Phật giáo là một tôn giáo luôn nhấn mạnh sự giải thoát khỏi khổ (dukkha), thường có nghĩa là "sự đau khổ" và tự giác. Khổ là kết quả của nghiệp (karma) (công việc, việc làm, hành động hay suy nghĩ). Đức Phật là Người giải thoát đã dạy cho các đệ tử cách thoát. Ngài giảng dạy về Brahmavihâras[1] (thái độ cao thượng): Từ (Tình thương hay lòng nhân ái); Bi (Lòng thương cảm); Hỉ (Chia sẻ niềm vui); Xả (Tha thứ). Đây là những giá trị Phật giáo được đề cao trong thời hiện đại. Ngày nay, một số người, như người Ludu (thường dân) ở Myanmar đang phải đối mặt với những đau khổ về mặt kinh tế - chính trị - xã hội do các thế lực cầm quyền nơi đây gây ra. Họ cần một đấng giải thoát – có thể chỉ bảo cho họ các giá trị cao thượng (Brahmavihâras).
Tình hình thế giới ngày nay đang đặt ra thách thức mạnh mẽ đối với những nước có tỷ lệ dân số theo Phật giáo cao như Thái Lan (95%), Campuchia (90%), Myanmar (88%), Bhutan (75%), Sri Lanka (70%), Tây Tạng (65%), Lào (60%), hay Việt Nam (55%), v.v...[2] trong việc khám phá ra những giá trị được đề cao trong thời đại ngày nay của Phật giáo. Nguyên nhân là do có quá nhiều những vấn đề về tội ác cá nhân hay tội ác xã hội đã tạo thêm đau khổ (dukkha) cho nhân loại. Người Ludu nghĩa là “thường dân” ở Miến Điện, họ đang phải đối mặt với những đau khổ mang tính xã hội do các cuộc khủng hoảng kinh tế - chính trị - xã hội và những xung đột sắc tộc kéo dài qua các giai đoạn lịch sử khác nhau gây ra. Họ được coi là những người phải chịu khổ đau tột cùng trong xã hội. Họ cần một đấng giải thoát và mang lại cho họ một tương lai tươi sáng hơn. Chúng ta có thể thấy được các giá trị giải thoát của Phật giáo trong bối cảnh Myanmar - một trong những quốc gia châu Á. Là một quốc gia Phật Giáo, nên các Phật tử Miến Điện đã giải đáp các vấn đề xã hội dựa trên cơ sở Phật giáo. Bài viết này tập trung vào cách giải thoát của Đức Phật về vấn đề khổ (dukkha) trong cuộc sống cá nhân và con người xã hội.
Câu chuyện về Đại bàng và Chim Bồ Câu được rút ra từ Kinh Phật (The Buddhist Sutra) được sử dụng như một khuôn mẫu để tôn vinh hình ảnh Đức Phật như một đấng giải thoát. Đại bàng và Chim Bồ câu được xem là biểu tượng về sự khổ đau tột cùng của con người. Câu chuyện này minh họa cho tinh thần cao thượng (Brahmavihâras) của Đức Phật.
Bài viết này mượn cách tiếp cận giải thoát thông qua câu chuyện về Đại bàng và Chim Bồ câu cũng như câu chuyện của người Ludu. Mỗi dân tộc trên thế giới đều có những câu chuyện riêng của mình. Và thực tế lịch sử có thể được tiết lộ thông qua những câu chuyện dân gian. Chúng ta có thể khám phá ra những biểu tượng văn hóa trong các câu chuyện dân gian hay thần thoại này, cũng như thông qua lời dạy của Đức Phật về việc giải thoát con người khỏi mọi khổ đau. Do đó bài viết nhằm nhìn nhận rõ hơn các giá trị của Phật giáo được đánh giá cao trong thời đại ngày nay.
1. Những khía cạnh khổ (Dukkha) của nhân loại
1.1. Khái niệm khổ (Dukkha) trong Phật giáo
Trong những bài giảng đầu tiên của mình, Đức Phật đã giảng dạy giáo lý về khổ (Dukkha) – trong Tứ Diệu Đế là Khổ đế (Dukkha - ariyasacca), đây chính là chủ đề cốt lõi và nền tảng của Phật giáo. Tứ Diệu Đế là:
(i) Khổ đế (Dukkha): Chân lý về khổ
(ii) Tập đế (Samudaya): Sự phát sinh hay nguồn gốc của khổ
(iii) Diệt đế (Nirodha): Sự chấm dứt khổ
(iv) Đạo đế (Magga): Con đường dẫn đến chấm dứt khổ[3].
Từ “dukkha” trong tiếng Pali của Phật giáo có nguồn gốc từ “duhkha” trong tiếng Phạn. Ram Kumar Ratnam và Bhaskara Rao là hai học giả đã nghiên cứu dukkha trong Phật giáo nguyên thủy cho rằng:
““Dukkha” trong tiếng Pali hay “duhkha” trong tiếng Phạn là một cụm từ kết hợp của hai từ “du” và “kha”. Tiền tố “du” được sử dụng trong ý nghĩa “xấu” (kucchita). Nó thể hiện một cái gì đó “không tốt”, “bất mãn”, “khó chịu” hay “không thuận lợi”. Hậu tố “kha” được dùng trong ý nghĩa “trống rỗng” (tuccha). Nó có nghĩa là “trống rỗng” hay “không có thật”. Vì vậy, dukkha ở đây được sử dụng cho cái gì đó “thấp hèn” và “mang tính tưởng tượng”. Buddhaghosa[4] là một quan điểm cho rằng, khổ đau là điều vô thường, có hại, không bền vững do những người thiếu hiểu biết gây ra. Điều này dẫn con người đến đau khổ và bất hạnh. Do đó, chúng được gọi là dukkha”[5].
