NỘI DUNG
1. Sưu tập hiện vật tại Bảo tàng Lịch sử Thành phố Hồ Chí Minh
Trước hết, cần tìm hiểu một số khái niệm sưu tập hiện vật Bảo tàng. Trong “Di sản văn hóa và các vấn đề liên quan - Thuật ngữ và định nghĩa chung (Cultural Heritage and related matters - General terms and definitions)” nêu một số khái niệm về hiện vật Bảo tàng, sưu tập và sưu tập hiện vật bảo tàng như sau:
- Hiện vật bảo tàng (Museum object): Sản phẩm vật chất do con người hoặc tự nhiên tạo ra trong quá trình lịch sử, có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, thẩm mỹ, được bảo tàng sưu tầm, bảo quản và đã trải qua quá trình xử lý khoa học và pháp lý, nhằm phục vụ cho các hoạt động của Bảo tàng [Tiêu chuẩn Quốc gia 2014: 8].
- Sưu tập (Collection): Tập hợp các di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia hoặc di sản văn hóa phi vật thể, được thu thập, gìn giữ, sắp xếp có hệ thống theo những dấu hiệu chung về hình thức, nội dung và chất liệu để đáp ứng nhu cầu tìm hiểu lịch sử tự nhiên và xã hội [Tiêu chuẩn Quốc gia 2014: 6].
- Sưu tập hiện vật Bảo tàng (Museum collections): Tập hợp hiện vật trong Bảo tàng được thu thập, gìn giữ, sắp xếp có hệ thống theo những dấu hiệu chung về hình thức, nội dung và chất liệu [Tiêu chuẩn Quốc gia 2014: 12].
Từ khi tiếp quản Bảo tàng Quốc gia Việt Nam tại Sài Gòn, Bảo tàng đã kế thừa trên 5.000 hiện vật của người Pháp để lại và hình thành nên hệ thống kho bảo quản hiện vật ban đầu của Bảo tàng. Đây là cơ sở để hình thành nên các bộ sưu tập hiện vật đầu tiên của Bảo tàng. Trong đó có nhiều sưu tập có giá trị như:
- Sưu tập hiện vật văn hóa Óc Eo (Phù Nam) có niên đại thế kỷ I-VII: gồm nhiều chất liệu khác nhau như đất nung, đá sa thạch, đá quý, vàng, bạc, đồng, thiếc,… với các chủ đề phong phú: đồ gia dụng, dụng cụ làm gốm, dụng cụ làm kim hoàn, vật dụng sử dụng trong đánh bắt cá, ngành dệt, đồ trang sức, các loại tượng thờ,… do nhà khảo cổ học người Pháp Louis Malleret phát hiện vào những năm 40 của thế kỷ XX.
- Sưu tập hiện vật văn hóa cổ Đồng bằng sông Cửu Long có niên đại từ thế kỷ VIII-XIII: chủ yếu là các tác phẩm điêu khắc đá gồm các tượng thần, nam thần, nữ thần,… thuộc thời kỳ hậu Óc Eo.
- Sưu tập hiện vật văn hóa Champa có niên đại từ thế kỷ II đến XVII gồm các tác phẩm điêu khắc đá về các tượng thần, tượng sư tử, tượng voi, tượng người múa,…; sưu tập tượng Phật bằng đồng; các loại hộp bạc; sưu tập gốm Gò Sành;…
- Sưu tập gốm cổ Việt Nam và một số nước châu Á, có niên đại từ thế kỷ I đến thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX:
- Gốm Việt Nam: loại hình rất đa dạng và phong phú từ thời Bắc thuộc đến thời Lý Trần, Lê, Nguyễn; sưu tập bình vôi, bình điếu các loại…
- Gốm Trung Quốc gồm: gốm men trắng Phúc Kiến; gốm men xanh ngọc (Céladon - gốm Long Tuyền); gốm men một màu: màu huyết bò, màu xanh cobalt, men đỏ,…; gốm men nhiều màu thời Khang Hy (1662-1722), Ung Chính (1723-1735), Càn Long (1736-1795), Gia Tĩnh (1796-1820), Đạo Quang (1821-1850) và gốm thời hiện đại…; gốm men xanh trắng thời Minh (1368-1662), thời Thanh (1644-1911); gốm sản xuất riêng cho cung đình ở Huế (thế kỷ XVIII-XIX);…
- Gốm Nhật Bản: gốm Hizen (thế kỷ XVII)
- Gốm Campuchia: chủ yếu gốm thô không men hoặc gốm men nhiều màu gồm các loại đồ đựng và các sản phẩm kiến trúc
- Gốm Thái Lan: gốm Sawankhalok (men ngọc, men nâu) và gốm Bencharong men màu.
