Bản sắc là gì? Theo nghĩa hẹp, bản sắc là cái lộ ra bên ngoài, cái độc đáo riêng có hoặc phải là một cái gì đó thật cụ thể, nhìn thấy được. Đó là bề nổi của bản sắc, biểu hiện ở thể dạng tồn tại vật chất của nó. Còn theo nghĩa rộng, nhất là đối với nền văn hóa dân tộc, bản sắc là chiều sâu mang giá trị tinh thần, là điểm hội tụ của tính cách được thể hiện thành bản lĩnh, là dấu chỉ để phân biệt nhau giữa các dân tộc.
Về phương diện lịch sử, sẽ là cái nhìn hời hợt bề ngoài nếu cho rằng bản sắc văn hóa của dân tộc Việt Nam ở cuối thế kỷ XVIII là các biểu hiện “để dài tóc”, “nhuộm răng đen”. Ý thức bảo tồn phong tục tập quán ở đây không nhằm vào cái vật chất, mà nhắm đến tinh thần đề kháng mạnh mẽ, làm thế nào thể hiện bản sắc văn hóa của dân tộc trong cuộc chiến tranh chính nghĩa chống giặc ngoại xâm. Điều này càng minh chứng rõ hơn ở cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Bản sắc văn hóa của người dân Việt không hề nệ cổ theo phong tục tập quán với chiếc áo dài, khăn đống hoặc cái búi tó, mà đó là tinh thần đổi mới, nhập cuộc. Dù có khoác lên mình bộ âu phục, sử dụng chữ viết theo văn minh phương Tây, người Việt vẫn không đánh mất bản sắc của một nước bốn nghìn năm văn hiến.
Bản sắc, do vậy, là biểu hiện cốt yếu của đời sống tinh thần, khác với phong tục tập quán gần gũi với đời sống xã hội. Lối sống có thể thay đổi, song bản sắc không phải vì thế mà mất đi. Bản sắc cũng không thuộc về một sự vật, hiện tượng cụ thể, vì như vậy sẽ tầm thường hóa hoặc vật hóa bản sắc.
Làm thế nào phân định giữa truyền thống và bản sắc, giữa bản sắc và văn minh? Bản sắc là điểm khởi đầu còn nguyên vẹn của cội nguồn, là thứ vốn liếng riêng có, được coi là giá trị sở hữu ban đầu “của tôi”. Trong khi đó, truyền thống nằm ở điểm đến, là phần cốt cách còn lại sau khi đã trải qua nhiều sàng lọc lịch sử. Có thể coi đó là tài sản thuộc về giá trị sử dụng “của chúng ta”. Mặt khác, truyền thống nối tiếp quá khứ, có tính lặp đi lặp lại, có thể “ôn cố tri tân”, cho nên có giá trị định lượng. Còn bản sắc đòi hỏi thể hiện tại chỗ, có tính tức thời, ở thì hiện tại, đòi hỏi lượng phải biến thành chất, cho nên mang giá trị định tính. Truyền thống đề cao yếu tố giáo dục; bản sắc đòi hỏi thể hiện bản lĩnh, để duy trì vốn gốc. Cá nhân thiếu bản sắc sẽ mất gốc. Họ không còn là mình. Dân tộc thiếu bản sắc sẽ mất nước. Đó là điều tất yếu. Ngoài ra, truyền thống còn tùy thuộc các điều kiện vật chất, có tính khách quan, có thể “sao y bản chánh”; còn bản sắc thuộc yếu tố tinh thần, có tính mục đích, có thể thay đổi, càng đòi hỏi nhiều nỗ lực chủ quan.
Cũng vậy, văn minh chủ yếu biểu lộ cái hay của vật chất ra bên ngoài (chân); còn bản sắc biểu hiện cái tốt của tinh thần từ bên trong (thiện). Sự kết hợp giữa bản sắc và văn minh làm cho văn hóa trở nên nguồn lực để phát triển, vươn tới cái đẹp hoàn hảo (mỹ). Nếu văn minh là “của chung” thì bản sắc là “của riêng”, thuộc một người, nhóm người, một ngôi làng, dân tộc hoặc quốc gia.