Ý nghĩa của dukkha là “khó chịu; không an tâm”. Dukkha chỉ một trạng thái không tốt. “[Nó] thể hiện trên cả phương diện về tinh thần lẫn thể chất. Nỗi đau chủ yếu nghiêng về mặt thể chất còn nỗi buồn nghiêng về mặt tinh thần”[6]. ý nghĩa triết học của dukkha được diễn đạt như sau:
“Trong ý nghĩa triết học, dukkha chỉ ra sự thiếu hiểu biết của chúng ta liên quan đến ý nghĩa của cuộc sống. Nỗi đau khổ xuất phát từ sự thiếu hiểu biết này sâu sắc, mãnh liệt và gây tê liệt hơn so với những nỗi đau về thể xác hay tinh thần của con người. Trong thực tế, người ta có thể tìm biện pháp khắc phục (trực tiếp hay gián tiếp) để làm giảm đi những đau khổ phát sinh từ các yếu tố vật chất và tinh thần. Sốt có thể chữa khỏi; kẻ thù có thể bị đánh bại; khát vọng có thể đạt được; nhưng nỗi đau khổ gây ra bởi sự thiếu hiểu biết liên quan tới ý nghĩa thực sự của cuộc sống thì sẽ khiến nỗi đau khổ ấy tăng lên gấp bội và rất khó để tìm cách dễ dàng thoát ra”[7].
Khái niệm “dukkha” trong Phật giáo mang một nghĩa rộng của từ khổ đau. Hai học giả Ratnam và Rao đã viết: “Sự đau khổ không chỉ bao gồm đơn thuần là vật chất và tinh thần, mà nó cũng bao gồm những ý tưởng sâu sắc hơn như: Sự không hoàn hảo, vô thường, trống rỗng, xung đột, mong manh, không thỏa mãn liên quan đến con người đích thực và sự tồn tại của chính con người đó"[8]. Chúng ta có thể thấy khái niệm về dukkha từ ba khía cạnh:
(i) Dukkha như là sự đau khổ thông thường (dukkha - dukkha)
Dukkha – dukkha nghĩa là sự đau khổ phổ biến nhất. Nó mang nghĩa là cảm giác bình thường về sự đau khổ do bệnh tật, tuổi già, cái chết, mất bạn bè, cha mẹ, con cái, v.v... Đây là loại đau khổ rất thường gặp trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Nó cũng bao gồm những nỗi đau về thể xác và tinh thần như: Đau đớn, nỗi buồn, v.v...[9]
(ii) Dukkha đem lại bởi sự thay đổi (viparinama - dukkha)
Viparinama – dukkha có nghĩa là thay đổi về những điều kiện thuận lợi hiện có trong cuộc sống. Cảm giác hạnh phúc hay điều kiện thuận lợi chỉ xảy ra trong một khoảnh khắc, nó không phải là vĩnh viễn hay bất diệt mà luôn luôn thay đổi. Ví dụ, cảm giác vui vẻ bị thay thế bởi cảm giác buồn rầu khi đó sẽ phát sinh hoặc tạo ra sự bất hạnh, thất vọng, đau khổ, v.v. Loại đau khổ này được sinh ra do điều kiện thay đổi[10].
(iii ) Dukkha như là trạng thái bị quy định (sankhara - dukkha)
Sankhara – dukkha không giống như hai sự đau khổ ở trên, nó là khía cạnh quan trọng nhất, rất sâu sắc và khó hiểu. Nó được mô tả như là sự không hài lòng và được trải nghiệm do những tình huống có điều kiện tạo ra. Cần phải thực hiện các phân tích về một cá nhân hay loài người để hiểu được tính chất của loại khổ này[11].
Theo Phật giáo, cuộc đời là bể khổ mà bể khổ này chất chứa muôn vàn những nỗi khổ trong cuộc sống của con người. Tuy nhiên, rất khó để chỉ ra cụ thể được những nỗi khổ đó của người Ludu ở Myanmar. Học giả Khawsiama nhận định rằng: “Có lẽ, đau khổ của họ là viparinama – dukkha, là sản phẩm của những thay đổi do các thế lực cầm quyền ở Myanmar gây ra. Chúng đã thay đổi điều kiện sống của người Ludu bằng nhiều cách khác nhau như chính sách và pháp luật, quy tắc và luật lệ, tư tưởng chính trị, v.v...”[12]
Vậy tại sao chúng ta lại phải chịu đựng những đau khổ đó? Theo Phật giáo, tất cả những gì xảy ra trong cuộc sống của một người đều xuất phát từ nguyên nhân hay hậu quả của Kamma (nghiệp) (Karma trong tiếng Phạn hay kan trong tiếng Miến Điện): Những gì chúng ta đã làm trong quá khứ, từ công việc, việc làm, hành động cho đến suy nghĩ. Nhà sư người Miến Điện, Ven. Mahasi Sayadaw cũng khẳng định rằng: Nói chung “tất cả việc tốt hay xấu đều từ nghiệp báo mà ra”[13]. Theo Phật giáo, Kamma (nghiệp) có nghĩa là:
1. Công việc, việc làm, kinh doanh.
2. Các hành động ý chí dẫn đến những ảnh hưởng tích cực hay tiêu cực.
3. Sự song hành của ý chí, tinh thần cùng với 12 loại tâm thức không phân biệt đạo đức chí, 8 loại tâm thức đạo đức vĩ đại ở tầm cao hơn và 5 loại thức đạo đức liên quan đến thế giới vật chất tốt đẹp tạo ra những nghiệp (Karma) tương ứng[14].