- Sưu tập tượng thờ: tượng Phật, Bồ tát, tượng quan, phù điêu tượng Phật,… chủ yếu bằng gỗ, đồng, đất nung,… có xuất xứ Việt Nam, Trung Quốc, Nhật Bản, Thái Lan, Lào,…
- Sưu tập hiện vật dân tộc các tỉnh phía Nam Việt Nam: Việt, Ba-na, C’Ho, Giẻ Triêng, Khmer, Mạ, M’nông, Xơ Đăng, X’tiêng, Chăm, Churu, Ê đê, Gia rai, Raglai, Hoa, Bru - Vân Kiều,…
Ngoài ra, còn có các sưu tập khác như: sưu tập các loại đồ thờ cúng bằng đồng (chân đèn, lư hương) của Việt Nam, Trung Quốc, Nhật Bản; sưu tập lọ hít của Trung Quốc (bằng thủy tinh, gốm, đồng, đá, mã não); sưu tập tiền cổ Trung Quốc; đồ mỹ nghệ Trung Quốc: bằng chất liệu ngọc bích, ngà, đá màu, sơn mài,… gồm các loại hình đồ đựng, đồ trang trí, đồ trang sức, hình tượng người và động vật,…; sưu tập con dấu nhiều chất liệu: ngọc thạch, đá, ngà, đồng của Trung Quốc; sưu tập đồ mỹ nghệ Nhật Bản bằng chất liệu ngà, gỗ, sơn mài, khảm xà cừ, đồng tráng men với các loại hình đồ đựng, vật trang trí, tượng người và tượng động vật, mặt nạ, netsuke,…
Như vậy, quá trình hình thành kho cơ sở bước đầu cũng như xây dựng các bộ sưu tập hiện vật của Bảo tàng qua việc nghiên cứu, phân loại, kiểm kê đã cơ bản đáp ứng được nhu cầu phục vụ công tác nghiên cứu và trưng bày hiện vật. Bên cạnh đó, việc chỉnh lý và nâng cấp hệ thống trưng bày đòi hỏi phải tiếp tục sưu tầm, thu thập hiện vật mới để bổ sung và hình thành các bộ sưu tập của Bảo tàng Lịch sử Thành phố Hồ Chí Minh.
Nhận thức được ý nghĩa của công tác sưu tầm hiện vật và quản lý, khai thác sưu tập hiện vật là một trong những hoạt động quan trọng của các bảo tàng, là cơ sở để định hình loại hình bảo tàng, tạo nên đặc trưng riêng biệt cho mỗi bảo tàng. Ngay từ khi thành lập (23/8/1979) cho đến nay, BTLS TP HCM luôn xem trọng và có những định hướng lâu dài đối với hoạt động sưu tầm hiện vật trong suốt quá trình xây dựng, phát triển và tạo dấu ấn cho mình để ngày càng tạo nên các bộ sưu tập hiện vật có giá trị từ các nguồn sưu tầm, khai quật khảo cổ học, tiếp nhận của các cơ quan hữu quan, được hiến tặng và mua lại.
- Nguồn tiếp nhận từ các cơ quan hữu quan bàn giao: Bảo tàng đã tiếp nhận một số lượng không nhỏ những hiện vật, bộ sưu tập từ nhiều cơ quan, đơn vị thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau trong cả nước như: Tổng cục Thủy sản (1975), Viện Bào chế Y tế số 5 - Bộ Y tế (1976), Cục Hải quan - Hải quan cảng Sài Gòn (1976), Phòng Xuất nhập văn hóa phẩm (1979), Phòng An ninh điều tra - Công an Thành phố Hồ Chí Minh (1989), A24 - Bộ Nội vụ (1995), Bộ Văn hóa - Thông tin (2000), v.v. Có thể kể đến những bộ sưu tập tiêu biểu như: Sưu tập Cổ khí thời Minh Mạng, Sưu tập tượng thờ Bắc Bộ, Sưu tập hiện vật cổ Cù Lao Chàm (Quảng Nam), Sưu tập gốm cổ Trung Quốc tìm được ở vùng biển Hòn Cau (Bà Rịa - Vũng Tàu), Sưu tập gốm cổ Trung Quốc tìm được ở Cà Mau, Sưu tập hiện vật gốm Thái Lan tại vùng biển Hòn Dầm (Kiên Giang),…
