Tác phẩm được nhiều người biết của ông, Logic của niềm vinh dự, cho thấy có nhiều mô hình quản lý quốc gia, vào một thời mà người ta còn chưa nói tới thế giới hóa hay liên văn hóa. Cái gì đưa ông tới sự phân tích hiện tượng này?
Tôi đi từ một câu hỏi mang bản chất kinh tế: một câu hỏi cũ, được Max Weber minh họa (1), về những hiệu ứng văn hóa đối với sự phát triển kinh tế. Trong những năm 60 TK XX, các công trình nghiên cứu hướng vào tinh thần doanh nghiệp đã tiếp tục theo con đường này. Ý tưởng của tôi là xem xét văn hóa có ảnh hưởng tới những cách làm việc chung nhau trong những thực tiễn hàng ngày như thế nào, mà không phải chỉ có ảnh hưởng tới tính năng động của các nhà doanh nghiệp. Điều được thấy rõ là không có ảnh hưởng của một văn hóa đối với hiệu quả độc lập để từ đó sự quản lý rút ra được những tính đơn nhất. Trái lại, sự thích nghi với bối cảnh cần thiết đã khiến cho, tùy từng nước, người ta thấy có những khác biệt mạnh mẽ trong quản lý: những thực tiễn quản lý gắn kết với một số biểu tượng có liên quan với một cách sống chung tốt đẹp (quyền lực, tự do, phẩm giá,...).
Những kết luận chính của công trình ấy là gì?
Tôi đã quan sát ba nơi thuộc cùng một nhóm công nghiệp (Péchiney) ở ba nước: Mỹ, Hà Lan và Pháp. Và tôi đã nghiên cứu cái cách người ta làm việc và hợp tác với nhau. Thì ra mỗi cơ sở có cách tổ chức lao động riêng của mình, phản ánh văn hóa chính trị của nước mình.
Nhà máy Mỹ vận hành theo quy tắc và hợp đồng, coi sự tôn trọng hợp đồng là một chiều kích đạo đức quan trọng. Nhà máy Hà Lan được quản lý bằng việc tìm kiếm sự thỏa thuận đòi hỏi người ta làm tất cả để tìm một sự thỏa hiệp, ngay cả khi mỗi cá nhân được tự do suy nghĩ như mình muốn. Đời sống nhà máy Pháp trao vị trí trung tâm cho cái mà tôi có thể gọi là nghĩa vụ, do mỗi người gắn bó rất mật thiết với những đặc quyền, những nghĩa vụ, với cấp bậc gắn với chức vụ và bảo vệ quan niệm về sự cao cả của nghề nghiệp.
Tại sao ông thường lập luận trong khuôn khổ quốc gia hơn là dựa vào những tập hợp rộng lớn hơn? Chẳng hạn, người ta có thể đối lập một không gian anglo saxon với một không gian latin, một thế giới Tin lành với một thế giới Giatô giáo?
Đúng là người ta có thể phân nhóm theo các văn minh. Nhưng người ta sẽ rất nhanh chóng thấy rõ những sự khác biệt quan trọng: trong thế giới anglo saxon, chẳng hạn, người Mỹ gắn bó với các quy tắc công khai hơn người Anh vì người Anh chấp nhận yếu tố không chính thức, gentlemen agreement, nhiều hơn. Hơn nữa, còn có những đặc thù từng vùng: người Corse, người Basque và người Alsace không làm việc đúng theo cách đó.
Về căn bản, đó là vì những khác biệt ấy dựa vào những văn hóa chính trị mà các hình thức quản lý của chúng nằm trong một khuôn khổ quốc gia. Quản lý là làm sống những con người xung quanh một dự án chung: đó là một hoạt động chính trị. Để cho con người có thể cùng làm việc với nhau hàng ngày, họ phải chia sẻ một số quan niệm căn bản như công bằng, phẩm giá con người, bình đẳng, tự do, trật tự xã hội,... Thế nhưng, thường thấy nhất là những quan niệm căn bản ấy được xây dựng trong khuôn khổ quốc gia - dân tộc. Chẳng hạn, khi điều tra một doanh nghiệp Bỉ, chúng ta có thể nhìn thấy rằng, tuy người Wallons và người Flamands có những căn tính khác nhau, nhưng họ cùng có một quan niệm giống nhau về sự sống chung và về tổ chức xã hội.
Khi đọc những tác phẩm của ông, người ta thấy nổi bật lên rất nhiều tập quán và biểu tượng quản lý. Một nhận xét như vậy liệu có trái ngược với ý tưởng về toàn cầu hóa và đồng nhất hóa thế giới kinh tế?
Để hiểu được những hiệu ứng của thế giới hóa, cần phải phân biệt ba cách dùng thuật ngữ văn hóa. Trước hết, nó có thể chỉ tất cả những gì thuộc về folklore: âm nhạc, nghệ thuật, bếp núc... Trong trường hợp này, thế giới hóa có một hiệu ứng đồng nhất hóa, dù có những sự chống lại ở một số nước. Theo nghĩa thứ hai, văn hóa được quy về khái niệm căn tính. Thế giới hóa ở đây đem một sự bộc phát mà người ta thấy được qua những xung đột căn tính và những yêu sách của các vùng tăng lên rất nhiều. Cuối cùng, nếu coi văn hóa là biểu hiện của một cách nhìn về các quy tắc sống chung, thì theo tôi, thế giới hóa có ít hiệu quả và sự khác biệt của các văn hóa chính trị vẫn tồn tại.