Các Phật tử Miến Điện tin rằng đau khổ của người Ludu là quả báo cho những việc làm xấu của họ. Trong cuốn sách Im lặng sống: Miến Điện dưới quy tắc quân sự (Living Silence: Burma under Military Rule), nhà nhân chủng học Christina Fink cho rằng:
“Trong số những người theo đạo Phật, có những cảm xúc lẫn lộn về việc liệu những nhà sư có nên tham gia vào các hoạt động chính trị hay không? Đồng thời, nhiều người dân Miến Điện cũng bị ảnh hưởng bởi niềm tin rằng, những đau khổ trong cuộc sống này là nghiệp báo của những việc làm xấu mà người ta đã tạo ra trong quá khứ, vì thế họ chỉ có thể chấp nhận tình trạng chính trị hiện tại như một điều tất yếu. Khi thời điểm đổi thay tới tự nó sẽ chuyển. Đặc biệt trong những giai đoạn biến động mạnh mẽ thì những suy nghĩ như thế này lại có xu hướng chiếm ưu thế. Mỗi một cá nhân tập trung hơn vào những nỗ lực cá nhân để cải thiện cơ hội của họ cho một cuộc sống tốt đẹp hơn ở kiếp sau thông qua cầu nguyện, tôn trọng nguyên tắc Phật giáo và tôn giáo”[15].
Dukkha được xem là có nguồn gốc từ “Tahna”, có nghĩa là “tham lam, ham vọng, tham ăn...”. Tahna tạo ra dukkha. Nó sai khiến con người phạm điều ác trong suy nghĩ, hành động và việc làm, v.v.. Mọi người sẽ nhận ra rằng, tất cả tội lỗi trên thế gian này đều do những ham muốn ích kỷ của chính họ tạo ra. Những Tahna khác nhau, dẫn đến những sự khổ khác nhau. Davis Burnett cho rằng: “Chúng dẫn đến thất vọng từ thất bại khi không đạt được sự thỏa mãn lâu dài trong một thế giới luôn thay đổi. Sự ham muốn thúc đẩy con người tái sinh và tiếp tục khổ đau”[16].
1.2. Khổ trong đời sống cá nhân
Khổ của một cá nhân là vấn đề mà người đó gặp phải do những đau đớn, khó khăn, sợ hãi, lo lắng và nhiều rắc rối khác. Nó cũng được hiểu là khổ riêng tư của cá nhân. Hầu hết những nỗi khổ cá nhân này không chỉ là kết quả của nghiệp trong quá khứ mà còn là những chọn lựa tội lỗi, những việc làm xấu xa của người đó ở kiếp hiện tại. Sự bị áp bức của người Ludu ở Myanmar là một minh chứng điển hình, mặc dù đó không phải là sự lựa chọn của họ, nhưng những đau khổ này phần nhiều là do con người tạo ra. Những người cầm quyền đã cố tình ngược đãi họ. Việc làm này trở thành một loại tội ác có tính xã hội. Do đó, con người lại phải hứng chịu cái khổ từ những tội ác xã hội.(15)
Những đau khổ mang tính cá nhân hay riêng tư có thể tạo ra những vấn đề mang tính xã hội. Trong bài viết Tứ diệu đế của chủ nghĩa xã hội Đạo pháp” (The Four Noble Truths of Dhammic Socialism), Santikaro Bhikkhu cho rằng:
“Có một mối tương quan giữa sự đau khổ mà chúng ta biểu hiện ở chúng ta với tư cách cá nhân. Điều này đã góp phần và đồng sáng tạo ra những vấn đề có tính tập thể trong xã hội, và ngược lại, cái cách mà các cấu trúc trong xã hội thể hiện những vấn đề có tính tập thể của các xã hội cũng tác động đến chúng ta theo nhiều cách, từ đó mà góp phần tạo nên sự đau khổ cá nhân làm ảnh hưởng tới chúng ta”[17].
Mọi người đang sống với đau khổ trong thế giới này. Họ phải đối mặt với khổ đau theo nhiều cách khác nhau. Đức Phật đã cố gắng tìm ra con đường đẩy lùi những khổ đau ấy.
1.3. Khổ trong xã hội loài người
Khổ trong xã hội loài người được hiểu là nỗi thống khổ của xã hội. Đó là “cái khổ tập thể “cộng khổ” của chúng sinh hay nói cách khác, đó là trải nghiệm chung về khổ. Năm này qua năm khác, con người đã trải qua bao nỗi thống khổ từ thiên tai cho đến những hoàn cảnh kinh tế - chính trị - xã hội. Khổ trong xã hội loài người là nghiệp báo của các tội ác có tính xã hội. Nó được định nghĩa là:
“[...] Có một ý thức sâu sắc về tội ác có tính xã hội xảy ra dưới các hình thức như: Nghèo đói, phân biệt chủng tộc và giai cấp, áp bức người nghèo, khinh miệt con người và các hình thức khác nhau của bất công, khai thác cạn kiệt nền kinh tế toàn cầu, khủng bố, bạo lực, phá hủy hệ sinh thái, chế độ chính trị phi dân chủ [...] [18]
Kế hoạch hành động không thể bỏ qua cuộc chiến chống lại các tội ác xã hội kể trên. Điều thú vị là trong bài viết “Phật giáo và hành động xã hội: Một phát hiện” (“Buddhism and Social Action: An Exploration”) nhà nghiên cứu Ken Jones cho rằng:
“Trải nghiệm chính là điểm khởi đầu của giáo lý Phật giáo và của mọi cố gắng nhằm xác định các hoạt động xã hội mang đặc trưng Phật giáo. Tuy nhiên, ở giai đoạn đầu cũng đã xảy ra những hiểu nhầm, bởi vì, từ khổ trong tiếng Pali được dịch đơn giản là “sự chịu đựng”, trong khi nó có nghĩa rộng hơn và tinh tế hơn. Dĩ nhiên, nhìn một cách bao quát thì sự chịu đựng có tính khách quan trên thế giới này “khổ - khổ” (dukkha - dukkha) phần lớn đều xuất phát từ nghèo đói, chiến tranh, áp bức và nhiều điều kiện xã hội khác. Chúng ta bám víu lấy vận mạng của chính mình, đấu tranh bằng mọi giá để thoát khỏi vận hạn của mình”[19].