- Nguồn tiếp nhận sưu tầm, khai quật khảo cổ: Hoạt động sưu tầm trong thời gian qua của BTLS TP HCM đã nhận được sự đồng thuận, hợp tác, giúp đỡ nhiệt tình và đầy tâm huyết của các tổ chức, cá nhân trên tinh thần vì lợi ích chung của xã hội trong sự nghiệp bảo tồn - phát triển văn hóa dân tộc. Rất nhiều hiện vật được khai quật từ các di tích khảo cổ tại Thành phố Hồ Chí Minh như Bến Đò, Hội Sơn (Quận 9), Rỏng Bàng (Hóc Môn), Long Bửu, Giồng Cá Vồ, Giồng Phệt, Giồng Am (huyện Cần Giờ - TP Hồ Chí Minh); lò gốm cổ Hưng Lợi (Quận 8), Gò Cát (Quận 2), Gò Sao (Quận 12), cảng Bến Nghé;…
Ngoài ra, còn có nhóm hiện vật khảo cổ học một số tỉnh Nam Bộ: Đồng Nai, Bình Phước, Bình Dương, Bà Rịa - Vũng Tàu, Long An, Tiền Giang, Hậu Giang, An Giang, Kiên Giang,…; Nhóm hiện vật khảo cổ học miền Trung: Quảng Nam, Bình Định, Huế, Lâm Đồng, Khánh Hòa; Nhóm hiện vật khảo cổ miền Bắc: Bắc Ninh, Hà Nội, Hải Hưng, Hòa Bình, Lạng Sơn, Phú Thọ, Quảng Ninh, Thanh Hóa,…
- Nguồn hiến tặng: Trong số các hiện vật mà BTLS TP HCM hiện đang lưu giữ không thể không nhắc đến một số lượng đáng kể những hiện vật, những bộ sưu tập có giá trị mà Bảo tàng vinh dự được tiếp nhận từ những cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước. Có thể kể đến những bộ sưu tập tiêu biểu như: Sưu tập bình vôi của Francois Grailly (người Pháp – 1986), Sưu tập Vương Hồng Sển (1996), Sưu tập đèn gốm cổ Nam Bộ của ông Vũ Kim Lộc (TP Hồ Chí Minh – năm 1999), Sưu tập gốm Gò Sành của Alison Diệm (người New Zealand – 2004), Sưu tập Dương Hà (2011),… và nhiều sưu tập hiện vật gốm của các tổ chức khác như: Hội Cổ vật, Chi hội gốm Nam Bộ,…
- Nguồn mua: Hiện vật từ nguồn mua đã góp phần bổ sung, làm đa dạng, phong phú các bộ sưu tập của Bảo tàng, đem đến những sự đổi mới cho hoạt động trưng bày. Trong đó phải kể đến những bộ sưu tập độc đáo và giá trị đã làm nên đặc trưng riêng của Bảo tàng Lịch sử Thành phố Hồ Chí Minh đặc biệt nhất là sưu tập hiện vật thuộc nền văn hóa cổ Champa và văn hóa Óc Eo. Ngoài ra, còn có các sưu tập hiện vật khác như: Sưu tập chuông, tượng Phật của Lào, Thái Lan; Sưu tập chóe gốm Nam Bộ; Sưu tập gốm Campuchia, Thái Lan, Mianmar, Lào, Nhật Bản, Việt Nam, Trung Quốc; Sưu tập các loại nhẫn, vòng đeo tay, lục lạc, khuyên tai, ống điếu, tẩu thuốc,… bằng kim loại của dân tộc Tây Nguyên; Sưu tập tiền thời Lê, Nguyễn; Sưu tập phẩm phục triều Nguyễn; Sưu tập gốm, đất nung Việt Nam (thời Lý, Trần, Lê, Nguyễn); Sưu tập Ấn chương phong kiến bằng kim loại;…
Tính đến nay Bảo tàng sở hữu trên 43.000 hiện vật, có 13 sưu tập hiện vật quý hiếm và có 11 bảo vật quốc gia được Thủ tướng Chính phủ ban hành quyết định công nhận số 1426/QĐ-TTg ngày 01/10/2012 và quyết định số 2599/QĐ-TTg ngày 30/12/2013.
