CON NGƯỜI, VĂN HÓA & AN NINH
Con người là trung tâm của mối quan hệ bộ ba: tự nhiên - xã hội - văn hóa. Con người là sản phẩm của tự nhiên. Con người liên kết với nhau tạo thành xã hội. Con người và xã hội (dân tộc) sáng tạo ra văn hóa. Văn hóa gắn liền với con người. Nét đặc trưng phân biệt con người với giới tự nhiên nói chung và các loài động vật khác nói riêng chính là ở chỗ nó là một động vật có văn hóa (x. hình 1).
Bởi vậy mà việc bảo đảm an ninh cho cả con người lẫn bộ ba thành tố có quan hệ mật thiết với nó là tự nhiên - xã hội - văn hóa tất yếu sớm muộn cũng phải đặt ra.
Thời cổ xưa, khi các quốc gia chưa hình thành thì mối quan tâm số một của cả cộng đồng là vấn đề an ninh bộ lạc, an ninh dân tộc.
Sau đó, trong hàng nghìn năm, khi mà giữa các quốc gia thường xuyên diễn ra những cuộc chiến tranh đẫm máu liên miên thì vấn đề an ninh quốc gia là cái được ưu tiên hàng đầu.
Sang thế kỷ XX, bên cạnh sự đối đầu giữa các quốc gia, hai cuộc chiến tranh thế giới đã dẫn đến sự hình thành của hàng loạt những liên minh quân sự, chính trị, v.v., khiến cho từng quốc gia riêng biệt không còn đủ khả năng tự bảo vệ, ngay cả những quốc gia vô tư nhất cũng phải tìm đến với nhau, liên kết với nhau trong một “Phong trào không liên kết”, kết quả là bên cạnh vấn đề an ninh dân tộc, an ninh quốc gia thì vấn đề an ninh khu vực, an ninh quốc tế cũng được chú ý.
Như vậy là trong gần suốt cả lịch sử phát triển của nhân loại, từ dân tộc qua quốc gia đến khu vực và quốc tế, mối quan tâm chủ yếu của con người mới chỉ thay đổi về lượng chứ chưa thay đổi về chất – tất cả đều thuộc lĩnh vực an ninh xã hội. Khi mà con người còn phải mải lo cho an ninh xã hội thì an ninh con người và an ninh văn hóa thường bị xâm phạm một cách thô bạo không chỉ từ bên ngoài như hậu quả của các cuộc chiến tranh xâm lược, của chính sách đô hộ và thực dân, mà còn cả từ bên trong các quốc gia với những chế độ chính trị khác nhau.
SỰ XÂM PHẠM AN NINH CON NGƯỜI & AN NINH VĂN HÓA
Ở nhiều nơi, chế độ chiếm hữu nô lệ tồn tại dai dẳng hàng chục thế kỷ, con người bị mua bán như đồ vật. Vào khoảng năm 220 trCN, bạo chúa Tần Thủy Hoàng cho đốt hết sách kinh điển của Nho gia, chôn sống 460 nho sĩ. Thời Trung Cổ phương Tây, nhà thờ Thiên Chúa giáo ngang nhiên thiêu sống biết bao nhà khoa học dám nói lên sự thật. Thời phong kiến phương Đông, biết bao sử quan không chịu uốn cong ngòi bút để làm đẹp lòng các vua chúa đã phải chết dưới lưỡi gươm của họ. Thời chủ nghĩa phát-xít, cả một dân tộc Do Thái bị bài xích, săn đuổi; mọi dạng thức văn hóa không đề cao chủng tộc Aryens đều bị xem là văn hóa “biến chất”, sách vở bị thiêu như những đám cháy lớn; lưu truyền rọâng rãi chuyện kể rằng bộ trưởng văn hóa của Đức quốc xã Goering từng nói câu: “Hễ nghe đến chữ “văn hóa” là tôi rút ngay khẩu súng ngắn” [Fragonard M. 1999, tr. 176]. Theo báo cáo của N. Khrusov tại phiên họp kín ngày 25-2-1956 của Đại hội lần thứ XX Đảng Cộng sản Liên Xô thì trong những năm 1937-38, J. Stalin đã cho bắt bớ và xử bắn hoặc tù đày 70% thành viên Ban chấp hành trung ương Đảng khóa XVII (98 trong số 139 người), 56% đại biểu Đại hội lần thứ XVII của Đảng (1108 trong số 1956 người). Theo số liệu do tờ “Nhân dân nhật báo” ngày 