Cái riêng của bản sắc không dĩ thành bất biến mà ví như thứ mặt hàng cần bày biện, trau chuốt. Phải thể hiện hoặc phát huy cái “tôi có” của bản sắc nhằm khẳng định giá trị hiện hữu của nó ở ngôi vị thứ nhất, để tham gia bình đẳng vào cuộc chơi trong quan hệ với các ngôi vị khác. Cái “tôi có” của bản sắc không phải cái đặc sắc người khác không có, mà trên hết vì đó là cái sở đắc “của tôi”, do công khó tạo lập từ không đến có, do ý thức bảo vệ nguồn cội hoặc do niềm tự hào của người may mắn thừa hưởng di sản từ bao đời… Ở đây chân lý sẽ là của người “Bồ Tát”, của mình “lạt buộc”.
Tuy nhiên, do tâm lý tô vẽ, khoa trương cái “tôi có” thuộc về giá trị sử dụng vật chất, mà người ta ít nghĩ đến cái “tôi có” thuộc về giá trị sở hữu tinh thần. Chẳng hạn, họ thường đem khoe của nổi “nhà cao cửa rộng” mà ít nhắc đến của chìm là phần đất đai nền móng tạo nên ngôi nhà. Móng có chắc, nhà mới vững. Một doanh nghiệp có tiếng không phải nhờ làm ra sản phẩm gì mà do giá trị “thương hiệu” của họ. Hoặc không ít người nhận ra hai chữ “Tổ quốc” là thiêng liêng khi họ phải làm kẻ tha phương nơi đất khách quê người.
Vậy, thế nào là bản sắc dân tộc? Bản sắc dân tộc không phải là khái niệm trừu tượng, chẳng hạn như “lòng yêu nước” chung chung, mà đó là sự thể hiện tính cách độc đáo, riêng có của một dân tộc thông qua các di sản cổ truyền mang giá trị biểu trưng, biểu hiện các đặc trưng nổi bật trong đời sống văn hóa mang giá trị lịch sử và nhất là, trải qua các thời kỳ lịch sử, thể hiện cái khí phách, bản lĩnh văn hóa dân tộc mang giá trị hiện thực.
Chẳng hạn, thổ cẩm là tấm vải mặc thông dụng của cư dân vùng núi. Qua sự phối hợp tinh tế giữa màu sắc và các đường nét mô-típ hoa văn, người ta thể hiện khung cảnh tự nhiên bao quanh môi trường sống nơi tộc người cư trú. Tấm thổ cẩm bấy giờ trở thành dấu chỉ, vật thiêng, là biểu trưng độc đáo để phân biệt nhau giữa cư dân làng này với làng khác, giữa tộc người này với tộc người khác. Hoặc múa rối nước là loại hình nghệ thuật dân gian Việt Nam. Cái đặc sắc, thu hút của nó ngoài các hình thức biểu diễn lạ mắt, hình tượng nhân vật sống động, âm thanh tiết tấu rộn ràng… còn là sự thể hiện khung cảnh vùng quê thanh bình, nhịp sống êm ả ăm ắp màu sắc lễ hội của nền văn minh nông nghiệp lúa nước…
Các biểu trưng nghệ thuật, các giá trị văn hóa lịch sử thường tồn tại ở dạng tĩnh được coi là dấu chỉ, bộ phận của bản sắc. Bản sắc, quan trọng hơn, thể hiện ở dạng động thông qua tác nhân con người trong quan hệ với môi trường tự nhiên và xã hội xung quanh. Cho nên, bản sắc là toàn bộ các biểu hiện thuộc về hành vi của con người, thể hiện đầy đủ giá trị tinh thần làm nên “phần hồn” của sản phẩm văn hóa. Bản sắc dùng để phân biệt giữa người này với người khác, làng này với làng khác, dân tộc này với dân tộc khác.
Bản sắc là cơ sở định vị (localisation) nền tảng văn hóa của dân tộc. Sự thể hiện của bản sắc dựa trên hai yếu tố căn bản, gọi là alpha (a) và omega (W). Alpha là yếu tố vật chất khởi nguyên (chẳng hạn, đất đai thuộc âm, thường được biểu trưng bằng màu đen); còn omega là điểm đến của tri thức sáng tạo (năng lực biến cải của con người thuộc dương, biểu trưng màu đỏ). Hai yếu tố âm dương, alpha và omega không tách rời mà quyện chặt lẫn nhau, kết hợp theo hai chiều kích không gian và thời gian, tạo nên khung cảnh, môi trường sống (sự sống, biểu trưng màu trắng) của dân tộc.