2. Công tác quản lý, khai thác và phát huy giá trị sưu tập hiện vật Bảo tàng Lịch sử Thành phố Hồ Chí Minh
2.1. Quản lý sưu tập hiện vật BTLS TP HCM
Trước đây, hệ thống kho bảo quản hiện vật BTLS TP HCM gồm dưới tầng hầm là một dãy nhà thông suốt và kho ở trên lầu có tầng áp mái. Từ tháng 5 năm 2012, Bảo tàng được thực hiện dự án chống thấm, chống ngập kho. Sau khi kết thúc dự án, kho dưới tầng hầm được phân bằng vách ngăn thành các kho theo chức năng. Với số lượng hiện vật tiếp nhận từ các nguồn nêu trên, hiện nay đang được sắp xếp, phân loại trong các kho khu vực sau đây:
- Kho A: kho sưu tập gồm các sưu tập hiện vật lớn được tiếp nhận từ nguồn hiến tặng: Sưu tập Vương Hồng Sển, Sưu tập Dương Hà; từ nguồn mua với số lượng nhiều và gồm nhiều sưu tập nhỏ; từ nguồn bàn giao của các cơ quan (gốm cổ Trung Quốc tàu đắm tọa độ X ở Hòn Cau - Bà Rịa Vũng Tàu; gốm cổ Trung Quốc vùng biển Cà Mau);
- Kho B: kho mỹ nghệ (đồ đồng, đồ ngà, đồ ngọc, đá quý, thủy tinh, gỗ cẩn…);
- Kho C: kho chất liệu đá gồm những tác phẩm điêu khắc và trang trí thuộc văn hóa Champa, Óc Eo, Đồng bằng sông Cửu Long, văn hóa Campuchia;
- Kho D: kho gốm một số nước châu Á (Trung Quốc, Nhật Bản, Thái Lan, Campuchia, Mianmar, Lào); gốm châu Âu (Anh, Pháp, công ty Đông Ấn Hà Lan);
- Kho E: kho gốm Việt Nam: gốm thời Lý, Trần, Lê, Nguyễn, gốm cổ Cù Lao Chàm, gốm Nam Bộ, gốm Gò Sành, gốm Bát Tràng, gốm Trung Quốc sản xuất theo Việt Nam đặt hàng,…;
- Kho F: kho hiện vật khảo cổ; hiện vật dân tộc học; hiện vật gỗ (bàn, ghế, tủ thờ, hoành phi, câu đối,…); các loại tượng thờ;…
- Kho G: kho chất liệu vải thuộc sưu tập phẩm phục cung đình triều Nguyễn…
Mỗi phân khu kho được đặt ra xuất phát từ yêu cầu thực tế của hiện vật đang sở hữu được sắp xếp theo chất liệu, quốc gia, chủ đề, sưu tập, các nền văn hóa, loại hình, hoa văn,… chủ yếu đáp ứng yêu cầu công tác bảo quản, quản lý và khai thác hiện vật nhằm phục vụ công tác tìm kiếm và tra cứu được dễ dàng.
2.2. Phát huy giá trị di sản văn hóa sưu tập hiện vật của BTLS TP HCM
v Đưa sưu tập hiện vật ra giới thiệu trưng bày tại một số bảo tàng trong nước
Đa số các hiện vật Bảo tàng sưu tầm từ trước đến nay đều được đưa ra phục vụ công chúng qua các các chuyên đề ngắn hạn, dài hạn tại Bảo tàng và phối hợp với các địa phương trong nước (Hà Nội, Thái Nguyên, Huế, Khánh Hòa, Vĩnh Long, Cần Thơ, Kiên Giang, Bạc Liêu,…). Bên cạnh những chuyên đề lịch sử, văn hóa, các sự kiện lịch sử liên quan đến khu vực, những chuyên đề mang tính thời sự (1000 năm Thăng Long - Hà Nội, kỷ niệm 240 năm khởi nghĩa Tây Sơn, biển đảo,…), Bảo tàng còn trưng bày những chuyên đề mang tính tổng kết những thành quả sưu tầm (Kỷ niệm 30 năm thành lập Bảo tàng, Cổ vật sưu tầm 10 năm đầu thế kỷ XXI, Hiện vật từ những con tàu đắm trong vùng lãnh hải Việt Nam, Cổ vật một số nước Đông Nam Á, Cổ vật 40 năm sưu tầm,…), đặc biệt là những hiện vật quý (Chămpa, Óc Eo, gốm sứ Nam Bộ,…) đến các bộ sưu tập lớn có giá trị được hiến tặng (Sưu tập Vương Hồng Sển, Sưu tập Dương Hà) đều được đưa ra trưng bày để có thể phát huy hết giá trị của hiện vật mà Bảo tàng sưu tầm và tiếp nhận.