10-1-1980 cung cấp thì cuộc “Đại cách mạng văn hóa vô sản” do Mao Trạch Đông lãnh đạo trong 10 năm 1966-1976 đã đày đọa 100 triệu người (trong số đó có 8 triệu 20 vạn đảng viên), thủ tiêu hàng chục triệu người, đóng cửa 86 tờ báo và tạp chí, Hội liên hiệp văn học - nghệ thuật trung ương và 23 phân hội địa phương bị giải tán; trong số 2600 tác phẩm văn nghệ, chỉ có 8 vở “ca kịch cách mạng hiện đại” cộng với tập truyện chính trị “Nhật ký Lôi Phong” là còn được lưu hành [dẫn theo Quang Đạm và ngk 1983, tr. 166-68]. Pol Pot và tập đoàn Khmer đỏ chỉ bằng lưỡi cuốc trong vòng chưa đầy 4 năm đã thực hiện một cuộc huỷ diệt dân tộc chưa từng có. Tại thành phố Kwangju (Hàn Quốc) năm 1980 và tại quảng trường Thiên An Môn (Trung Quốc) năm 1989, hàng vạn người biểu tình tay không đã bị quân đội đàn áp đẫm máu.
AN NINH CON NGƯỜI
Sự thay đổi về chất trong ý thức của nhân loại chỉ diễn ra khi từ lĩnh vực an ninh xã hội, sự chú ý chuyển qua an ninh con người. Vấn đề này lần đầu tiên được đề cập đến vào năm 1948. Trong Tuyên bố chung về quyền con người (Universal Declaration of Human Rights), Liên Hợp Quốc đã khẳng định: “mỗi người đều có quyền sống, quyền tự do và quyền an ninh cá nhân” (Everyone has the right to life, liberty and the security of person). Tuy nhiên, phải đợi đến những năm gần đây, vấn đề an ninh con người mới thực sự được dư luận chú ý và trở thành chủ đề thảo luận sôi nổi trên các diễn đàn hội thảo quốc tế và khu vực. Nguyên nhân của sự quan tâm đó nằm ở bối cảnh thế giới trong giai đoạn này – đó là sự hội tụ vào cùng một thời điểm của ba sự kiện:
Thứ nhất là sự kết thúc của chiến tranh lạnh và sự đối đầu giữa hai phe. Số lượng các công ty đa quốc gia tăng nhanh. Giao thông quốc tế, ngoại giao, ngoại thương nhanh chóng phát triển. Các vấn đề an ninh dân tộc, an ninh quốc gia, an ninh khu vực trở nên bớt phần căng thẳng.
Thứ hai là thời gian này cũng đồng thời chứng kiến sự bùng nổ của kỹ thuật viễn thông và công nghệ thông tin, kết quả là quá trình toàn cầu hóa diễn tiến với một tốc độ hết sức mau lẹ. Chính nhờ mạng lưới viễn thông và công nghệ thông tin toàn cầu đó mà quá trình cá nhân hóa về việc làm, giao dịch, buôn bán, giáo dục, giải trí… cũng nhanh chóng hình thành. Vai trò của con người cá nhân được nâng cao.
Thứ ba là quá trình toàn cầu hóa không chỉ đem lại những lợi ích khổng lồ về sản xuất và tiêu thụ, về thông tin và tri thức,… mà còn đồng thời kéo theo sự toàn cầu hóa về các tai họa, có khi tưởng như “từ trên trời rơi xuống”: sự cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi trường, nhiễm độc thực phẩm, ma túy, HIV, nạn tin tặc và virus tin học, thất nghiệp gia tăng… Chương trình phát triển của Liên Hợp Quốc (UNDP) trong Báo cáo về phát triển con người năm 1994 [Changes 5] nêu ra sáu mối đe dọa mang tính toàn cầu như sau:
1) Sự gia tăng dân số không kiểm soát được (Unchecked population growth)
2) Sự bất bình đẳng về các cơ hội kinh tế (Disparities in economic opportunities)
3) Sự di dân quốc tế quá mức (Excessive international migration)
4) Sự suy thoái môi trường (Environmental degradation)
5) Sự buôn bán và bảo hộ ma túy (Drug protection and trafficking)
6) Khủng bố quốc tế (International terrorism).