Cái khổ của người Ludu là hậu quả của tội ác xã hội dưới sự thống trị của các thế lực cầm quyền. Họ đã đứng lên chiến đấu chống lại tội ác xã hội này và luôn ngóng trông một đấng giải thoát.
2. Câu chuyện về Đại bàng và Chim Bồ câu: Đức Phật với tư cách là đấng giải thoát và các giá trị Phật giáo của phẩm chất cao thượng (Brahmavihâras)
Hãy để tôi kể cho mọi người nghe câu chuyện về "Đại bàng và Chim Bồ câu", được trích từ phần hai trong Kinh Thượng tọa của Kinh Phật. Chuyện được kể rằng:
“Trong nhiều kiếp trước, Tất-đạt-ca Cồ-đàm là vua của một nước nhỏ thuộc vùng Tây Tạng ngày nay. Trong nền văn minh cổ đại thời bấy giờ, Ngài được biết đến là người có tấm lòng nhân đạo, giàu tình yêu và lòng thương xót đối với chúng sinh. Vì vậy, một ngày, Sakra Devendra[20] chúa tể của các vị thần quyết định thử Ngài, xem Ngài có thực sự xứng đáng làm Phật tổ trong tương lai.
Sakra đã hóa thân thành một con chim bồ câu và một vị thần khác thành một con chim đại bàng. Đại bàng với tâm trạng kẻ đi săn đã đuổi theo bắt chim bồ câu sợ hãi đang bay ngay trong cung điện của nhà vua. Chim bồ câu nức nở: “Tâu bệ hạ, xin hãy cứu mạng sống tôi, bởi vì, tôi sẽ bị con đại bàng đói kia ăn thịt”. Sau khi nghe lời kêu cứu của bồ câu, nhà vua từ bi cố gắng đuổi con đại bàng đi. Nhưng con đại bàng cũng kêu lên: “Bệ hạ, xin hãy cứu sống tôi và cho tôi ăn chim bồ câu, nếu không tôi sẽ bị chết đói”.
Nhà vua hỏi: “Tại sao người không ăn thứ khác mà cứ phải ăn con chim bồ câu bé nhỏ này?”
Đại bàng đáp: “Bẩm tâu bệ hạ, Ông trời sinh ra tôi là phải ăn thịt, tôi không thể ăn thứ khác được. Tôi không có lựa chọn nào khác”.
Nhà vua bây giờ phải đối mặt với một tình thế khó xử: Làm sao ông có thể cứu sống cả hai con vật này? Và không một chút do dự, ông đã ra lệnh cho binh lính của mình: “Hãy cắt vài miếng thịt từ người ta và đưa cho đại bàng ăn”. Tất nhiên những binh lính của ông khi nghe được lệnh như vậy rất lấy làm kinh hoàng, nhưng họ vẫn phải làm theo lệnh vua, cắt thịt vua mang cho chim đại bàng ăn. Điều kỳ diệu đã xảy ra, khi các binh lính thực hiện theo lệnh vua, nhà vua không cảm thấy đau đớn gì cả, cũng không có giọt máu nào tràn ra. (Cùng kể về tích chuyện này, song một số cuốn kinh Phật có tình tiết khác một chút. Người ta kể rằng, con đại bàng đã yêu cầu một số thịt bằng với trọng lượng của chim bồ câu. Những người lính cho chim bồ câu lên một bên của cái cân, bên kia là thịt của nhà vua. Họ cứ lấy thịt của nhà vua cho chim ăn đến lúc bằng với trọng lượng của bồ câu. Sau đó, nhà vua ngất xỉu).
Chúa tể của các vị thần đã bị thuyết phục rằng, nhà vua thật sự là Phật tổ tương lai. Ông và vị thần kia ngay lập tức hiện hình và hóa phép cho nhà vua được khỏe lại như lúc ban đầu[21].
Câu chuyện này minh họa cho phẩm chất cao thượng Brahmavihâras: Metta (Từ), Karuna (Bi), Mudita (Hỉ) và Upekkha (Xả), cũng được gọi là “Tứ vô úy”:
(i) Metta trong tiếng Pâli (hoặc Maitri trong tiếng Phạn) có nghĩa là “Lòng nhân ái” với tất cả: Mong muốn tất cả chúng sinh, không trừ một ai, không có ngoại lệ, đều được hạnh phúc tốt lành.
(ii) Karuna trong tiếng Pâli và tiếng Phạn có nghĩa là “sự thương xót cảm thông”: Với mong muốn mọi đau khổ của con người sẽ hết, “mong muốn tất cả chúng sinh sẽ thoát khỏi đau khổ”.
(iii) Mudita trong tiếng Pâli và tiếng Phạn có nghĩa là “sự hoan hỉ, vui sướng”: Tự mình vui và mừng cho người khác; Thiện, là lòng cùng chia vui với người khác khi họ hạnh phúc hay thành công; niềm vui trọn vẹn cùng với hạnh phúc và phẩm hạnh của tất cả chúng sinh.