v Mở rộng giao lưu hợp tác nước ngoài
Thế kỷ XXI là thế kỷ của công nghệ thông tin và khoa học kỹ thuật, thế kỷ của xu hướng văn hóa toàn cầu. Nhu cầu giao lưu văn hóa giữa các nước trong khu vực và trên thế giới ngày càng đẩy mạnh để học hỏi kinh nghiệm, tiếp thu những thành tựu khoa học kỹ thuật tiên tiến và đồng thời đẩy mạnh việc tuyên truyền và giới thiệu đến rộng rãi công chúng nước ngoài về lịch sử - văn hóa Việt Nam. Nhận thức được điều đó, từ những năm đầu thế kỷ XXI, BTLS TP HCM đã phối hợp với một số bảo tàng trên thế giới đưa hiện vật thuộc các bộ sưu tập có giá trị đi trưng bày:
STT | Địa điểm phối hợp trưng bày | Tên chuyên đề | Thời gian |
1 |
- Bảo tàng Nghệ thuật và Lịch sử Hoàng gia Bruxelles - Bỉ (Brussell in den Musées royaux d’Art et d’Histoire) - Bảo tàng Dân tộc học Viên – Áo (Museum für Völkerkunde Wien) |
Việt Nam - Quá khứ và hiện tại (Faszination Vietnam : Götter Helden Ahnen)
|
Năm 2003-2004 |
2 |
Bảo tàng Quốc gia Nghệ thuật Châu Á - Guimet (Paris - Pháp) (Guimet musée national des Arts Asiatiques) |
Kho tàng Nghệ thuật Việt Nam: Điêu khắc Champa (Trésors d’art du Vietnam la sculpture du Champa Ve –XVe siècles) |
Năm 2005-2006 |
3 |
Bảo tàng Lịch sử Quốc gia Đài Loan (National Museum of History, Taiwan) |
Nghệ thuật Dân gian Việt Nam (Treasures of Southeast Asia - Folk Artifacts of the Philippines, Vietnam, Thailand and Indonesia) |
Năm 2007 |
4 |
Bảo tàng Văn minh châu Á – Singapore (Asian Civilisations Museum, Singapore) |
Việt Nam từ truyền thuyết đến hiện tại (Viet Nam - From Myth to Modernity) |
Năm 2008 |
5 |
- Bảo tàng Nghệ thuật Houston, Texas, Hoa Kỳ (The Museum of Fine Arts, Houston) - Bảo tàng Hội Châu Á, New York, Hoa Kỳ (Asia Society Museum, New York) |
Nghệ thuật cổ Việt Nam: từ châu thổ ra biển lớn (Arts of Ancient Vietnam – From the River Plains to Open Sea) |
Năm 2009-2010 |
6 |
Bảo tàng Busan - Hàn Quốc (Busan Museum, Korea)
|
Việt Nam: Từ sông Hồng đến sông Mekong (Vietnam From the Hong River to the Mekong) |
Năm 2010 |
7 |
Bảo tàng Nghệ thuật Metropolitan, New York, Hoa Kỳ (The Metropolitan Museum of Art, New York) |
Đông Nam Á sớm: Điêu khắc Ấn Độ giáo - Phật giáo (Hindu-Buddhist sculpture of early Southeast Asia) |
Năm 2014 |
8 |
Bảo tàng Quốc gia Hàn Quốc (National Museum of Korea) |
Các kiệt tác điêu khắc thời đại Phật Giáo sơ kỳ từ năm 100 trước Công Nguyên đến năm 700 sau Công Nguyên (Masterpieces of Early Buddhist Sculpture - 100BCE - 700CE) |
Năm 2015 |
Qua các dự án hợp tác quốc tế, những chuyến đi học tập thực tế và phối hợp trưng bày với một số bảo tàng nổi tiếng trên thế giới đã tạo điều kiện cho các cán bộ, nhân viên Bảo tàng được tiếp xúc, học hỏi kinh nghiệm từ các chuyên gia, từ đó nâng cao nhận thức và năng lực chuyên môn, ứng dụng khoa học kỹ thuật, công nghệ thông tin trong hoạt động chỉnh lý, nâng cấp và làm mới hệ thống trưng bày.
