Nảy sinh trên cơ sở của một nền văn hoá nhất định, trải qua quá trình lưu truyền liên tục, truyện kể dân gian mang trong mình những dấu ấn văn hoá, những quan niệm văn hoá nghệ thuật, những tín ngưỡng, tôn giáo, phong tục, tập quán của cộng đồng đã sản sinh cũng như của cộng đồng đã tiếp nhận nó. Vì vậy, các nhà nghiên cứu thường bóc tách các lớp lang văn hóa ẩn chứa trong các truyện kể dân gian để xem xét các phương diện mà nó phản ánh.
Truyện kể dân gian liên quan tới tôn giáo hay là truyện cổ tôn giáo đã được các nhà folklore thế giới chú ý tới. Các công trình nghiên cứu chưa thật nhiều nhưng có thể kể tới một số công trình như Văn hóa dân gian trong Kinh Cựu Ước của James Frazer (1918)(1), Các type truyện dân gian – Phân loại và thư mục của A. Aarne và S. Thompson (1961)(2), Đức Chúa trời và con người: truyền thuyết của các tôn giáo trên thế giới của John Bailey (1992)(3), v.v… Trong khi đó, ở Việt Nam, đây là một vấn đề còn bỏ ngỏ. Trong bài viết này, bước đầu chúng tôi tiến hành phân biệt yếu tố tôn giáo với truyện cổ tôn giáo và thử xác định khái niệm truyện cổ tôn giáo ở Việt Nam.
1. Vấn đề tôn giáo
Theo Từ điển Triết học, tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội, phản ánh hiện thực qua các khái niệm, hình ảnh mang tính ảo tưởng, ảo vọng. Đặc điểm chính của tôn giáo là đức tin vào sự tồn tại thực của một đấng siêu nhiên. Tôn giáo hợp nhất với thế giới quan tôn giáo, với phạm vi, mức độ thờ phụng và tình cảm tôn giáo. Tôn giáo có những hình thức điển hình như: tôn giáo nguyên thuỷ, tôn giáo dân tộc và tôn giáo thế giới.
Tôn giáo nguyên thủy xuất hiện trong xã hội nguyên thuỷ, xã hội bộ lạc, chủ yếu là đạo thờ vật tổ, thờ vật linh, ma thuật. Tôn giáo dân tộc là những tôn giáo như Do Thái giáo, Hinđu giáo, Thần đạo, Khổng đạo... xuất hiện trong xã hội có giai cấp, phản ánh sự đoàn kết của cả dân tộc. Tôn giáo thế giới là từ dùng để chỉ Thiên Chúa giáo, Hồi giáo và Phật giáo. Đó là những tôn giáo được phổ biến tới nhiều dân tộc khác nhau và mang tính chất toàn cầu(4).
Bên cạnh quan điểm được xem là chính thống như trên, còn có quan điểm khác về những tôn giáo được cộng đồng tôn giáo tiếp nhận trong thực tế, khác biệt với thứ tôn giáo của tầng lớp tăng lữ - tôn giáo dân gian.
Trong khi tìm hiểu để hướng tới một định nghĩa tôn giáo dân gian, Don Yonder đã nhận ra rằng “quan niệm của mọi người về Thiên Chúa giáo thường khác một cách căn bản so với những cái mô tả của giáo phái chính thức do các tu sĩ giảng”(5). Dựa trên những phân tích về các quan điểm của các nhà nghiên cứu văn hóa dân gian, nghiên cứu tôn giáo và các quan điểm xã hội học, ông đã đưa ra định nghĩa: “Tôn giáo dân gian là tổng thể của tất cả các quan điểm và các thực hành tôn giáo tồn tại trong nhân dân, song hành và khác với các dạng thức mang tính nghi lễ và thần học chặt chẽ của tôn giáo chính thức”(6).
Nhà nghiên cứu Nguyễn Duy Hinh khi nghiên cứu Phật giáo với văn học Việt Nam cũng đưa ra nhận xét rằng ở Việt Nam, Phật giáo “hình thành hai dòng dân gian và cung đình với nội dung cụ thể khác nhau”(7). Phật giáo cung đình chính là Phật giáo bác học có nội dung gần với Phật giáo Ấn Độ và Trung Quốc còn Phật giáo dân gian lại có nội dung SINH, NỮ, thể hiện sự kết hợp của tôn giáo với tín ngưỡng phồn thực, khác biệt với Phật giáo chính thống.
Như vậy, tôn giáo dân gian không hẳn là tôn giáo với tư cách là một hệ thống giáo lý, có một vị giáo chủ đứng đầu, có một hệ thống giáo luật, giáo hội với các tín đồ và một hệ thống những quy tắc nghi lễ thờ tự nghiêm ngặt. Tôn giáo dân gian gần gũi với đời sống người dân và những yếu tố tôn giáo đi vào truyện kể dân gian cũng chính là những yếu tố được thoát thai từ đó. Và nó cũng chính là đối tượng mà chúng tôi quan tâm trong bài viết này.