Bản sắc dân tộc là cái thần thái thể hiện tư cách tồn tại của dân tộc. Một dân tộc tồn tại không bằng danh xưng, mà có nền văn hóa gắn với không gian địa lý lãnh thổ, môi trường tự nhiên và xã hội, hình thành nên các đặc trưng thuộc về tính cách của dân tộc ấy. Tính cách dân tộc không chỉ căn cứ theo chiều dài lịch sử, với các truyền thống cần được tái hiện, gìn giữ hoặc giáo dục, mà quan trọng hơn chính là sự thể hiện theo chiều ngang các giá trị phẩm cách của dân tộc ấy khi phải đối đầu với các tình huống cụ thể hoặc thách thức thời đại. Có thể dẫn chứng, từ các hội nghị Bình Than, Diên Hồng, mặt trận Việt Minh thể hiện sức mạnh đoàn kết dân tộc, đến ý chí quyết chiến quyết thắng trải qua nhiều cuộc đấu tranh gian khổ giành giữ độc lập, hoặc yêu cầu thể hiện tiềm năng nội lực của dân tộc trong quá trình hội nhập với nền văn minh nhân loại hiện nay.
Cho nên, về mặt cấu trúc, bản sắc văn hóa dân tộc gồm hai phương diện: theo chiều dài lịch sử và theo chiều ngang thời đại. Chiều dài của bản sắc là quá trình tích cóp lịch sử, tạo nên bề dày truyền thống; trải qua nhiều thử thách trui rèn thành khí phách, bản lĩnh văn hóa của dân tộc. Chiều ngang của bản sắc đòi hỏi nền văn hóa của dân tộc phải ngang tầm thời đại, phải thể hiện cho được tư thế và tính chủ động hội nhập, để không bị “hòa tan”, “hòa nhập”, đánh mất bản sắc dân tộc.
Thời đại vừa là mốc thời gian, vừa thể hiện các mối tương quan về mặt không gian. Đó chính là thời điểm và điều kiện khẳng định tư thế tồn tại của dân tộc thông qua các quá trình giao lưu, hội nhập và phát triển.
Một dân tộc muốn chủ động hội nhập phải có tư thế tự chủ. Dân tộc ta đã trả giá quá nhiều, bằng máu xương của nhiều thế hệ, để giành được độc lập. Tuy nhiên, bản sắc dân tộc không đơn thuần là niềm tự hào về quá khứ oai hùng theo chiều dài lịch sử. Mà quan trọng hơn, đó là sự thể hiện tư thế tương ứng của dân tộc theo chiều ngang, vừa chủ động hội nhập với bối cảnh văn minh thời đại, vừa xác lập tư thế hiện hữu trong quan hệ với các dân tộc khác. Nếu như không thể lấy chiều dài bù chiều ngang, chưng bày hào quang lịch sử để che đậy thua thiệt với thời đại, làm cho bản sắc dân tộc bị đẩy lùi về quá khứ, ít gắn bó với hiện tại, thiếu cao vọng với tương lai thì càng không thể chấp nhận, theo quan điểm nhân văn, những kẻ “bán nước cầu vinh” của thời đại. Họ đi vào chiều ngang với những tính toán lo toan vị kỷ, thực chất là quay lưng lại trước các ước vọng máu thịt của tiền nhân, phủi bỏ trách nhiệm với tiền đồ của dân tộc.
Văn minh là bộ phận đồng thời là thuộc tính của văn hóa, làm cho văn hóa ở thể động, không ngừng đổi mới và phát triển. Đổi mới không phải là vấn đề của chủ trương chính sách. Đó là yêu cầu thường trực canh tân nền văn hóa dân tộc, chủ yếu do tác động trực tiếp từ bên ngoài của quá trình giao lưu văn hóa. Thực chất của quá trình đổi mới là hội nhập (acculturation) để thích ứng với tiến bộ thời đại. Hội nhập không giản đơn là du nhập văn minh hoặc nhầm lẫn với hòa nhập, sáp nhập (integration), dẫn đến đồng hóa văn hóa. Để hội nhập, cần có đối tượng là chủ thể văn hóa thể hiện bản lĩnh và bản sắc. Chủ thể văn hóa là một chỉnh thể toàn vẹn gồm hai tác nhân chính: đất (tài nguyên, lãnh thổ) và người (các thành phần dân cư cấu thành cộng đồng), dựa trên nền tảng văn minh và truyền thống lịch sử phát triển qua các thời kỳ khác nhau.