(iv) Upekkhātrong tiếng Pāli (hay upek#â trong tiếng Phạn) có nghĩa là “lòng buông xả, không câu chấp vào bất cứ điều gì”: Học cách chấp nhận được - mất, khen - chê, thành - bại..., tất cả đều buông bỏ, không phân biệt hơn kém cho mình và cho mọi người. Xả là “không phân biệt bạn, thù hoặc người lạ mà coi tất cả chúng sinh như nhau. Nó là một trạng thái tâm trí tĩnh lặng sáng suốt, không bị chế ngự bởi những ảo tưởng, tinh thần bị kích động hoặc trì trệ[22].
Tất Đạt Đa Cồ Đàm sinh ra ở ấn Độ khoảng năm 500 trước Công nguyên. Ngài còn có pháp danh là Shakyamuni (Thích Ca Mâu Ni), có nghĩa là “người đàn ông trí tuệ của gia tộc Shakya”. Ngài xuất thân từ đẳng cấp chiến binh trong xã hội ấn Độ và lớn lên trong một gia đình hoàng gia. Cha Ngài là vua của một tiểu vương quốc - nơi người dân Shakya sinh sống. Tất Đạt Đa Cồ Đàm đã trở thành một vị Phật, "một vị Phật giác ngộ hoàn toàn”[23] và là người sáng lập nên Phật giáo. Thích Ca Mâu Ni Phật qua đời ở tuổi 80 do ngã bệnh[24].
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nhấn mạnh Khổ đế trong giáo lý của mình. Đây là học thuyết chính của Phật giáo. Mối quan tâm chính của Ngài là chỉ ra con đường giải thoát cho những con người đang bị sự thống khổ thống trị. Loài người phải chịu đựng một thế giới khổ đau từ đau đớn thể xác, thiếu thốn vật chất cho đến sự u mê của tâm hồn. Như chúng ta đã biết, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã xuất gia để tìm con đường giải quyết những vấn đề còn tồn tại trong nỗi đau khổ của con người và trên con đường đi tìm sự giác ngộ này, Ngài đã nhận ra rằng cuộc đời thực sự là bể khổ.
Thích Ca Mâu Ni đã tìm ra con đường đưa đến chấm dứt khổ đau qua các trải nghiệm riêng mỗi người, đó chính là Bát chính đạo (Ariya - Atthangika - Magga), còn được coi là Trung đạo, bao gồm:
Chính kiến (Samma ditthi)
Chính tư duy (Samma sankappa)
Chính ngữ (Samma vaca)
Chính nghiệp (Samma kammanta)
Chính mệnh (Samma ajiva)
Chính Tinh Tiến (Samma vayama)
Chính niệm (Samma Sati)
Chính định (Samma Samadhi)[25]
Bát Chính Đạo cho ta kiến thức và tầm nhìn, đem tới sự Bình tĩnh, Sáng suốt, Giác ngộ và dẫn đến Niết Bàn. Con đường trung đạo này cũng được hiểu như con đường giác ngộ, một phương tiện để giải thoát khỏi đau khổ hay không toại nguyện. Đức Phật Cồ Đàm dạy các đệ tử của mình rằng, không phải tin tưởng, mà là phải thực hành[26]. John Hick, nhà thần học và triết học tôn giáo đã nhận định rằng, con đường Bát Chính Đạo bao gồm cả trí tuệ và đạo đức. Ông cũng giải thích thêm:
“Bát chính đạo đã tạo ra lòng từ bi (karuna) và bác ái (metta) cho tất cả nhân loại, và thực sự cho cuộc sống của muôn loài. Đệ tử của Đức Phật “đã làm cho bốn phương trời tràn ngập tình yêu, lòng thương xót, sự đồng cảm trong niềm vui và sự thanh thản. Tình yêu thương vô bờ của những con người giàu lòng vị tha này được thấm nhuần lý tưởng của Bồ tát, họ tự nguyện từ bỏ hạnh phúc Niết Bàn cho đến khi toàn thể nhân loại đến được với cõi Niết Bàn. Sự thống nhất mang phổ quát của nhân loại là một niềm tin căn bản của Phật giáo”[27].
Đại bàng trong câu chuyện kể trên có thể được xem như là biểu tượng của những người nắm giữ quyền lực. Ngay từ thời kỳ đồ đá, đại bàng đã được sử dụng như một biểu tượng vì sự hùng vĩ của nó đã truyền cảm hứng lớn cho nhân loại. Bách khoa toàn thư của Mỹ viết:
“Đại bàng là biểu tượng cho sức mạnh, lòng can đảm, tự do và từ lâu đã được dùng làm biểu tượng mang tính quốc gia, quân sự, quốc huy và là biểu tượng tôn giáo.
Đại bàng một hay hai đầu được xem là biểu tượng cho sức mạnh và sự thống nhất của đế chế Belshazzer của Babylon, Caesars, Charlemagne, hay cho nhiều vị hoàng đế của La Mã và Byzantine như Napoleon, các Nga hoàng ở Nga, và nhiều vị hoàng đế áo [...]
Trong nhiều tôn giáo cổ, đại bàng là biểu tượng cho sức mạnh bảo vệ của các vị thần đi cùng với các vị thần đứng đầu. Người da đỏ ở Bắc Mỹ đã sử dụng đại bàng làm biểu tượng cho sự bất tử của tổ tiên họ trên các cột totem. Theo đạo Do Thái và đạo Kitô thì đại bàng đại diện cho cuộc chiến của các linh hồn trước khi lên thiên đàng và việc thực hiện lời hứa của đấng cứu thế”[28].
Quan điểm về đại bàng của người Ai Cập, La Mã và Hy Lạp như sau:
“Theo người Ai Cập: Đại bàng là sứ giả được gửi đến từ những vị thần và mặt trời, là một biểu tượng của cuộc sống bất diệt[29].
