Thế giới trong 10 năm qua đã quay sang chú ý đến Đông Nam Á, nhưng nguyên do chính của sự chú ý này là chiến tranh đang xảy ra tại đây. Chính cái tính chất nặng trĩu của những biến cố quân sự ấy đã làm lu mờ nhiều khám phá kỳ thú về cổ sử và tiền sử của các dân tộc hiện đang sống trên miền đất này. Thế nhưng, về lâu về dài, những khám phá này, phần nhiều có tính khảo cổ, sẽ tác dụng, có lẽ còn nhiều hơn là chiến tranh hay hậu quả của chiến tranh, đối với lối suy nghĩ của chúng ta về miền đất này và các dân tộc của miền này, và đối với lối tư duy của họ đối với chính họ nữa.
Ngay cả đến quan niệm của người phương Tây về vị trí của họ trong quá trình biến đổi của văn hóa thế giới cũng có thể bị thay đổi hoàn toàn. Bởi vì có nhiều dấu hiệu rõ rệt và mạnh mẽ khiến ta nghĩ rằng những bước đầu tiên đến văn minh có thể đã phát xuất từ Đông Nam Á.
LOÀI NGƯỜI BIẾT TRỒNG TRỌT VÀ ĐÚC ĐỒNG Ở ĐÂU TRƯỚC?
Các nhà sử học Âu Mỹ thường hay lý luận rằng lối sống mà ta gọi là văn minh thoạt tiên bắt nguồn từ vòng cung phì nhiêu miền cận Đông, hoặc trong những vùng sườn đồi lân cận. Ta đã tin tưởng từ lâu rằng ở đây con người cổ sơ đã phát triển nghề nông và dần dần học cách làm gốm và đồ đồng. Môn khảo cổ học cũng yểm trợ cho điều tin tưởng này, một phần vì các nhà khảo cổ đào bới khá nhiều trong vùng thung lũng phì nhiêu của vùng cận Đông.
Tuy nhiên, những khám phá mới đây ở vùng Đông Nam Á bắt buộc chúng ta phải xét lại những quan niệm này. Những vật dụng đã được đào lên và đem phân tích trong vòng 5 năm qua cho ta thấy rằng con người ở đây đã bắt đầu trồng cây, làm đồ gốm và đúc đồ dùng bằng đồng sớm hơn hết thảy mọi nơi trên trái đất.
Điều hiển nhiên là người ta tìm thấy các chứng tích tại những nơi mà ngành khảo cổ đào xới trong vùng Đông Bắc và Tây Bắc Thái Lan, với những chứng minh hỗ trợ từ các cuộc đào xới ở Đài Loan, Nam và Bắc Việt Nam, các miền khác của Thái Lan, Malaixia, Philippin, và ở cả Bắc Úc Châu nữa.
Các vật dụng đã tìm được và ước định tuổi bằng cacbon 14 là những di tích văn hóa của dân tộc mà tổ tiên họ đã biết phương pháp trồng cây, chế tạo đồ đá mài và đồ gốm sớm hơn các dân tộc Cận Đông, Ấn Độ và Trung Hoa tới cả hằng mấy ngàn năm.
Trong một vùng ở Bắc Thái Lan, có những đồ đồng được đúc bằng các khuôn kép (hình 2) vào khoảng 2.300 năm trước công nguyên. Thậm chí có thể trước cả năm 3.000 trước công nguyên nữa. Nghĩa là trước khá lâu so với các vật dụng bằng đồng được đúc ở Cận Đông, Ấn Độ và Trung Hoa mà nhiều chuyên gia đã tưởng là những vật dụng đầu tiên <…>.