Tất cả những hiểm họa ấy đều đe dọa trực tiếp đến sự an toàn của mỗi cá nhân. Khái niệm “an ninh con người” (Human Security) được UNDP định nghĩa là “sự an toàn của con người trước những đe dọa thường xuyên như nghèo đói, bệnh tật, đàn áp, và những sự cố bất ngờ, bất lợi trong đời sống hàng ngày”. UNDP nêu ra bảy lĩnh vực của an ninh con người [Changes 5] là: (1) An ninh kinh tế (Economic security: thu nhập cơ bản được bảo đảm), (2) An ninh lương thực (Food security: khả năng tiếp cận lương thực về mặt kinh tế và thực tế), (3) An ninh sức khỏe (Health security: khả năng tương đối trong việc tránh khỏi bệnh tật và lây nhiễm), (4) An ninh môi trường (Environmental security: khả năng tiếp cận nguồn nước sạch, không khí trong lành và hệ thống đất đai không bị suy thoái), (5) An ninh cá nhân (Personal security: an toàn thân thể tránh khỏi bạo lực và các mối đe dọa), (6) An ninh cộng đồng (Community security: sự toàn vẹn văn hóa được bảo đảm), và (7) An ninh chính trị (Political security: tự do và những quyền con người cơ bản được bảo đảm).
Cách hiểu về an ninh con người của UNDP cho thấy tại thời điểm hiện nay, phần lớn nhu cầu của số đông con người hãy còn ở mức tương đối thấp, vẫn là những nhu cầu vật chất thông thường (bảo đảm thu nhập, bảo đảm thức ăn, tránh bệnh tật, tránh bạo lực và đe dọa thân thể… An ninh tự nhiên ở đây cũng chỉ dừng lại ở những nhu cầu tối thiểu về môi trường (nước - không khí - đất). An ninh văn hóa (sự toàn vẹn về văn hóa: cultural integrity) thì được đồng nhất với an ninh cộng đồng. Như đã thấy qua hình 1, con người là nơi hội tụ của bộ ba “tự nhiên - xã hội - văn hóa”. Vì vậy, chỉ khi nào khía cạnh văn hóa của an ninh con người được nhận thức một cách thật đầy đủ, vấn đề an ninh văn hóa được xem xét một cách toàn diện thì an ninh con người mới có thể được thực sự đảm bảo (hình 2).
KHÁI NIỆM VĂN HÓA và KHÁI NIỆM AN NINH
Đến đây cần dừng lại để xác định rõ nội hàm của khái niệm “văn hóa”. Định nghĩa văn hóa thì có rất nhiều, song tựu trung lại thì văn hóa có hai nghĩa chính. Theo nghĩa rộng, văn hóa là một hệ thống những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy trong lịch sử [Trần Ngọc Thêm 2001a, tr. 25]. Theo nghĩa hẹp, văn hóa là những sản phẩm vật chất và tinh thần bậc cao do con người sáng tạo và tích lũy trong lịch sử như những tác phẩm văn học, nghệ thuật; những công trình kiến trúc, tôn giáo… Con người nói đến ở đây là con người nói chung, bao gồm cả cá nhân và cộng đồng; con người sáng tạo văn hóa là con người hoạt động trong mối liên hệ chặt chẽ với đồng loại. Như vậy, chủ thể của văn hóa là con người - dân tộc, nói đến văn hóa thì điển hình nhất là văn hóa của một dân tộc cụ thể. Bởi vậy, an ninh xã hội và an ninh con người không thể tách rời khỏi an ninh văn hóa.
Cũng cần nói đôi lời về khái niệm an ninh. An ninh là bảo vệ, giữ cho yên ổn. Theo chúng tôi, có thể phân biệt ba mức độ an ninh. Ở mức 1 là loại an ninh có mục tiêu trực tiếp gìn giữ đối tượng bảo vệ; nó mang tính tiêu cực, thụ động. Ở mức 2 là loại an ninh có mục tiêu ngăn chặn các nguy cơ, hiểm họa từ xa, không cho tiếp cận đối tượng bảo vệ; nó tuy mang tính tích cực, nhưng vẫn còn thụ động. Ở mức 3 là loại an ninh có mục tiêu phát triển đối tượng bảo vệ, tăng cường sức đề kháng cho nó để nó có khả năng “miễn dịch” đối với các hiểm họa; đây là hình thức an ninh vừa tích cực, vừa chủ động. Như vậy, nếu kết hợp ba mức độ an ninh với 2 cách hiểu về văn hóa thì chúng ta sẽ có sáu dạng an ninh văn hóa (xem bảng 1).