2.3. Về việc ứng dụng công nghệ thông tin và tin học trong công tác quản lý và khai thác hiện vật Bảo tàng:
Nhằm đáp ứng nhu cầu thực tiễn về việc ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động quản lý hiện vật đạt hiệu quả, trong những năm qua, phòng Kiểm kê - Bảo quản (KK-BQ) BTLS TP HCM đã có sự cố gắng nỗ lực và đưa hoạt động công nghệ thông tin ứng dụng vào hoạt động kiểm kê, quản lý và khai thác hiện vật Bảo tàng một cách có hệ thống các tài liệu hiện vật trên máy tính bằng các hình thức sau:
- Nhập máy tính dữ liệu tất cả hiện vật trong sổ kiểm kê bước đầu hiện vật của Bảo tàng theo chương trình Excel, sử dụng các công thức tính, hàm tính theo thứ tự từng kho, vị trí địa hình từng tủ, ngăn, kệ kèm theo một số thông tin liên quan đến hiện vật như tên gọi, số lượng, thành phần, ký hiệu,… Tất cả dữ liệu này giúp cho việc tìm kiếm hiện vật một cách chính xác theo vị trí từng kho, địa hình theo từng tủ kệ và ngăn tầng. Ngoài ra, mỗi kho còn lập phiếu địa hình hiện vật theo từng ngăn tủ cũng bằng chương trình excel được in ra và dán lên từng kệ tủ và thường xuyên cập nhật mỗi khi xuất nhập hiện vật.
- Số hóa sổ đăng ký hiện vật: hiện nay phòng KK-BQ đang dần dần thực hiện vi tính hóa sổ kiểm kê bước đầu hiện vật của những quyển sổ trước đây viết tay. Song song với việc nhập dữ liệu là chụp ảnh hiện vật bổ sung cập nhật vào mục ảnh hiện vật.
- Ứng dụng chương trình quản lý hiện vật của Cục Di sản Văn hóa chuyển giao năm 2004. Đến nay, Bảo tàng đã nhập dữ liệu cho tất cả hiện vật của Bảo tàng đang lưu giữ. Việc ứng dụng phần mềm quản lý hiện vật này chỉ mới đem lại hiệu quả bước đầu trong việc tin học hóa hoạt động Bảo tàng về công tác kiểm kê, nhập dữ liệu, lưu trữ, quản lý [Nguyễn Khắc Xuân Thi 2014: 30-37].
- Tuy nhiên, từ thực tiễn của vấn đề nhập dữ liệu hiện vật cũng gặp một số khó khăn và bất cập khi sử dụng hệ thống lưu trữ bằng máy tính:
- Đối với hệ thống lưu trữ phần mềm của Cục Di sản, dung lượng cơ sở dữ liệu thấp, không cho phép lưu trữ quá 1.000 hiện vật, do đó không tổng hợp được toàn bộ số liệu, khó khăn trong việc tìm kiếm từng hiện vật; không hỗ trợ chỉnh sửa, thay đổi các danh mục (nguồn gốc, thời kỳ, chất liệu,…); không cho phép nhập, tìm kiếm hiện vật theo bộ sưu tập, chất liệu, niên đại,... Do một số hạn chế, khó khăn như đã nêu, hiện nay chỉ có thể nhập liệu hiện vật vào phần mềm, hầu như không khai thác, tra cứu thông tin, việc tổng hợp số liệu báo cáo còn gặp nhiều khó khăn.
- Hạ tầng công nghệ thông tin tại phòng KK-BQ của Bảo tàng còn khá yếu. Cấu hình máy tính thấp, chưa có thiết bị chuyên dụng phục vụ lưu trữ hình ảnh, việc sao lưu dữ liệu còn thực hiện một cách thủ công.
- Nguồn nhân lực phòng KK-BQ có trình độ hiểu biết về công nghệ thông tin không đồng đều, hầu hết chưa được tập huấn những kiến thức cần thiết để tự bảo vệ máy tính cá nhân trong môi trường kết nối mạng nội bộ đặc biệt là môi trường internet [Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch TP Hồ Chí Minh 2013: 10].