Người ta có thể sẽ có lý khi đặt câu hỏi: Nếu có sự kiện quan trọng như vậy thì tại sao cho tới nay khoa tiền sử học Đông Nam Á lại không ai biết đến? Có nhiều nguyên nhân, nhưng lý do chính là vì rất ít những tìm tòi khảo cổ được tiến hành tại đây trước năm 1950. Ngay cả đến bây giờ công việc cũng chỉ mới bắt đầu. Nhà cầm quyền thực dân đã không ưu tiên cho vấn đề khảo cổ ở đây, còn một số rất ít người khảo cứu về môn này lại không có hiểu biết chuyên môn cần thiết. Trước năm 1950, không có một bài biên khảo nào đúng với tiêu chuẩn hiện đại được tiến hành. Lý do thứ hai là bất cứ cái gì khám phá thấy đều được xếp loại căn cứ vào quan niệm từ lâu cho rằng đó là kết quả của sự di chuyển văn minh… Họ cho rằng, văn minh bắt nguồn từ Cận Đông, phát triển thịnh vượng ở xứ Mesopotamie và Ai Cập, và sau này ở Hy Lạp và La Mã. Văn minh cũng di chuyển về hướng Đông đến Ấn Độ và Trung Hoa. Còn Đông Nam Á, vì ở xa nhất đối với điểm xuất phát, nên cũng hưởng văn minh sau chót.
Người châu Âu đã tìm thấy những nền văn hóa tiến bộ ở Ấn Độ và Trung Hoa. Khi họ thấy có những điểm tương đồng của các nước này với các xứ sở miền Đông Nam Á thì họ liền cho rằng đó là do Ấn Độ và Trung Hoa đã ảnh hưởng đến Đông Nam Á. Ngay cả cái tên mà họ đặt cho miền này – “Ấn Độ Trung Hoa (Indochine) – cũng phản ảnh thái độ đó.
NHỮNG NGƯỜI THIÊN DI VÀ CÁC “LÀN SÓNG VĂN HÓA”
<…> Robert Heine Geldern, một nhà nhân chủng học Áo, đã xuất bản năm 1932 một tác phẩm bàn về những nét chính cổ truyền của tiền sử Đông Nam Á. Ông cho rằng có một loạt các “làn sóng văn hóa”, nghĩa là những dòng di cư <…>. Theo ông thì đoàn di cư quan trọng nhất đến Đông Nam Á là từ phía Bắc Trung Hoa <…>.
Ông cho rằng đồ đồng Đông Nam Á là kết quả di cư của các dân tộc ở Đông Âu tới vào khoảng năm 1.000 trước công nguyên. Ông tin rằng những dân tộc này di cư về phía Đông và phía Nam, đi qua Trung Hoa vào thời kỳ Nhà Tây Chu (1122 – 711 trước công nguyên). Các sắc dân này mang theo không chỉ phương pháp đúc đồng mà cả một nghệ thuật trang trí đồ đồng bằng các hình vẽ kỷ hà học <…>.
Các nhà nghiên cứu tiền sử phần đông đều chấp nhận lối lập luận cổ điển này, nhưng nếu theo đó thì có một số sự kiện tỏ ra không được ăn khớp lắm. Một số nhà thực vật học nghiên cứu nguồn gốc cây trồng chẳng hạn cho rằng Đông Nam Á là nơi biết trồng cây sớm nhất.
Năm 1952, ông Carl Sauer, một nhà địa chất học Mỹ, đi thêm một bước xa hơn nữa. Ông nêu giả thuyết là khoa trồng cây trên thế giới đã bắt nguồn trước tiên trong vùng Đông Nam Á. Ông cho rằng khoa trồng cây do một sắc dân mang lại đây trước thời kỳ Đông Sơn rất lâu, họ được biết tới dưới danh hiệu một nền văn hóa thô sơ gọi là văn hóa Hòa Bình. Các nhà khảo cổ học không thể chấp nhận ngay thuyết của ông Sauer.
TỪ VĂN HÓA HÒA BÌNH ĐẾN CÁC ĐẬP NƯỚC Ở BẮC THÁI LAN
Từ năm 1920 trở đi, bà Madeleine Colani, một nhà thực vật học, cổ sinh vật học và khảo cổ học người Pháp, đã nêu ý kiến là có một nền văn hóa Hòa Bình. Những ý kiến của bà đều căn cứ vào các cuộc đào xới ở một vài hang đá và các nơi trú ẩn bằng đá khác ở miền Bắc Việt Nam, trong đó khu vực đào xới đầu tiên đã được tìm thấy ở tỉnh Hòa Bình <…>.