Hội nghị lần thứ 5 (khóa VIII) Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định đường lối xây dựng nền văn hóa Việt Nam “tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Có thể lý giải khác nhau về hai chữ “tiên tiến” và “bản sắc”. Ở đây, tiên tiến được hiểu là mục tiêu, bản sắc là điều kiện và hội nhập là cầu nối. Tiên tiến là yêu cầu phát triển “đổi mới”, tạo nên thế và lực hội nhập với văn minh thời đại. Tiên tiến mà thiếu bản sắc, “đổi mới” không dựa trên nền tảng văn hóa dân tộc sẽ làm thui chột, đánh mất nền văn hóa. Ngược lại, nếu không bắc cầu hội nhập do thiếu bản lĩnh, thụ động, buông xuôi, ngại va chạm với cái mới, hoặc do tâm lý thực dụng sợ nhiễu loạn khó bảo tồn “bản sắc” thì chẳng khác gì “kiến bò miệng chén”, lâm vào thế bế tắc…
Trong quá trình giao lưu và hội nhập hiện nay, điểm xuất phát theo chiều ngang của nước ta về đời sống kinh tế - xã hội còn thấp kém. Có thể nêu ra vài thực trạng như: thừa “định hướng” theo kế hoạch chủ quan, duy ý chí mà thiếu quy hoạch theo quy luật thị trường; cơ chế nhập nhằng giữa sở hữu và quản lý, Nhà nước và tư nhân, nông thôn và thành thị, v.v… Định hướng mục tiêu xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, song chưa hình thành chiến lược triển khai cụ thể trong đời sống xã hội; chủ trương tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa chưa thực sự gắn kết với quá trình chuyển đổi nông thôn, nông nghiệp và nông dân; chưa kết hợp đồng bộ, đồng thời với quá trình đô thị hóa nhằm phát triển xã hội, cải thiện cơ sở vật chất kỹ thuật hạ tầng; chưa thực sự phân cấp, phân quyền quản lý, kể cả phân công phụ trách thực hiện; phong trào văn hóa vận động dưới hình thức ban cấp từ trên xuống hơn là tạo điều kiện thể hiện, phát huy bản sắc cộng đồng từ cơ sở…
Trong công cuộc đổi mới, bản sắc văn hóa dân tộc thể hiện hàng ngày, hàng giờ, thâm nhập vào mọi lĩnh vực. Bảo tồn bản sắc không phải là duy trì “văn hóa làng”, xây dựng tình làng nghĩa xóm theo nếp cũ, đề cao các giá trị đạo đức theo luân lý cổ truyền, mà phải thích ứng với các quy tắc, quy định luật pháp, xây dựng các chuẩn mực lối sống văn minh đô thị.
Quan niệm sai lầm khu biệt bản sắc văn hóa dân tộc theo phong tục tập quán, lịch sử vô hình trung làm mất “khí thế” bản sắc, làm cho bản sắc chưa phát huy vai trò là điều kiện và tác nhân của quá trình hội nhập. Hệ quả là một loạt các hoạt động trong đời sống văn hóa của dân tộc bị xơ cứng, bế tắc, đặc biệt là trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật so với các thời kỳ trước đó[1]…
Bên cạnh đó, quá trình toàn cầu hóa hiện nay làm chuyển biến thế giới lưỡng cực sang đơn cực vẫn chưa làm giảm nhẹ mâu thuẫn “hai phe” giữa một bên là nhóm các nước giàu với một bên là phần còn lại của thế giới. Các cuộc chiến tranh xâm lược đồng hóa văn hóa được ngụy trang bằng nô dịch văn hóa kiểu mới, lũng đoạn tài chính - kinh tế dưới chiêu bài viện trợ, đầu tư, làm chảy máu chất xám… Không ít nước nghèo thuộc thế giới thứ ba là đối tượng được săn đón không ngoài ý đồ xóa bỏ bản sắc dân tộc vừa được tái lập kể từ giữa thế kỷ XX của phong trào giải phóng dân tộc. Trong thế bế tắc của kẻ cùng đường không chịu “bán mình” cho quỷ, xuất hiện các phong trào cực đoan có phản ứng tiêu cực của “chủ nghĩa khủng bố”; một số nước có xu hướng liên kết lại thành khối, nhóm nhằm giải tỏa thế cô lập; số khác bị cuốn hút vào trào lưu tư bản chủ nghĩa, trở thành cứ điểm lũng đoạn của các tập đoàn đa quốc gia…