Theo người La Mã: Đại bàng là người mang chiếc “đai” sấm sét của Thần Mưa và là dấu hiệu của sức mạnh đã được thừa nhận như là biểu tượng của các hoàng đế La Mã và đã được thực hiện trước đội quân của Đế chế[30].
Theo người Hy Lạp: Đại bàng là sứ giả của Chúa Giêsu. Ngài đã hóa thân thành đại bàng khi đưa người yêu trẻ trung Ganymede của mình lên đỉnh Olympus[31].
Mặc dù đại bàng được sử dụng với nhiều biểu tượng khác nhau dưới cách nhìn lạc quan nhưng thực sự bản chất của đại bàng rất dữ dội, khốc liệt, và hoang dại. Chúng săn bắt và ăn thịt các loài động vật khác. Từ cách nhìn nhận này và từ quan điểm của những người bị đau khổ trói buộc, đại bàng có thể được xem như là biểu tượng của các thế lực cầm quyền trong xã hội loài người. Khi đàn áp những người yếu đuối, bất hạnh, những kẻ cầm quyền đều giống đại bàng.
Bồ câu được xem là biểu tượng của những người không có quyền lực. Nó cũng được sử dụng làm biểu tượng của hòa bình. Trong bối cảnh ở Myanmar, những thường dân Ludu là những con người yếu đuối, bất lực. Họ luôn sợ hãi những thế lực cầm quyền. Trong suốt thời kỳ chế độ quân sự, người Ludu luôn phải sống trong nỗi sợ hãi với các thế lực nắm quyền ở Myanmar. Trong cuốn tiểu thuyết Freedom from Fear (Thoát khỏi sợ hãi) của mình, tác giả Aung San Suu Kyi, nhà lãnh đạo dân chủ - người giành được giải Nobel Hòa bình vào năm 1991, đã viết về tình cảnh của người dân Miến Điện dưới sự thống trị này:
“Trong một hệ thống, sự tồn tại các quyền cơ bản của con người bị từ chối thì sự sợ hãi của con người sẽ kéo dài từ ngày này qua ngày khác: Sợ tù đầy, sợ tra tấn, sợ cái chết, sợ bị mất bạn bè, người thân, tài sản hoặc các phương tiện sinh sống, sợ thất bại. Trong đó, sự sợ hãi lớn nhất chính là cái bề ngoài tỏ vẻ khôn ngoan ngụy trang cho sự ngu ngốc, liều lĩnh ở bên trong [...] Một người đang bị chi phối bởi sự sợ hãi được tạo ra bởi các nguyên tắc khắc nghiệt thì rất khó có thể tự giải thoát cho mình khỏi sự sợ hãi đó. Tuy nhiên, dưới những cỗ máy thống trị kinh khủng nhất thì sự can đảm của con người vẫn luôn nhen lên, bởi vì, trong con người văn minh thì sợ hãi vốn không phải là một trạng thái tự nhiên[32].
Cũng liên quan tới vấn đề này, trong tác phẩm Living Silence: Burma under the Military Rule (Im lặng sống: Miến Điện dưới quy tắc quân sự), nhà nhân chủng học Christina Fink khẳng định, người Myanmar đã sống trong im lặng vì họ bị kiểm soát chặt chẽ bởi chế độ quân sự từ năm 1962[33]. Với nỗi sợ hãi, người Ludu sống trong im lặng!
Lịch sử Myanmar cho thấy, trong thời kỳ thực dân Anh chiếm đóng, hai nhà sư là Hòa thượng U Oktama (1879-1939) và Hòa thượng U Wisara (1889-1929), đã tích cực tham gia vào các hoạt động chính trị chống lại chế độ thực dân. Điều đáng chú ý ở đây là sự kiện Cuộc cách mạng áo cà sa do nhà sư Hòa thượng U Gambira lãnh đạo nổ ra vào tháng 9 năm 2007[34]. Trong sự kiện này, các nhà sư đã nói rõ về sự im lặng đó.
Trong cuộc biểu tình này, nhiều nhà sư chịu đau đớn và một số đã chết. Chúng ta có thể thấy rằng, họ đã hy sinh chính cuộc sống của mình vì người khác. Hàng ngàn nhà sư đã biểu tình ở các thành phố trên khắp đất nước vào ngày 22 tháng 9 năm 2007. Họ vừa đi vừa tụng kinh Từ Bi Metta Sutta - lời cầu nguyện của lòng từ bi trong cuộc biểu tình này[35]. Kinh Từ Bi (Mitta Sutta) trong tiếng Miến Điện đọc như sau:
A-shei [anauh, taung, myuak...] ayat hnaik shih thaw
ananda set-kya-wala, Ananda tha’-tawa doh;
Bey yan kha’-teing kinn-ngyieng gya ba-se;
Yaw-ga khat-tein kinn-ngyieng gya ba-se;
Hsin-ye khat-tein kin-ngyieng gya ba-se;
Hna-lone sei’-wan aye-chan gya ba-se.
Dịch nghĩa kinh Từ Bi như sau:
Tất cả chúng sinh sống ở Đông [Tây, Nam hay Bắc... ];
Tất cả chúng sinh của vũ trụ hãy tự do;
Không còn sự sợ hãi;
Không còn bệnh tật;
Không còn đói nghèo;
Có thể tìm được bình yên trong tâm hồn[36].