Đến năm 1963, tôi tổ chức một phái đoàn hỗn hợp của bộ Mỹ nghệ Thái Lan và trường Đại học Hawaii để tìm kiếm cổ vật trong những vùng sẽ bị chìm sâu dưới mặt nước do việc xây dựng các đập mới trên sông Mêkông và các nhánh của sông này tạo ra. Chúng tôi đã khởi công ở miền Bắc Thái Lan, nơi sẽ xây chiếc đập đầu tiên.
Trước kia chưa có công cuộc đào xới quy mô nào để khảo cứu về tiền sử vùng này <…>.
NHỮNG NGẠC NHIÊN LỚN TỪ MỘT GÒ ĐẤT NHỎ
<…> Kết quả các cuộc đào xới này, cho đến nay đã vào năm thứ bảy, thật là kinh ngạc, nhưng chỉ tiến rất chậm so với những khám phá của chúng tôi trong phòng thí nghiệm ở Honolulu. Trong khi tiếp nhận tư liệu của các thời kỳ ước lượng bằng cacbon 14, chúng tôi bắt đầu nhận thấy rằng khu vực đào xới này quả đang đảo lộn hoàn toàn các điều khoa khảo cổ học đã biết từ trước.
Trong một chỗ đất chỉ rộng chừng 2,5cm2, có một mảnh đồ gốm có in vết vỏ của một hạt lúa, có niên đại muộn nhất là 3.500 năm trước công nguyên. Như vậy có nghĩa là trước cả ngàn năm so với những hạt lúa tìm thấy ở Ấn Độ và Trung Hoa cũng được xác định bằng phương pháp cacbon (mà trước đây, dựa vào đó các nhà khảo cổ đã cho rằng con người tại đây biết trồng lúa nước trước tiên).
Cũng với phương pháp ước lượng thời gian bằng cacbon đối với các cục than tìm thấy ở đó, chúng tôi được biết thêm là các rìu đồng, được đúc trong các khuôn kép bằng đá, đã được chế tạo ít nhất là khoảng 2.300 năm trước công nguyên, có thể là trước cả năm 3.000 trước công nguyên nữa. Như vậy là sớm hơn bất cứ một đồ đồng đầu tiên nào đã đúc tại Ấn Độ cả 500 năm và nó cũng còn lâu đời hơn cả những khu vực Cận Đông mà trước đây người ta đã tưởng là nơi xuất phát cách chế tạo đồ đồng đầu tiên.
Những khuôn đúc tứ giác mà chúng tôi tìm thấy ở Non Nok Tha đều nằm từng đôi một, chứng tỏ chúng đã được đặt cạnh nhau ở đó chứ không phải bị mất hoặc bị vứt bỏ bừa bãi. Cứ nhìn những mảnh vụn của những nồi gang tìm được, và rất nhiều những dây đồng nhỏ như sợi bún rải rác chung quanh đó, thì có thể chắc chắn rằng chúng tôi đã đào trúng một khu vực ngày xưa đúc đồng, hay đúng hơn, một lò đúc rìu thời cổ.
Có những miếng thịt bò được chôn chung trong những ngôi mộ ở Non Nok Tha. Chúng được xem như thịt của một loài bò bướu (bos indicus). Như thế, đây là nơi sớm nhất trên trái đất biết chăn nuôi gia súc ở Đông Á.
Chester Gorman, một sinh viên hầm mỏ ở trường Đại học Hawaii, là người đã xác định vị trí của Non Nok Tha nhờ tìm thấy những mảnh gốm bị xói mòn trong gò đất. Năm 1965, anh trở lại Thái Lan để tìm tài liệu cho luận án tiến sĩ của mình <…>. Ở xa phía Bắc Thái Lan gần biên giới Miama, anh đã tìm thấy Hang Thần và những gì đang ra công tìm kiếm.
HANG THẦN CHO NHỮNG NIÊN ĐẠI GÂY SỬNG SỐT
Hang Thần ở cao trên sườn một vách núi đá vôi phía bên một con suối chảy vào sông Salween ở Mianma. Hiển nhiên hang này đã có lần được dùng như một ngôi đền, vì vậy nên mới có tên là Hang Thần.