AN NINH VĂN HÓA DẠNG A1
An ninh văn hóa theo nghĩa hẹp ở dạng tiêu cực, thụ động (A1) bao gồm việc trực tiếp bảo vệ các di sản chống lại sự xâm hại của tự nhiên và con người là việc mà ở Việt Nam lâu nay Bộ văn hóa và ngành cảnh sát an ninh văn hóa (A25) đã và đang làm. Trên thế giới, Việt Nam ta là một trong những nước có một truyền thống văn hóa lâu đời và phong phú. Mặc dù đã phải trải qua biết bao cơn binh lửa và chịu những tổn thất cực kỳ lớn lao, đến nay đất nước ta vẫn lưu giữ được một số lượng rất lớn các di sản văn hóa vật chất và tinh thần vô cùng có giá trị. Tính đến năm 1994, Bộ Văn hóa - Thông tin đã cấp quyết định công nhận 1.575 di tích các loại. Trong mấy chục năm qua, nhà nước và nhân dân ta cũng đã có nhiều cố gắng trong việc bảo tồn và phát huy giá trị của các di sản văn hóa, song phải thẳng thắn mà nhận rằng, do nhiều lý do khách quan và chủ quan, cái mà chúng ta đã làm được trong lĩnh vực này còn rất thấp so với yêu cầu.
Trong việc bảo vệ chống lại sự xâm hại của tự nhiên, sự đầu tư của nhà nước và các địa phương là rất ít ỏi. Sự đầu tư, giúp đỡ của các tổ chức quốc tế và nước ngoài không phải lúc nào cũng được sử dụng một cách hữu hiệu. Khó ai có thể hài lòng khi thấy ngay cả ở những khu di tích nổi tiếng nhất (như Cố đô Huế, Thánh địa Mỹ Sơn...), công việc bảo vệ và tôn tạo các di tích cũng chỉ tiến hành một cách hết sức chậm chạp.
Sự xâm phạm an toàn văn hóa từ phía con người ở Việt Nam thì tiếc thay là vô cùng phong phú và đa dạng.
Ở mức thấp nhất là sự tàn phá một cách vô thức của người dân. Do thiếu hiểu biết mà rất nhiều trống đồng cổ do dân chúng phát hiện được ở các tỉnh Hòa Bình, Nam Định, Bắc Ninh, Thanh Hóa, Yên Bái,… đã bị phá hủy hoàn toàn hoặc một phần để làm bàn giặt, để đựng thóc, đựng rác, làm khay chén uống nước, v.v.
Ở mức cao hơn là sự tàn phá có ý thức để trục lợi. Trong hơn 10 năm qua, kẻ gian đã hoành hành trên lĩnh vực đánh cắp và buôn bán trái phép cổ vật, vận chuyển trái phép cổ vật ra nước ngoài tới mức độ khó mà tưởng tượng nổi: Hàng trăm ngôi đền, miếu, đình, chùa ở khắp các địa phương trong cả nước, đặc biệt là vùng đồng bằng Bắc Bộ và ngay ở nội ngoại thành thủ đô Hà Nội đã bị xâm phạm và lấy trộm cổ vật với số lượng rất lớn. Ở chùa làng Đa Sĩ (thị xã Hà Đông) năm 1988 kẻ gian đã lấy trộm 57 trong số 58 pho tượng đồng; ngày 12-1-1992 chùa Mật Dụng (phường Bưởi) bị mất 30 pho tượng gỗ; ngày 4-3-1992 chùa Hương Tuyết (ô Cầu Dền) bị mất 30 pho tượng vừa gỗ vừa đồng… Chỉ riêng Bảo tàng Lịch sử Việt Nam tại Tp. Hồ Chí Minh năm 1997 đã trưng bày 8.623 cổ vật do ngành công an bắt giữ được và giao lại. Còn số lượng cổ vật đã bị kẻ xấu đưa ra nước ngoài trót lọt và quan trọng hơn là giá trị của chúng ra sao thì chúng ta không thể nào đánh giá hết được. Trong một cửa hàng đồ cổ trên phố Insa-Dong ở thủ đô Seoul, nhiều lần trong các năm 2000-2001, chúng tôi tận mắt thấy bày la liệt các linga và tượng Champa, các tượng gỗ và các tấm điêu khắc đình làng, các bình gốm sứ cổ, v.v., tất cả đều có nguồn gốc từ Việt Nam. Chủ hiệu còn cho chúng tôi xem vô số ảnh chụp các loại cổ vật chất đầy các góc bếp, sân sau, được các “đối tác” Việt Nam gửi sang để chào hàng!