Chúng ta có thể thấy Mettâ (Từ) và Karu#â (Bi) trong cuộc sống của Đức Phật. Ngài đã khám phá ra con đường giải thoát khỏi khổ đau và dẫn dắt đệ tử của mình đi theo con đường đó. Câu chuyện Đại bàng và chim bồ câu đã cho ta thấy lòng từ bi của Đức Phật qua việc cứu sống cả hai con vật bằng hành động hiến thịt của mình cho đại bàng ăn và cứu bồ câu khỏi cái chết. Câu chuyện này được xem như là biểu tượng về những người khốn khổ. Cái khổ của kẻ cầm quyền là do họ luôn ham muốn quyền lực tối cao. Đến đây, chúng ta chợt nhận ra rằng, họ cũng đang phải gánh chịu đau khổ vì bị mất arna[37], tức là, bị mất đi "sức mạnh" và "quyền lực". Bản thân họ cũng cần một đấng giải thoát.
Câu chuyện cũng cho thấy Hỉ (Mudita) và (Xả) Upekkhâ của Đức Phật. Ngài biết đồng cảm, chia sẻ niềm vui khi thấy hai con vật giải thoát được khổ đau. (Xả) Upekkhâ là một trong những điều tuyệt vời mà ta có thể học được từ cuộc sống của Đức Phật. Câu chuyện cũng chứng minh Xả (Upekkhâ) trong việc Ngài ra lệnh cắt thịt của mình cho đại bàng. Ngài học cách chấp nhận được và mất, khen và chê, thành công và thất bại, tất cả đều vô tư, công bằng, cho mình và cho tất cả mọi người. Ngài không phân biệt bạn bè, kẻ thù hay người lạ, mà coi mọichúng sinh đều bình đẳng như nhau.
Kết luận
Từ câu chuyện về Đại Bàng và chim bồ câu, chúng ta có thể nhận ra rằng Đức Phật là đấng giải thoát của cả hai, cả những người không có quyền lực lẫn người nắm quyền lực. Phẩm cách Brahmavihâr (phẩm cách cao thượng) của ngài: Mettâ, Karunâ,Mudita, Upekkhâ (Từ, Bi, Hỉ, Xả) là những giá trị của Phật giáo mà chúng ta phải phát huy trong xã hội loài người. Mặc dù tình hình chính trị ở Myanmar thay đổi, song các xung đột sắc tộc và tôn giáo vẫn đang tiếp diễn. Người Ludu vẫn còn những đau khổ về lương thực và hòa bình. Để giải quyết các vấn đề khổ cá nhân và xã hội, chúng ta phải theo con đường phi bạo lực. Đồng thời, chúng ta cũng cần phải xem xét: Liệu đau khổ của xã hội có phải là kết quả của nghiệp? Làm thế nào loài người có thể thực hành phẩm hạnh cao thượng Brahmavihâr giữa bể khổ kia? Mỗi người phải từ bỏ ham muốn tahna của mình để giải thoát khỏi đau khổ và cuộc đời của Đức Phật chính là một khuôn mẫu cho chúng ta hôm nay noi theo.
[1] Ở Việt Nam, Brahmavihâras được dịch là Tứ vô lượng tâm tức là Từ, Bi, Hỉ, Xả, bốn đức tính tiềm tàng trong mỗi người.
- Từ là tình thương, lòng nhân ái đối với người khác.
- Bi là buồn: Buồn vì cái buồn của người khác, khổ vì cái khổ của người khác.
- Hỉ là vui: Vui do cái vui của người khác.
- Xả là tha thứ, từ bỏ: Tha thứ những lỗi lầm của người khác; chấp nhận từ bỏ danh vọng, tài sắc, tính mạng của mình nếu thấy cần và có lợi cho người khác.
Từ, bi, hỉ, xả để tâm hồn được thanh thản (ND).
[2] Thống kê dẫn theo: “Những nước có tỉ lệ dân số theo Phật giáo lớn nhất”. Nguồn: http://www.buddhanet.net/e-learning/story/bstatt10.htm (ngày 11 tháng 6 năm 2013).
[3] Walpola Rahula. Lời Phật dạy. London và Belford: Gordon Fraser Gallery Ltd, 1967, tr.16.
[4] Từ "Buddhaghosa" có gốc từ tiếng Phạn, tiếng Pali. Đó là tên của một nhà sư được sinh ra vào đầu thế kỷ V và được coi là một trong những luận sư nổi tiếng nhất về kinh điển Pali. Các sự kiện trong cuộc đời của ông cho chúng ta biết rằng lời diễn thuyết của sư hệt như của đức Phật, lan tỏa rộng khắp thế giới và ông được người ta gọi là Phật âm (Buddhaghosa), có nghĩa là "Lời Phật dạy". Sau đó, người ta gán tên ông cho rất nhiều bài viết [...] Xem "Từ điển Oxford về Phật giáo, mục từ "Buddhaghosa". Nguồn: http://www.answers.com/ topic/buddhaghosa (ngày 12 -12 - 2010).
[5] M.V.Ram Kumar Ratnam và D. Bhaskara Rao. Dukkha: Nỗi khổ trong Phật giáo thời kỳ đầu. Nxb Discovery, New Delhi, 2003, tr. 45.
[6] Sđd., tr. 45-56. Xem thêm: Walpola Rahula. Lời Phật dạy, tr.17-18.
[7] Sđd., tr. 46-47.
[8] M.V. Ram Kumar Ratnam và D. Bhaskara Rao. Dukkha: Nỗi khổ trong Phật giáo thời kỳ đầu, Lời nói đầu.
[9] Ven. Nai Teja. Cuộc sống đầy rẫy những khổ đau. Tạp chí Xã hội Dana Lanka Sri, kỷ niệm lần thứ 2, số 4, năm 1999. Nguồn: http://www.thisismyanmar.com/ nibbana/teja1.htm (ngày 28 tháng 1 năm 2009).