Khi đào nền hang, Gorman tìm thấy những mảnh cây đã hóa than, cùng hai hạt có thể là đậu, một hạt đậu tròn, một hạt dẻ, một hạt tiêu sọ, nhiều mảnh bí và dưa leo, cùng với nhiều đồ dùng bằng đá rất đặt biệt của vùng Hòa Bình.
Những mảnh xương súc vật được chặt thành miếng nhỏ rõ ràng chứ không phải bị đốt, cho phép ta nghĩ rằng thịt được chế biến ở đây không phải bằng cách vùi hoặc nướng trên lửa, mà là được nấu trong một dụng cụ hẳn hoi, có lẽ là trong ống nứa giống như ngày nay người ta vẫn còn làm như vậy ở Đông Nam Á.
Việc xác định thời gian bằng cacbon 14 đối với một loạt những gì tìm được tại đây đã cho ta thấy một khoảng thời gian từ 6.000 năm đến 9.700 năm trước công nguyên; và hiện còn nhiều vật dụng khác nữa trong các lớp đất sâu hơn đang chờ xác định thời gian. Vào khoảng 6.600 năm trước công nguyên, có nhiều yếu tố mới đã xuất hiện tại nơi này. Đó là những đồ gốm tráng men bóng được khắc sâu và trang trí bằng cách in dấu các sợi dây thừng trong lúc chế tạo; những dụng cụ đồ đá có một phía mài bằng và những con dao bằng đá mỏng. Những dấu vết của đồ dùng và cây cối thời Hòa Bình đang tiếp tục được khám phá thêm.
Như vậy ta có thể coi những khám phá ở Hang Thần ít nhất cũng phù hợp với thuyết của Carl Sauer và nhiều đoàn thám hiểm khác đang đi đến nhận định rằng có một nền văn hóa Hòa Bình khá phức tạp đã được phổ biến tương đối sâu rộng. Ông Aung Thaw, giám đốc sở Khảo cổ học Mianma, năm 1969 đã đào được một số dụng cụ rất đáng chú ý về văn hóa Hòa Bình trong những hang Padh Lin ở Đông Mianma. Ngoài nhiều vật dụng, còn tìm thấy cả những hình vẽ trên vách hang. Như vậy, đây là khu vực ở phía cực Tây của nền văn hóa Hòa Bình đã được tìm thấy.
Những cuộc đào xới ở Đài Loan do một đoàn thám hiểm hỗn hợp của trường Đại học Yale thực hiện dưới sự hướng dẫn của giáo sư Kwang Chih Chang thuộc Đại học Yale cũng cho thấy có một nền văn hóa đồ gốm có khắc và in hoa văn dây thừng, đồ đá mài và dao nhọn mài, đã xuất hiện khá lâu trước năm 2.500 năm trước công nguyên.
NHỮNG ĐIỀU KHÓ HIỂU BẮT ĐẦU ĂN KHỚP
Căn cứ vào kết quả của các cuộc đào xới mới đây và của các thời kỳ mà tôi đã tóm lược, và của những nơi khác có lẽ cũng quan trọng không kém mà tôi chưa ghi chép, có thể thấy rằng một ngày kia tiền sử Đông Nam Á sẽ được hiện ra một cách hết sức thú vị. Trong một số tài liệu, tôi đã phác thảo những nét đầu tiên về vấn đề này. Đa số những ý kiến của tôi cần được xem như những giả thuyết hoặc nghi vấn; cần phải khảo cứu sâu hơn nữa mới có thể chấp nhận hay phủ nhận chúng. Trong số các ý kiến đó có những điểm sau:
1. Tôi đồng ý với Sauer rằng sắc dân Hòa Bình ở miền nào đó trong vùng Đông Nam Á là giống người biết trồng cây trước hết trên thế giới. Tôi cũng không ngạc nhiên nếu thời kỳ đó bắt đầu khoảng 15.000 năm trước công nguyên.
2. Tôi cho rằng những đồ dùng bằng đá đẽo có cạnh sắc tìm thấy ở Bắc Úc Châu và được ước định bằng cacbon 14 là xuất hiện vào khoảng 20.000 năm trước công nguyên đều thuộc nguồn gốc Hòa Bình.