Ngày nay, sau bao nhiêu năm tháng tranh đấu quật cường, nước ta, dân tộc ta đã sẵn sàng vị thế hội nhập với nền văn minh nhân loại. Để chủ động hội nhập và thể hiện bản sắc văn hóa dân tộc, chúng ta đã có lựa chọn đúng đắn, tiến hành công cuộc ĐỔI MỚI. Đổi mới là phương thức hội nhập tích cực, tạo ra môi trường và điều kiện để thể hiện và phát huy bản sắc dân tộc. Tuy nhiên, đổi mới đòi hỏi phải toàn diện và triệt để, phải mang tính cách mạng. Không hiếm khi phải xóa bỏ mô hình cũ để xây dựng mô hình mới, thay thế phương thức cũ bằng phương thức hoàn toàn mới. Đổi mới cả về tư duy lý luận và thực tiễn hoàn toàn khác với cải cách để hoàn thiện, mà thực chất đó là đổi mới nửa vời. Đổi mới không chỉ về kinh tế, công nghiệp, thương mại và dịch vụ, mà cả về phương thức hoạt động chính trị, quản lý văn hóa, xã hội, giáo dục, v.v…
Trong các thập niên gần đây, người Việt ra định cư ở nước ngoài khá đông, hình thành nên các cộng đồng người Việt có quy mô lớn nhỏ, tập trung hoặc phân tán khác nhau. Kiều bào lâu nay vốn được coi là bộ phận của dân tộc Việt Nam. Họ được tạo điều kiện để hoạt động hướng về cội nguồn. Không ít người đã thực sự nhập cuộc, tham gia vào sự nghiệp phát triển đất nước. Tuy nhiên, sự quan tâm này chủ yếu ở đầu vào đối với số người Việt có điều kiện trở về quê hương. Còn một thực tế là chúng ta chưa có nhiều nỗ lực thể hiện bản lĩnh và bản sắc dân tộc ở đầu ra, trên các lĩnh vực khác nhau của quá trình hội nhập. Người Việt ở nước ngoài cùng với các sắc dân nhập cư khác đều bị coi là nhóm dân tộc thiểu số (groupe ethnique). Họ vừa phải chịu hòa nhập vào nền văn hóa của nước sở tại, vừa cảm nhận sự lạc lỏng xa vắng, vì không thể quên được gốc gác, cội nguồn. Do đó, chúng ta cần tổ chức vận động, phối hợp với các Nhà nước sở tại yêu cầu thực hiện quyền bình đẳng giữa các dân tộc, có chính sách hỗ trợ ưu tiên cho họ sớm hòa nhập cộng đồng, đồng thời tổ chức dạy học và phổ biến tiếng Việt cho các thế hệ kiều bào... Ngoài ra, cần chú ý đầu tư xây dựng, tổ chức mạng lưới, mở rộng chức năng và nâng cấp hoạt động các Nhà Việt Nam ở nước ngoài. Nhà Việt Nam ở nước ngoài phải thực sự là các “trung tâm văn hóa”, nơi thể hiện tập trung nhất bản lĩnh và bản sắc văn hóa của con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam. Sự kiện các Nhà văn hóa Việt Nam do các doanh nhân thành lập gần đây ở Ba Lan, Đức… càng cho thấy đây cũng là vấn đề thời sự bức xúc trước yêu cầu hội nhập hiện nay.
Thể hiện và phát huy bản sắc dân tộc, người Việt Nam ở bất kỳ nơi đâu, bất cứ thuộc thành phần, thế hệ nào đều nêu cao lòng tự hào dân tộc, tha thiết với quê hương, dẹp bỏ thói ganh ghét đố kỵ, thực hành phương châm “đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết”, ra sức tiếp cận tri thức tiên tiến của thời đại, cùng chung sức chung lòng góp phần xây dựng đất nước, theo tinh thần “uống nước nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”.
TNK, 6/2004
[1] Xem thêm: Trần Ngọc Khánh, “Âm nhạc Sài Gòn - thành phố Hồ Chí Minh, một thế kỷ nhìn lại”, Tc. Văn hóa Nghệ thuật, Hà Nội, số 2 (224), 2003, tr. 74-80.