Tôn giáo thường là sự phát triển một tín ngưỡng dân gian, được cộng đồng thể chế, quy phạm hoá cao độ, nhưng ở Việt Nam, quá trình này không diễn ra. Việt Nam không có tôn giáo bản địa theo đúng nghĩa, những tôn giáo hiện tồn ở nước ta như đạo Phật, đạo Thiên Chúa, đạo Lão,... đều là những tôn giáo ngoại lai, du nhập vào nước ta theo những con đường khác nhau, vào những thời điểm khác nhau. Tuy nhiên, trong quá trình du nhập, những tôn giáo đó dần được biến đổi cho phù hợp với quan niệm, với hoàn cảnh thực tế đời sống của nhân dân ta, nó còn được dung hợp với những tín ngưỡng bản địa tạo nên một sắc thái riêng, khác biệt với thứ tôn giáo chính thống lúc ban đầu.
2. Yếu tố tôn giáo trong truyện kể dân gian Việt Nam
Yếu tố tôn giáo xuất hiện trong truyện kể dân gian bao giờ cũng muộn hơn nhiều so với sự xuất hiện của tôn giáo trong đời sống. Chỉ tới khi tôn giáo phát triển đến một mức độ nhất định, đi sâu vào đời sống tâm linh của quần chúng nhân dân, trở thành một phần trong đời sống nhân dân thì nó mới được phản ánh trong truyện kể dân gian.
Là một phần trong đời sống tinh thần của nhân dân, tín ngưỡng, tôn giáo đi vào truyện kể dân gian như một lẽ tự nhiên. Truyện kể dân gian là nơi lưu giữ, ẩn chứa những yếu tố tôn giáo, tín ngưỡng lưu hành trong nhân dân. Những yếu tố này phải được nghệ nhân dân gian chọn lựa kĩ lưỡng trước khi sáng tác và được tập thể chấp nhận, tiếp nhận và lưu truyền. Tuy nhiên, đi vào truyện kể dân gian, những yếu tố tôn giáo thường bị mờ nhạt đi, biến đổi đi và đậm chất dân gian, đôi khi không còn phân biệt được một cách rạch ròi giữa yếu tố tôn giáo và những quan niệm truyền thống của người dân. Vì vậy mới có trường hợp một bộ phận những truyện kể đậm chất tôn giáo, khi được lưu hành trong nhân dân đã dần biến đổi, trở thành những truyện dân gian, khó có thể tìm được dấu vết của yếu tố tôn giáo trong đó như truyện Xẩm sờ voi, Mèo lại hoàn mèo(8) hay Hai con cò và con rùa, v.v...
Yếu tố tôn giáo là toàn bộ những yếu tố của tôn giáo được nghệ nhân dân gian sử dụng trong truyện kể dân gian. Như chúng ta đã biết, mỗi tôn giáo có một vị giáo chủ, một hệ thống giáo lý, một hệ thống giáo hội và những tín đồ riêng. Khi một hay nhiều yếu tố trong hệ thống đó tham gia vào quá trình hình thành một tác phẩm văn học dân gian thì chúng đều phải được xem là những yếu tố tôn giáo, cho dù nó đã biến đổi so với những yếu tố nguyên gốc. Với quan niệm như vậy, chúng ta thấy trong truyện kể dân gian, những yếu tố tôn giáo tồn tại rất phong phú.
Một trong những biểu hiện dễ nhận thấy nhất của yếu tố tôn giáo trong truyện kể dân gian là việc bên cạnh hình ảnh những vị thần quen thuộc (gắn với tư duy vạn vật hữu linh và tín ngưỡng đa thần giáo nguyên thuỷ) đã xuất hiện cả những ông Bụt (Phật), ông Tiên, Ngọc Hoàng... vốn là những vị giáo chủ của những tôn giáo xuất hiện sau này. Cùng với những nhân vật tôn giáo là những giáo lý, niềm tin tôn giáo xuất hiện khá nhiều trong truyện kể dân gian. Tất nhiên, có những tín ngưỡng dân gian trùng với tôn giáo, có những niềm tin tôn giáo trùng với đạo đức của nhân dân, chẳng hạn như quan niệm “ở hiền gặp lành, ở ác gặp ác” của nhân dân và thuyết nhân quả của đạo Phật; quan niệm và cách thức thực hành ma thuật của người dân và những thuật phù thủy của Đạo giáo... mà để phân biệt được chúng cũng không phải là một việc làm đơn giản.