Ở mức tệ nhất, cũng là đáng buồn nhất, là nhiều cán bộ quản lý, cán bộ lãnh đạo chính quyền địa phương các cấp, trong nhiều hợp đã tỏ ra hoàn toàn thiếu hiểu biết trong lĩnh vực văn hóa và bảo vệ văn hóa, do vậy đã trực tiếp hoặc gián tiếp phá hủy các giá trị văn hóa. Họ đã để xảy ra những vụ đào bới, đập phá di tích một cách ngang nhiên (như tượng nàng Tô Thị ở Lạng Sơn bị phá để lấy đá nung vôi, thành cổ Quảng Trị bị đập phá để tìm phế liệu sắt vụn,…), thậm chí phá hủy một cách có ý thức (thành cổ Diên Khánh ở Khánh Hòa xây dựng năm 1793 và được công nhận là di tích quốc gia năm 1989 đã bị chính quyền địa phương san bằng vòng thành, phá bỏ nhà lao để xây dựng thị trấn; thành cổ Chămpa ở Bình Định đã bị phá bằng xe ủi đất để tìm kho báu; mộ Đặng Trần Côn, tác giả Chinh Phụ Ngâm, ở xã Khương Đình, huyện Thanh Trì, Hà Nội đã bị biến thành hố tôi vôi,…). Có trường hợp kẻ xâm phạm an ninh văn hóa bị bắt đưa ra hầu tòa thì tòa án lại xử lý với sự thiếu hiểu biết về bảo vệ văn hóa tới mức vô cùng ấu trĩ (khi xử vụ kẻ gian đào bới lăng mộ Hoàng Thái Hậu Từ Dũ năm 1990 ở Huế thì tòa án đã quyết định cho đem nấu chảy các loại cổ vật thu được như nữ trang, vương miện để nộp vào ngân sách; còn các loại hiện vật bằng ngọc quý, kim cương thì cho đem bán đấu giá!)[1].
Năm 2002, Quốc hội Việt Nam đã thông qua Luật di sản văn hóa, đó là một bước tiến quan trọng, song cần nhớ rằng tình trạng chung ở Việt Nam là có luật chưa có nghĩa là đã tuân theo, lại càng không có nghĩa là người ta tự khắc ý thức được về vai trò của văn hóa và việc bảo vệ nó.
AN NINH VĂN HÓA DẠNG B2
An ninh văn hóa với việc chống lại các luồng văn hóa độc hại từ nước ngoài thâm nhập vào là an ninh văn hóa theo nghĩa rộng ở dạng tích cực, thụ động (B2). Biện pháp thực hiện chủ yếu lâu nay là thông qua hệ thống kiểm tra văn hóa ở hải quan các cửa khẩu như sân bay, bến cảng, bưu điện và cái gọi là “bức tường lửa” ở các máy chủ của các mạng internet quốc gia…
Song cách làm thủ công này không những càng ngày càng tỏ ra kém hiệu lực mà còn gây tác hại.
Kém hiệu lực vì:
- Với tốc độ phát triển của kỹ thuật điện tử - tin học như vũ bão, trong khi nhân viên an ninh văn hóa của hải quan săm soi kiểm tra từng quyển sách thì một đĩa cứng vi tính dung lượng vài chục GB kích thước bằng bàn tay có thể chứa hàng trăm quyển sách, hàng nghìn bức ảnh, hàng chục cuốn phim có thể lọt qua rất dễ dàng.
- Với quy mô và mật độ giao lưu quốc tế như hiện nay, phần đông nhân viên an ninh văn hóa hải quan chỉ kiểm tra một cách chiếu lệ, hình thức.