3. Trong khi người ta được biết hiện nay đồ gốm cổ xưa nhất tìm được ở Nhật có niên đại khoảng 10.000 năm trước công nguyên, tôi tin rằng khi xác định được tuổi của loại đồ gốm có in hoa văn dây thừng thì ta sẽ phải nhận rằng đồ gốm đó chính là do sắc dân Hòa Bình chế tạo rất lâu trước khoảng 10.000 năm trước công nguyên.
4. Theo truyền thống, người ta cho rằng trong thời kỳ tiền sử, kỹ thuật miền Đông Nam Á là kết quả của những làn sóng di dân từ phương Bắc mang tới. Riêng tôi cho rằng văn hóa nguyên thủy thời đồ đá mới Ngưỡng Thiều (Yangshao) ở Trung Hoa mà người ta biết đến chính là kết quả của một nền văn hóa tiền Hòa Bình đã di chuyển từ miền Bắc Đông Nam Á lên phía Bắc vào khoảng 6 hay 7.000 năm trước công nguyên.
5. Tôi cho rằng văn hóa mà sau này được gọi là văn hóa Long Sơn (Lungshan) vẫn thường được coi là phát triển từ Ngưỡng Thiều (Yangshao) ở Bắc Trung Hoa rồi lan ra miền Đông và Đông Nam, thì trái lại thực ra đã khai sinh ở Nam Trung Hoa và di chuyển lên phía Bắc. Cả hai nền văn hóa này đều bắt nguồn từ gốc văn hóa Hòa Bình.
6. Xuồng đục từ thân cây có lẽ đã được sử dụng trên các sông rạch Đông Nam Á rất lâu trước 50 thế kỷ trước công nguyên. Rất có thể là các bộ phận giữ thăng bằng lồi ra hai bên xuồng cũng được sáng chế tại Đông Nam Á khoảng 4.000 năm trước công nguyên, làm cho xuồng được vững chắc hơn trong khi cần vượt biển. Tôi tin rằng những đợt di chuyển ra khỏi khu vực Đông Nam Á bằng ghe, thuyền bắt đầu khoảng 4.000 năm trước công nguyên đã tình cờ đưa cư dân Đông Nam Á lạc tới đất Đài Loan và Nhật Bản, và du nhập vào Nhật cách trồng sắn (khoai mỳ) và có lẽ là cả các hoa màu khác.
7. Vào khoảng 3.000 năm trước công nguyên, các dân tộc Đông Nam Á bấy giờ đã thành thạo trong việc sử dụng thuyền bè, đã đi vào các đảo Inđônêxia và Philippin. Họ mang theo nghệ thuật vẽ hình kỷ hà học gồm những vòng xoắn ốc, những hình tam giác, tứ giác trong các dải đường viền trang trí khi chế tạo đồ gốm, khắc gỗ, xăm mình, dệt vải bằng vỏ cây, và sau này là trên các trống đồng tìm thấy ở vùng Đông Sơn mà trước đây người ta vẫn giả thuyết là từ Đông Âu tới.
8. Các dân tộc Đông Nam Á cũng di chuyển về phía Tây tới Madagascar có lẽ vào khoảng 2000 năm trước đây. Rõ ràng là họ đã đóng góp một phần quan trọng vào nền kinh tế Đông Châu Phi bằng cách trồng các loại hoa màu.
9. Cũng cùng vào khoảng thời gian đó, đã có sự tiếp xúc giữa Việt Nam và miền Địa Trung Hải, có lẽ bằng đường biển do sự phát triển thương mại đem lại. Người ta đã tìm thấy tại tàn tích Đông Sơn một số đồ đồng khác thường, rõ ràng là bắt nguồn từ Địa Trung Hải <…>.
LÊ XUÂN MAI dịch
(lấy theo bản in trong tạp chí “Phương Đông” số 10, 1972, tr. 256- 264; Trần Ngọc Thêm hiệu chỉnh, có tham khảo bản dịch của Nguyễn Tường Minh đăng trong: [Lê Kim Ngân 1974, tr. 216-225]).
Ảnh:Trần Ngọc Thêm sưu tầm và bổ sung.