Tuỳ theo mức độ đậm nhạt và vị trí của yếu tố tôn giáo trong truyện mà truyện kể dân gian đó có thể được coi là truyện kể dân gian mang màu sắc tôn giáo hay là truyện cổ tôn giáo. Trong thực tế, sự phân biệt này còn khá mơ hồ. Khi xem xét một tiểu loại của truyện cổ tôn giáo là truyện cổ Phật giáo, chúng tôi thấy nhiều truyện cổ Phật giáo được các nhà sưu tầm, biên soạn xếp vào truyện cổ tích (như truyện Sự tích cái chân sau con chó, Sự tích cá he, Sự tích cây huyết dụ, ... trong sách Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam của Nguyễn Đổng Chi)(9) hay được xem là những truyện cổ mang màu sắc Phật giáo (như truyện Sự tích con nhái, Sự tích ông bình vôi, Man Nương, Cái cân thủy ngân,... trong sách Những truyện cổ Việt Nam mang màu sắc Phật giáo do nhà sư Thích Trung Hậu sưu tập và giới thiệu)(10). Theo chúng tôi, sở dĩ có hiện tượng chồng chéo này có thể là do hai nguyên nhân: thứ nhất, cả hai loại truyện đều có chứa yếu tố tôn giáo nhưng với mức độ đậm nhạt khác nhau; thứ hai, do chưa có một giới thuyết cụ thể nào về truyện cổ tôn giáo để có thể lấy đó làm căn cứ để xác định nó. Thậm chí, truyện cổ tôn giáo, được biết tới với cái tên Tiên thoại, Phật thoại... còn bị gạt ra khỏi truyện kể dân gian, cho rằng “Tiên thoại, Phật thoại hay nói chung là những truyện cổ tôn giáo là những loại truyện dễ nhìn nhận dù của bất cứ dân tộc nào, vì chúng mang theo dấu ấn rõ nét của một thứ tôn giáo nhất định… Gạt tất cả các truyện trên ra, chúng ta sẽ chỉ còn lại những loại truyện với cái tên quen gọi là truyền thuyết, cổ tích”(11) hay “Tính chất mê tín của những truyện này khiến cho dễ phân biệt chúng với truyện dân gian”(12)… Điều này liên quan đến vấn đề vị trí của truyện cổ tôn giáo trong hệ thống truyện kể dân gian mà chúng tôi xin được bàn đến trong một dịp khác.
Mục đích của bài viết này, như trên đã xác định là bước đầu chỉ ra sự khác biệt giữa truyện kể dân gian có yếu tố tôn giáo (hay mang màu sắc tôn giáo) và truyện cổ tôn giáo, dựa vào yếu tố tôn giáo tồn tại trong chính bản thân truyện kể. Ở đây, có thể coi truyện Tấm Cám là một dẫn chứng sinh động.
Trước hết, đây là một kiểu truyện cổ tích có tính phổ biến trên toàn thế giới, được biết đến với cái tên chung là Cinderella (có nghĩa là Cô Tro Bếp hay Cô Lọ Lem) và được S. Thompson xếp vào type 510(13). Theo thống kê của nhà sưu tầm truyện dân gian M.R.Cox người Anh, có tới 345 dị bản truyện Cô Lọ Lem(14). Thậm chí, theo nhà nghiên cứu E.M. Meletinxki, con số này còn lên tới trên 500 dị bản(15).
Tuy cùng thuộc type 510A nhưng truyện Tấm Cám của Việt Nam và những nước trong khu vực Đông Nam Á lại có kết cấu phức tạp hơn. Nếu như truyện Cô Lọ Lem của các nước phương Tây thường kết thúc khi cô gái lấy được hoàng tử thì truyện Tấm Cám ở Việt Nam và các nước Đông Nam Á còn được tiếp tục với chuỗi tình tiết bị bức hại liên tiếp của cô gái. Trong sự biến hóa của Tấm có bóng dáng của thuyết luân hồi của Phật giáo, thêm vào đó, lực lượng phù trợ cho Tấm không phải là bà tiên hay linh hồn người mẹ (như trong truyện của phương Tây và một số nước khác) mà là ông Bụt (đấng tối cao của Phật giáo) đã khiến cho vấn đề ảnh hưởng của Phật giáo tới truyện cổ tích này trở thành vấn đề được các nhà nghiên cứu quan tâm. Tổng hợp ý kiến của nhiều tác giả, nhà nghiên cứu Đỗ Bình Trị đã cho rằng “vấn đề chủ yếu không phải là Tấm Cám có chịu ảnh hưởng của đạo Phật không mà là vấn đề những biểu thiện cụ thể của ảnh hưởng này và mức độ của nó”(16).
