial services. Any economy wishing to maximise its innovation potential should nurture its cultural sector, and in particular should ensure the health and sustainability of the core creative arts where new ideas originate and where creative people gain their skills and experience.
What are the risk and success factors in cultural investment?
The term “cultural investment” is a wide-ranging one, covering a variety of different forms and levels of expenditures on culture by the public sector, by private enterprise and by public-private partnerships. At one extreme is the sort of long-term investment in cultural infrastructure which will continue to generate economic and cultural value over time, and which is essential to underpin the cultural health of the community and the nation. For example, investment in cultural institutions such as museums, galleries, libraries, archives, public broadcasting systems, historic heritage and so on provides the foundations needed for a reflective and vibrant cultural life. It should also be understood that such expenditures, whether by governments or by private patrons, are not limited to large-scale organisations, but also apply to the smallest artistic enterprises, where relatively modest amounts of support can be seen as an investment in the artistic and financial sustainability of creative businesses. At the other extreme lies investment in speculative ventures – a new festival, a film project, a heritage tourism development, an avant-garde theatrical production or an initiative using new media or digital technologies with cultural applications. These sorts of investments are similar to research and development expenditures in the economy generally, insofar as their likelihood of success may be difficult to predict. In the cultural sector such riskiness is part of life, but when the project succeeds the payoff can be very high -- sometimes culturally, sometimes financially, and hopefully in both. There are policy implications here. Public agencies can help venture capitalists and other investors by sharing the risks – such incentives to innovation are utilised in many industrial arenas and their applicability to the cultural sector needs to be more widely appreciated.
Can we imagine cultural development without financial investment?
If by “cultural development” is meant the progress of the arts, the answer is probably “yes”, insofar as artists have always continued to create art out of an inner drive to realise their artistic vision, regardless of their economic circumstances. But there is absolutely no doubt from many surveys of contemporary artists across all art forms – writers, visual artists, musicians, actors, dancers, and so on – that financial constraints prevent artists from devoting as much time to their artistic work as would be most fulfilling for them. Thus there can equally be no doubt that enlightened investment in cultural development by governments, by corporations, by foundations, and by private citizens is essential to bring about the conditions for a full flowering of creative activity. One has only to look at the long sweep of history of the creative arts to recognise that the most productive periods have been those in which creativity was fostered by stable systems of financial support for artists and for a range of cultural organisations and enterprises. These arguments are important in industrialised countries, but are also relevant in the developing world – it is becoming more widely understood that financial investment in the cultural industries can be a significant element in promoting development in poorer countries, given the role that these industries can play in fostering social cohesion, economic empowerment, poverty alleviation and cultural sustainability.
Credits: Macquarie University
Nguồn: forum-avignon.org