[10] Sđd.,
[11] Sđd.,
[12] K.M.Y. Khawsiama. Hướng tới Thần học của người Ludu: Đánh giá thần học Minjung và ý nghĩa của nó đối với phản ứng thần học về Dukkha (đau khổ) của người Myanmar (Miến Điện). Bern: Peter Lang International Academic Publication, 2013, tr. 160.
[13] Ven. Mahasi Sayadaw. Lý thuyết về nghiệp. Nguồn: http://www.Buddhanet.net/e-learning/karma. htm (ngày 22 tháng 12 năm 2010).
[14] Từ điển Pali Myanmar – Anh về các từ Diệu đế của Đức Phật. Xem mục từ: "Nghiệp"
[15] Christina Fink. Im lặng sống: Miến Điện dưới quy tắc quân sự. London: Zed Books; Bangkok: White Lotus; Dhaka: University Press Ltd, 2001, tr.215.
[16] U Shwe Aung. Đức Phật: ân nhân vô song của nhân loại, U Hla Maung dịch. Nxb Myawady, 1995, tr.5-6.
[17] David Burnett. Tinh thần Phật giáo: một nhận thức Kitô giáo về lời Phật dạy. Nxb Monarch, 1988, tr.33.
[18] Santikaro Bhikkhu. Tứ Diệu đế của chủ nghĩa xã hội Phật giáo. Nguồn: httpapi.ning.comfiles B6fuzZLUQh6xcn3XKkfFUnhCY9OITpCFxlyLKOEXzNQ3fECqkTHcIFmAf95j8mA2E8Nn5l8Y6ojAnZNIGbH1eAjq7TheFourNobleTruthsofDhammicSocialismSantikaroBhikkhu.pdf (ngày 28 tháng 1 năm 2011).
[19] K. M. George. Vấn đề tội ác: Nhìn từ quan điểm thần học. Nguồn: http://www.Fatherkmgeorge.info/articles1/ theproblemofevil.htm (ngày 26 tháng 10 năm 2011).
[20] Ken Jones. Phật giáo và hành động xã hội: một thăm dò. Nguồn: http://www.accesstoinsight.org/ lib/authors/jones/wheel285.html (truy cập ngày 15 tháng 1 năm 2012).
[21] Sakra là chúa tể của Thiên đường Trayastrimsa (có tất cả 33 Thiên đường), nơi mà tất cả các vị thần sinh sống. Trong nhiều nền văn hóa châu á, ông cũng được biết đến bằng các tên khác như Hoàng đế Sakra, Thiên Hoàng đế, Hoàng đế tối cao, v.v… và đôi khi Đạo giáo gọi ông là Ngọc Hoàng Thượng Đế. Xem: "Đại bàng và chim bồ câu - Một câu chuyện từ Kinh Phật". Nguồn http://lordbuddhaworld.blogspot.com/2009/06/eagle-and-dove-story frombuddhist.html (ngày 31 tháng 7 năm 2011).
[22] Xem thêm: Phật học cho học sinh trung học. Bài 6: Tứ vô lượng tâm và quan điểm về Phật giáo. Tứ vô lượng tâm: Từ, Bi, Hỉ, Xả.
[23] Melford E. Spiro. Phật giáo và xã hội: Một truyền thống vĩ đại và Những thăng trầm của người Miến Điện tái bản lần 2, tr. 31.
[24] Từ điển Bách khoa toàn thư Sách thế giới, tập 2, Mục từ “Đức Phật”.
[25] Sđd., tr. 45.
[26] K. Sri Dhammananda. Mục đích và lối sống, Min Tin Mon dịch. Yangon: Yatana Min Sarpe, 1999, tr.12 (Tiếng Miến Điện).
[27] John Hick. Vấn đề đa nguyên tôn giáo. Hampshire và London: Nxb Macmillan, 1985, tr.82-83.
[28] Từ điển bách khoa toàn thư Hoa Kỳ, tập 9, Mục từ: “Đại bàng”.
[29] Đại bàng linh thiêng. Nguồn: http://www.eaglespiritministry.com/ works/ese.htm (ngày 2 tháng 2 năm 2012).
[30] Sđd.,
[31] Sđd.,
[32] Aung San Suu Kyi. Thoát khỏi sợ hãi và những bài viết khác. Nxb Penguin Books, New York, 1991, tr. 184.
[33] Xem thêm: Fink, Christina. Living Silence: Living Under Military Rule. London: Zed Books; Bangkok: White Lotus; Dhaka: University Press Ltd., 2001.
[34] Sự kiện này được đặt tên là Cuộc cách mạng áo cà sa hay Cuộc cách mạng vàng ở Miến Điện, Shwewa-yaung Tawhlan-ye, vì dựa vào màu sắc của Thin-gan (áo cà sa) của các nhà sư ở Myanmar. Nhà sư trẻ U Gambira đã lãnh đạo của cuộc Cách mạng này. Ông đã bị bắt và bị tuyên án sáu mươi tám năm tù giam. May mắn thay, ông là một trong số mười một tù nhân chính trị được chính phủ mới lên trao trả tự do vào ngày 13 tháng 1 năm 2012.
[35] “Cuộc cách mạng áo cà sa năm 2007”, Chiến dịch Hoa Kỳ đối với người Miến Điện. Nguồn: http://uscampaignforburma.org/learnabout-burma/ saffron-revolution (25 tháng 1 năm 2010).
[36] Miến Điện: Báo cáo từ một quốc gia đóng cửa, đạo diễn Anders ỉstergaard, Magic Hour Films ApS, Đan Mạch, 2009.
[37] Thuật ngữ arna có nguồn gốc từ tiếng Pali.
Nguồn: Tạp chí Triết học, Số 1 (272), Tháng 1-2014