3. Một số giải pháp, đề xuất kiến nghị cho việc quản lý và khai thác sưu tập hiện vật Bảo tàng Lịch sử Thành phố Hồ Chí Minh trong thời kỳ hội nhập
Vấn đề quản lý và khai thác sưu tập hiện vật của Bảo tàng trong thời đại công nghệ thông tin và mở rộng quan hệ hợp tác, hội nhập quốc tế trên lĩnh vực văn hóa đòi hỏi Bảo tàng phải có kế hoạch lâu dài, một dự án riêng, đầu tư nguồn kinh phí thỏa đáng cho việc nâng cấp hệ thống kho bảo quản và ứng dụng công nghệ thông tin vào việc quản lý sưu tập hiện vật. Từ những hoạt động thực tiễn và thực trạng công tác quản lý và khai thác sưu tập hiện vật Bảo tàng đã trình bày, xin nêu lên một số giải pháp cụ thể và một số đề xuất, kiến nghị cần thiết để công tác quản lý, lưu giữ bộ sưu tập hiện vật bảo tàng được hiệu quả, đúng chuyên môn:
- Về nhân lực: Để xây dựng và quản lý sưu tập hiện vật Bảo tàng một cách có hiệu quả, Ban lãnh đạo Bảo tàng luôn quan tâm định hướng công tác sưu tầm để bổ sung hiện vật cho kho cơ sở vì xây dựng các sưu tập trước hết phải bắt đầu từ công tác sưu tầm hiện vật và nghiên cứu sưu tập. Điều đặc biệt quan trọng là cần phải có một đội ngũ cán bộ có năng lực nghiên cứu khoa học, có chuyên môn được đào tạo đúng chuyên ngành, có tâm huyết nghề nghiệp nhằm xây dựng được những sưu tập hiện vật có giá trị, quý hiếm phục vụ cho công tác nghiên cứu khoa học cũng như hoạt động trưng bày giáo dục. Đồng thời phải có sự cộng tác của các nhà khoa học, các nhà bảo tàng học, các chuyên gia đầu ngành để việc xây dựng sưu tập hiện vật một cách có hệ thống, khoa học và chính xác. Từ yêu cầu thực tiễn, mong muốn được sự quan tâm đào tạo đội ngũ cán bộ làm công tác nghiên cứu sưu tầm và công tác kiểm kê hiện vật có đủ năng lực đảm nhận nhiệm vụ quản lý và khai thác sưu tập hiện vật của Bảo tàng.
- Về việc ứng dụng công nghệ thông tin: Xuất phát từ những bất cập của phần mềm quản lý hiện vật của Cục Di sản Văn hóa như: hạn chế về dung lượng cơ sở dữ liệu, tiêu chí tìm kiếm chưa đầy đủ,… thiết nghĩ, nên đề xuất xây dựng một hệ thống phần mềm quản lý hiện vật riêng cho BTLS TP HCM phục vụ cho công tác tra cứu, truy cập thông tin, đáp ứng công tác quản lý hiện vật một cách khoa học trong giai đoạn hiện nay. Việc xây dựng phần mềm quản lý hiện vật của BTLS TP HCM, sẽ có các chức năng như: lập và cập nhật phiếu thông tin hiện vật; quản lý bộ sưu tập hiện vật; quản lý hình ảnh hiện vật; tìm kiếm tra cứu hiện vật (tìm kiếm cơ bản theo các tiêu chí phổ biến như: số kiểm kê, tên gọi hiện vật, bộ sưu tập, chất liệu, niên đại, nguồn gốc, nơi lưu trữ và tìm kiếm nâng cao); báo cáo thống kê; quản lý danh mục;… Với các chức năng phần mềm đó sẽ đáp ứng tốt cho việc quản lý và khai thác bộ sưu tập hiện vật Bảo tàng một cách khoa học và chính xác (thay cho hình thức tra cứu, thống kê thủ công trước nay đang làm).
- Hệ thống trang thiết bị: Mỗi bảo tàng cần trang bị một phòng máy vi tính với hệ thống máy tính chuyên dụng, máy in màu, máy scan phục vụ việc nhập phần mềm quản lý hiện vật cùng với một máy chủ có chức năng quản trị cơ sở dữ liệu và sao lưu dữ liệu tự động và 1 UPS phục vụ máy chủ. Để việc triển khai ứng dụng công nghệ thông tin và sử dụng hệ thống phần mềm quản lý hiện vật đạt hiệu quả, các cán bộ làm công tác quản lý hiện vật phải được tập huấn các kiến thức về sử dụng internet, bảo vệ tài khoản cá nhân trên máy tính, các phần mềm phòng chống virus. Ngoài ra, trong định hướng phát triển Bảo tàng thời gian tới về việc nâng cấp hiện đại hóa toàn bộ hệ thống trưng bày, BTLS TP HCM sẽ thực hiện từng bước mô hình bảo tàng thông minh, bảo tàng tương tác để ngày càng hấp dẫn du khách. Đề xuất trang bị hệ thống thuyết minh tự động (Audio guide) bằng các màn hình tương tác (Touch Screen) kết nối điện thoại thông minh (Smart phone) máy tính bảng (Ipad), video chiếu phim, băng ghi âm,… nhằm giới thiệu về các nội dung thuyết minh có thể là nội dung ngắn gọn, có thể là nội dung chi tiết khi cần tìm hiểu chuyên sâu cho một hiện vật, một chủ đề hay một giai đoạn lịch sử, một nền văn hóa…
- Đối với Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, để tạo sự thống nhất về các tiêu chí, các phương pháp chung cho việc lập hồ sơ sưu tập hiện vật Bảo tàng, cần ban hành một biểu mẫu chung về cách thức, nội dung, phương pháp, tiêu chí xây dựng sưu tập hiện vật của Bảo tàng và phải mang tính pháp lý để các sưu tập hiện vật có giá trị, đủ điều kiện được công nhận,từ đó mỗi Bảo tàng có thể áp dụng thực hiện trong điều kiện và phạm vi hoạt động của mình. Đồng thời, thường xuyên tổ chức các buổi hội thảo về các chủ đề liên quan đến các hoạt động chuyên môn của Bảo tàng nhất là trong thời kỳ hội nhập, để các Bảo tàng có dịp trao đổi kinh nghiệm nhất là việc ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động quản lý Bảo tàng nói chung và xây dựng, quản lý hiện vật nói riêng.