- Việc kiểm tra thủ công và thụ động này không những kém hiệu quả, mà còn gây tác hại, vì nó gây phiền hà và khó chịu cho mọi ngừơi, gây cản trở cho công việc, và thậm chí còn có thể gây phản tác dụng: nếu không có “tường lửa” thì chắc chắn lượng người vào thăm các trang web mà ta không khuyến khích chỉ là số ít, còn khi bị ngăn cấm thì một mặt sẽ kích thích trí tò mò, mặt khác đối phương sẽ tìm những biện pháp đơn giản và hữu hiệu để đưa thông tin rác rưởi vào tràn ngập hộp thư điện tử cá nhân của từng người (so sánh: trước đây, khi ta cấm đoán kỹ, người dân Việt Nam rất mê nghe “trộm” đài BBC và rỉ tai truyền lại cho nhau, còn bây giờ thông tin được dân chủ hóa, có nhiều kênh thông tin, việc “nghe đài BBC” giảm đi hẳn).
Bởi vậy mà ở phần đông quốc gia, hệ thống an ninh văn hóa hải quan và lối dùng “bức tường lửa” để lọc chặn thông tin trên internet đã hủy bỏ từ lâu.
Trong khi đó, với trào lưu toàn cầu hóa hiện nay, nguy cơ văn hóa phương Tây lấn át phương Đông, phương Bắc lấn át phương Nam thực sự là vô cùng lớn. Về nguyên tắc, toàn cầu hóa có thể làm tăng hoặc giảm tính đa dạng về văn hóa. Việc làm tăng tính đa dạng văn hóa chỉ xảy ra trong trường hợp nền văn hóa thâm nhập và nền văn hóa địa phương có thế đứng tương đương; trong trường hợp ngược lại sẽ dẫn đến kết quả làm giảm tính đa dạng về văn hóa, các nền văn hóa thâm nhập sẽ lấn át văn hóa địa phương. Trong 14 năm, từ 1979 đến 1993, hệ thống thông tin vệ tinh của các nước phát triển đã tăng 668%, tức là tăng 44.7% mỗi năm. Trung tâm phổ biến văn hóa trên phạm vi toàn thế giới hiển nhiên là Mỹ, nơi mà ngành công nghiệp văn hóa phát triển rất nhanh và thu lợi khổng lồ. Các nước như nước ta, đưa được một vài bộ phim vào chiếu ở Mỹ, một vài đoàn nghệ thuật vào Mỹ biểu diễn đã lấy làm mừng, trong khi sản phẩm văn hóa của Mỹ hàng ngày tràn ngập thị trường toàn thế giới. Bảng 2 cho thấy sự chênh lệch giữa xuất và nhập khẩu các sản phẩm điện ảnh và truyền hình của Mỹ và tốc độ tăng trưởng của nó từ năm 1987 đến 1991. Trong 5 năm ấy, thu nhập từ xuất khẩu tịnh (net exports) các sản phẩm điện ảnh và truyền hình của Mỹ tăng gấp đôi: 7 tỷ USD vào năm 1991 so với 3.5 tỷ USD vào năm 1987 [Nef, Jorge 1995].
Rõ ràng là văn hóa dân tộc đang bị lấn át. Gần như thống trị trên thế giới về mặc là “văn hóa” quần jean, về ăn là “văn hóa” fastfoot, về uống là “văn hóa” coca-cola. Có không ít thanh niên một số nước châu Á lấy việc từ bỏ màu tóc đen của chủng tộc mình để nhuộm sang màu vàng của phương Tây làm niềm tự hào. Có ca sĩ gốc Phi đi phẫu thuật bóc lớp da đen để trở thành “như người da trắng”. Đối với Việt Nam thì quá rõ là trong những năm gần đây, phim ảnh Hàn Quốc tràn ngập thị trường văn hóa, kết quả là hình thành một thế hệ thanh niên ăn mặc và nhuộm tóc theo mốt Hàn Quốc, sử dụng mỹ phẩm và trang điểm theo kiểu Hàn Quốc…
Không chỉ văn hóa dân tộc mà văn hóa nhân loại cũng đang bị đe dọa nghiêm trọng. Trong một cuộc thăm dò dư luận bằng thư điện tử do hãng RBC tổ chức trong các ngày 19-21 tháng 9 năm 2001, với câu hỏi “Theo anh/chị, trong thập niên tới, cái gì sẽ là mối đe dọa chủ yếu đối với an ninh con người?”[2] thì trong số 4.219 người tham gia, có 941 người (chiếm 22%) nói đến sự suy thoái môi trường, còn 736 người (chiếm 17%) lo lắng về sự xung đột sắc tộc [RBC Poll 2001]. Nguyên nhân của sự xung đột sắc tộc, xung đột tôn giáo đang gia tăng ở khắp các khu vực trên thế giới là do sự thiếu hiểu biết lẫn nhau và sự thiếu khoan dung về văn hóa. Nguyên nhân của sự suy thoái môi trường mang tính toàn cầu hiện nay là do sự phát triển quá nhanh của quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa, trong khi văn hóa quản trị công nghiệp và quản trị đô thị thì chưa theo kịp. Cả hai mối hiểm họa này đều có nguồn gốc văn hóa, mà nếu xét rộng ra, thì trong hầu hết 6 mối đe dọa mang tính toàn cầu và bảy lĩnh vực của an ninh con người mà báo cáo năm 1994 của UNDP nêu ra đã nhắc đến ở trên đều ít nhiều có dính dáng đến khía cạnh văn hóa.