Thế nhưng, thế giới hóa sự hoạt động của các doanh nghiệp có một hậu quả là sự gặp gỡ của các văn hóa. Trong những khảo sát điền dã của mình, ông đã chỉ ra rằng trong những hoàn cảnh liên văn hóa, chính những khái niệm về cuộc sống thành xã hội lại đụng đầu nhau, còn hơn cả những khó khăn về ngôn ngữ hay những quy tắc xã giao. Ông có thể cho một ví dụ không?
Tôi đã nghiên cứu sự hợp tác khi một dự án sáp nhập bị đổ vỡ giữa hai nhóm công nghiệp, một của Pháp, một của Thụy Điển (2). Một phần quan trọng của những vấn đề gặp phải ở đây nằm trong một thực tế là người Pháp và người Thụy Điển không có một quan niệm giống nhau về thế nào là một sự quyết định (décision). Đối với người Pháp, quyết định là một sự tạm dừng trong một cuộc đấu hùng biện, trong đó mỗi người phải khẳng định mạnh mẽ những quan điểm của mình; đó là một cách ký kết đình chiến. Người Thụy Điển thì lại coi thái độ ấy như có tính gây hấn. Thật vậy, ở Thụy Điển, quyết định là thể hiện ý muốn của mỗi bên để đi tới một giải pháp, sau rất nhiều cố gắng giải hòa trong cộng đồng. Những cách nhìn này bắt nguồn từ hai quan niệm về thế nào là một người tự do. Trong truyền thống Thụy Điển, con người tự do là con người, cùng với những người ngang hàng mình, tham gia xây dựng một cuộc sống tập thể và, sau đó, phục tùng cộng đồng. Sự lệ thuộc vào một nhóm, mà cá nhân là một bộ phận dính chặt vào, là một điều kiện và một công cụ tự do của mình. Trái lại, trong truyền thống Pháp, con người tự do trước hết là một người, kể cả khi có một mình, chỉ phục tùng người được anh ta coi là lớn. Một kỹ sư Pháp trung thành với tính duy lý kỹ thuật sẽ có cảm tưởng là mình trở nên lớn hơn; ngược lại, ý tưởng về sự thỏa hiệp đối với anh ta lại gắn liền với ý tưởng tự làm hại mình (compromission). Một trong những chủ đề trục trặc trong dự án ấy là người Pháp có xu hướng đặt lại những quyết định đã đưa ra thành vấn đề. Nếu đối với người Thụy Điển, sự quyết định thể hiện cái thiêng liêng của cộng đồng, thì đối với người Pháp, cái thiêng liên đó là lý trí. Nhân danh lý trí, thật chính đáng khi trở lại với những quyết định từng là kết quả một quá trình thảo luận dài. Ở đây có sự đụng đầu của hai cái thiêng liêng. Và vì các tác nhân không có ý thức về điều đó, nên sẽ rất khó khăn khi phải khắc phục những vấn đề do việc học tập những công thức xã giao gây ra.
Có những doanh nghiệp đa quốc gia nào vượt qua được sự chống lại của các văn hóa địa phương?
Trên thực tế đã có những doanh nghiệp tạo ra được một phong cách hoạt động quản lý rất khác với những hình thức quản lý địa phương. Nhưng đó không phải là vì họ biết vượt lên hay bỏ qua văn hóa địa phương, mà là vì họ biết dựa một cách sáng tạo vào những cấu trúc sâu xa của văn hóa ấy.
Nhà máy Sgs Thomson ở Casablanca mà tôi nghiên cứu đã minh họa rõ chiến lược này (3). Nhà máy này đã có một sự thay đổi triệt để về tổ chức, dưới hình thức thực hiện một phương pháp chất lượng chung theo những phương pháp Nhật Bản: các nhóm giải quyết các vấn đề, tự kiểm tra,...; một biến đổi được coi là thành công về thành tựu cũng phải thỏa mãn được các nhân viên. Người ta có thể ngạc nhiên vì thành công của một sự lai ghép như vậy. Những lời lẽ đạo đức nghe thấy khắp nơi - làm chỗ dựa cho phương pháp chất lượng (công khai, lắng nghe, tương trợ) - là có thể tin được vì người phụ trách doanh nghiệp đã hành động như những gương mặt lớn của các vị thánh chinh phục in dấu văn hóa Maroc. Sự thay đổi tổ chức có thể được chấp nhận thuận lợi vì nhân viên của nó có thể lý giải điều đó theo những phạm trù địa phương, như một cái gì đáng kính trọng.
Đừng lầm lẫn cái gì là văn hóa. Nếu người ta đồng nhất nó với những thói quen, người ta sẽ nhanh chóng rơi vào những khuôn đúc (nơi này con người lười biếng, nơi kia con người thật thà...) và không thấy được những phương pháp thay đổi có thể có. Ngược lại, nếu hiểu rõ văn hóa như một tập hợp những vật chuẩn và những cách thức lý giải, thì người ta có thể hành động sáng suốt.
In trong Sciences humaines, No 110, tháng 11-2000
_______________
1. Max Weber, Đạo đức Tin lành và tinh thần chủ nghĩa tư bản, Press Pocket, 1985.
2, 3. P.d'Iribarne, Làm thế nào để đồng ý với nhau: một cuộc gặp gỡ Pháp - Thụy Điển, trong Các văn hóa và thế giới hóa, Seuil, 1998.
Nguồn: Tạp chí VHNT số 330, tháng 12-2011