KẾT LUẬN
Việc quản lý và khai thác sưu tập hiện vật Bảo tàng nói chung và BTLS TP HCM nói riêng là một hoạt động nghiệp vụ mang tính khoa học và thường xuyên đối với việc kiện toàn hệ thống kho cơ sở của Bảo tàng. Để khắc phục những tồn tại trong việc quản lý và khai thác sưu tập hiện vật của các bảo tàng Việt Nam hiện nay, cần nhanh chóng đổi mới và áp dụng những kỹ thuật công nghệ thông tin vì đây là một trong những nhu cầu cấp thiết. Việc này đòi hỏi cán bộ làm công tác bảo tàng phải hết sức coi trọng nhất là trong bối cảnh hiện nay, từ đó việc khai thác và sử dụng hiện vật của bảo tàng mới đạt hiệu quả cao. Đồng thời, một trong những tiêu chí để đánh giá, xếp hạng một bảo tàng là dựa trên cơ sở các bộ sưu tập hiện vật mà Bảo tàng đang sở hữu đặc biệt là những bộ sưu tập hiện vật quý hiếm. Vì việc hình thành các sưu tập cũng là một trong những định hướng đúng đắn cho công tác sưu tầm hiện vật cho Bảo tàng.
Cuối cùng, chúng tôi, những người làm công tác bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa, luôn mong muốn được ứng dụng các kỹ thuật công nghệ thông tin và tin học vào quản lý và khai thác sưu tập hiện vật Bảo tàng từ đó cho ra đời và công bố nhiều sưu tập hiện vật có giá trị mang tính pháp lý nhằm phục vụ cho công tác nghiên cứu khoa học và hoạt động trưng bày của bảo tàng càng thêm đa dạng và sinh động, đáp ứng ngày một tốt hơn nhu cầu giáo dục, giải trí và thưởng thức của công chúng trong và ngoài nước, góp phần vào việc bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa nhân loại.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Bảo tàng Cách mạng Việt Nam, 1994, Sưu tập hiện vật Bảo tàng, NXB Văn hóa Thông tin.
- Bảo tàng Lịch sử Thành phố Hồ Chí Minh, 2009, Thông báo khoa học kỷ niệm 30 năm thành lập Bảo tàng Lịch sử TP Hồ Chí Minh (1979-2009).
- Bảo tàng Lịch sử Thành phố Hồ Chí Minh, 2014, Thông báo khoa học kỷ niệm 35 năm thành lập Bảo tàng Lịch sử TP Hồ Chí Minh (1979-2014).
- Cục Di sản Văn hóa - Trường Đại học Văn hóa TP Hồ Chí Minh, Bảo tàng Chứng tích chiến tranh, 2007, Kỷ yếu hội thảo khoa học - thực tiễn: Một số vấn đề về công tác Kiểm kê hiện vật Bảo tàng, TP Hồ Chí Minh.
- Cục Di sản Văn hóa - Bảo tàng Cách mạng Việt Nam - Bảo tàng Lịch sử Việt Nam - Bảo tàng Hồ Chí Minh, 2004, Hoạt động Bảo tàng trong sự nghiệp đổi mới đất nước. Hà Nội.
- 6.Louis Malleret, 1937, Tổng mục lục các sưu tập Viện Bảo tàng Sài Gòn, Nhà in Viễn Đông, Hà Nội.
- 7.Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch TP Hồ Chí Minh, 2013, Đề cương hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin chương trình ứng dụng phần mềm quản lý hiện vật tại Bảo tàng, TP Hồ Chí Minh.
- Tiêu chuẩn Quốc gia, 2014, Di sản văn hóa và các vấn đề liên quan - Thuật ngữ và định nghĩa chung, TCVN 10382:2014, Xuất bản lần 1, Hà Nội.
Nguồn: Sách “Quản lý và khai thác di sản văn hóa trong thời kỳ hội nhập”