Trong sách Human Security and Mutual Vulnerability xuất bản năm 1995, Jorge Nef dành riêng một chương 6 để nói đến “sự bất an văn hóa” (Cultural Insecurity) bởi vì, theo ông, thế giới ngày nay đang đứng trước “không chỉ là sự xung đột (như S. Huntington đã nói), mà là sự khủng hoảng của văn minh” (Not a Clash, but a Crisis of Civilization). Sự khủng hoảng này có những biểu hiện khá nghiêm trọng như sự khủng hoảng về giáo dục và tư tưởng (The Crisis of Learning and the Crisis of Ideas), sự thờ ơ về chính trị (The Abandonment of Politics).
Để chống lại những nguy cơ đe dọa đến an ninh con người và an ninh dân tộc về mặt văn hóa trong thế giới toàn cầu hóa này, những biện pháp bảo vệ an ninh tiêu cực theo kiểu truyền thống rõ ràng là đã lỗi thời.
Biện pháp thích hợp và có hiệu quả lâu dài phải là biện pháp an ninh theo kiểu chủ động, tích cực (A3, B3). Để làm việc này, trước mắt, chúng tôi đề xuất một chiến lược 3 điểm như sau:
1) Việc đầu tiên cần làm là tăng cường giáo dục về tri thức văn hóa, văn hóa học và an ninh văn hóa cho toàn dân nói chung, cán bộ quản lý các cấp và cán bộ làm việc trong các ngành liên quan trực tiếp đến văn hóa và an ninh văn hóa nói riêng. Việc giáo dục này cần trở thành nội dung thường trực trên các phương tiện truyền thông đại chúng, cần đưa thành những môn học trong các chương trình đào tạo bắt buộc cho học sinh phổ thông và các trường đào tạo cán bộ quản lý và hệ thống học viện hành chính quốc gia. Được như vậy, sẽ không còn tình trạng dân chúng phá trống đồng làm đồ đựng rác, quan chức lãnh đạo cho phá sập thành cổ để xây thị trấn, quan tòa cho mang cổ vật ra bán đấu giá hoặc nấu chảy để nhập vào ngân sách, v.v.
2) Việc thứ hai là nhà nước cần thực sự ý thức được vai trò quan trọng của văn hóa để biến nội dung của Nghị quyết BCH Trung ương họp lần 5 khóa VIII năm 1998 “Về xây dựng một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” thành thực tế bằng cách dành những khoản đầu tư thích đáng cho việc bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa (các khu di tích, bảo tàng, v.v.); xây dựng nhiều những tác phẩm văn hóa - nghệ thuật (điện ảnh, sân khấu, điêu khắc, v.v.) có giá trị và có tầm cỡ. Nhìn vào khu vực và thế giới, ta thấy các quốc gia có sự phát triển kinh tế ổn định và vững vàng, các quốc gia có nền văn hóa cao với bản sắc độc đáo đều làm như thế. Chỉ có bằng cách đó thì ta mới nâng cao được tầm vóc của văn hóa dân tộc, và đến lượt mình, chính nó sẽ đem lại những lợi ích khổng lồ về kinh tế, du lịch, an ninh văn hóa, an ninh con người và an ninh quốc gia.
3) Việc thứ ba là nhà nước nói chung và ngành ngoại giao nói riêng cần có những biện pháp cụ thể trong lĩnh vực an ninh văn hóa ở hải ngoại, chú ý tới sinh hoạt văn hóa - tinh thần trong cộng đồng người Việt đang lao động xuất khẩu, học tập và bà con Việt kiều; quan tâm thường xuyên và có hệ thống đến việc xây dựng đội ngũ những người làm việc trong lĩnh vực quan hệ với Việt Nam ở các nước như dành một khoản ngân sách nhỏ cho việc cung cấp thường xuyên tài liệu sách vở, báo chí, băng đĩa, v.v. cho các trường, viện đang đào tạo về Việt Nam học; có chính sách cụ thể trong việc quan tâm ưu đãi các nhà nghiên cứu Việt Nam học nước ngoài; thành lập Quỹ nghiên cứu Việt Nam từ nguồn đóng góp của các đơn vị kinh tế; Nhà xuất bản Ngoại văn cần phối hợp với Đài truyền hình tuyển chọn từ các chương trình truyền hình để xây dựng một tạp chí ghi hình dưới dạng băng video và đĩa CD giới thiệu về văn hóa Việt Nam (có thể phát hành mỗi quý một lần) và gửi biếu thường xuyên tới các tổ chức có liên quan đến Việt Nam, các cơ sở đào tạo và nghiên cứu Việt Nam học ở nước ngoài thông qua hệ thống của Bộ ngoại giao,…
Đó là những việc mà các nước lớn nhỏ đều làm. Vậy mà ở Việt Nam ta vẫn không làm những việc đơn giản và ít tốn kém mà hiệu quả chúng đem lại trong lĩnh vực phát triển văn hóa, bảo đảm an ninh con người và an ninh quốc gia thì sẽ rất lớn ấy, để rồi khi có “sự cố” xảy ra thì phải huy động mọi nguồn lực và chịu tốn kém gấp bội phần để khắc phục. Suy cho cùng, căn bệnh “nước đến chân mới nhảy” này chính là một “phụ phẩm” không mong đợi trong tính cách truyền thống của văn hóa Việt Nam!
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Balkans 2001: The cultural identity and the regional security in the Balkans. SUMMER SCHOOL 10-30 June, 2001 – Ohrid, Macedonia, Director: Prof. D-r Emilija Simoska, The "Euro-Balkan" Institute, FOSI Macedonia - Skopje. - http://www.euba.org.mk/cultural.htm
- Changes 5: Global Environmental Change and Human Security – CHANGES, Canadian Global Change Program. An Information Bulletin on Global Environmental Change, Issue No 5. http://www.globalcentres.org/cgcp/english/html_documents/publications/changes/issue5/index1.htm
- Fragonard M. 1999: Văn hóa thế kỷ XX: từ điển lịch sử văn hóa. – H: Nxb Chính trị Quốc gia.
- Hoàng Vinh 1997: Một số vấn đề về bảo tồn và phát triển di sản văn hóa dân tộc. – H.: Nxb Chính trị Quốc gia.
- Nef, Jorge 1995: Human Security and Mutual Vulnerability. An Exploration into the Global Political Economy of Development and Underdevelopment (1st edition). IDRC 1995, 110 pp., ISBN 0-88936-795-7 . CHAPTER 6: Cultural Insecurity. - http://www.idrc.ca/library/document/103249/index.html
- Northeast Asia: Cultural Security Perceptions in Northeast Asia and Their Impact on Energy Cooperation. - http://bakerinstitute.org/Pubs/workingpapers/jescgem/seminarpaper.html
- Quang Đạm và ngk 1983: Chủ nghĩa Mao và văn hóa, văn nghệ Trung Quốc. – H.: Viện văn hóa XB.
- RBC Poll 2001: http://premium.search.yahoo.com/search/premium/view_abstract?b=40&;cbrecid=FB20010921050000033&p=human+security
- Tehranian, Majid: What Is Cultural Security? http://www.toda.org/conferences/berlin/intro.html
- Trần Ngọc Thêm 2001a: Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam. – Nxb Tp.HCM.
- Trần Ngọc Thêm 2001b: Bản góp ý Dự thảo Luật di sản văn hóa. – Trong sách: Hội thảo khoa học về dự án Luật di sản văn hóa. – H.: Quốc hội khóa X, tr. 57-72.
Nguồn:In trong: Những vấn đề Khoa học Xã hội & Nhân văn – Chuyên đề Văn hoá học, Tp.HCM - Nxb Đại học Quốc gia, 2013