Xác định được “những biểu hiện cụ thể của ảnh hưởng này (ảnh hưởng của đạo Phật – Đ.T.T.H) và mức độ của nó” trong truyện Tấm Cám cũng đồng thời xác định được truyện Tấm Cám của Việt Nam có phải là truyện cổ tôn giáo không, hay nó chỉ đơn thuần là truyện cổ mang màu sắc tôn giáo. Để làm được điều này, chúng tôi thử tiến hành so sánh truyện Tấm Cám của Việt Nam với truyện Con rùa vàng của Thái Lan và nhận thấy:
Về kết cấu, hai truyện này có sự tương đồng, tức là đều có chi tiết cô gái hóa thân liên tiếp – đặc trưng cho kết cấu của type truyện 510A ở phương Đông. Tuy nhiên, các yếu tố Phật giáo xuất hiện ở hai truyện mang những vai trò khác nhau.
Yếu tố Phật giáo trong truyện Tấm Cám của người Việt Nam thể hiện trước hết qua hình ảnh ông Bụt, lực lượng phù trợ cho cô Tấm. Tuy nhiên, ông Bụt ở đây chỉ là hình ảnh ông Phật đã được dân gian hóa, đúng như GS. Đinh Gia Khánh nhận xét “Ông Bụt trong truyện Tấm Cám chỉ có cái tên làm cho ta nghĩ đến tôn giáo; về thực tế đó là một sản phẩm của văn nghệ dân gian ở nước ta”(17). Ông Bụt trong tâm thức của người Việt giống như là một vị thần luôn có mặt ở mọi nơi để cứu giúp, ban thưởng cho người tốt và trừng phạt kẻ xấu.
Cũng có thể nhận thấy bóng dáng thuyết luân hồi của đạo Phật qua sự biến hóa liên tiếp của Tấm sau khi bị bức hại. Tuy nhiên, sự tái sinh liên tiếp của nhân vật này trong những hình dạng khác nhau không chỉ mang bóng dáng thuyết luân hồi (thuyết luân hồi của Phật giáo cũng như quan niệm luân hồi trong dân gian) mà còn ẩn chứa những dấu hiệu của tư duy nguyên thủy về linh hồn vĩnh cửu. Khi nghiên cứu kiểu truyện Cô Lọ Lem của miền Nam Trung Quốc đặt trong mối tương quan so sánh với kiểu truyện Tấm Cám của Việt Nam, dựa trên những kết quả nghiên cứu dân tục học cụ thể, nghiên cứu sinh Đường Tiểu Thi đã chỉ ra rằng: Theo quan niệm của đạo Phật thì sự “luân hồi” là do chuỗi “nhân quả báo ứng” không dứt còn trong tư duy nguyên thủy, phần thể xác của con người có thể vĩnh viễn mất đi nhưng linh hồn thì còn tồn tại mãi mãi, dưới hình thức này hay hình thức khác(18). Hơn nữa, truyện của người Việt kết thúc khi cô gái thực hiện được mục đích quay trở lại đoàn tụ hạnh phúc với chồng và con ngay trong kiếp hiện sinh. Đó là mục đích chính của cuộc đấu tranh giữa nhân vật Tấm và lực lượng thù địch (hai mẹ con Cám), mục đích này không chỉ khác biệt mà hoàn toàn xa lạ với mục đích giải thoát con người khỏi bể khổ, giải thoát con người khỏi luân hồi của Phật giáo.
Trong truyện của Thái Lan, ông Phật (Bụt) tuy không đóng vai trò là lực lượng phù trợ cho U’ay nhưng lại xuất hiện ở cuối truyện để lý giải về những sự kiện xảy ra trong cuộc đời cô gái như là những nhân quả từ kiếp trước đưa lại, không thể tránh được:
“Kiếp trước, U’ay đã bắt một con gà con cho con mình chơi để đến nỗi gà con rơi vào nồi nước sôi. Vì vậy, kiếp này mẹ con U’ay phải trả nợ kiếp trước. Kanitha (mẹ của U’ay) bị giết và sau khi thành cá thì lại bị làm thịt, còn U’ay thì ngã vào nồi nước sôi mà chết. Kiếp trước, Séthi là con vẹt hay nói, còn Kanitha là con mèo. Vẹt được chủ yêu, Mèo ghen tức, rình lúc chủ đi vắng vồ vẹt và giết chết. Vì vậy, kiếp này, để báo lại, Séthi đã giết Kanitha. Trên trần thế này, sự việc cứ nhắc đi nhắc lại mãi cho đến khi ta thôi không đem điều ác để báo lại điều ác; và như vậy thì mới thoát khỏi kiếp luân hồi, lên cõi vô sinh cực lạc”.
Với sự giải thích như vậy, Phật sống Pach Cheka Budda đã trực tiếp khẳng định quan niệm nhân quả của đạo Phật. Sức mạnh của quy luật này chi phối sự vận động của vạn vật, chi phối mọi hành vi của con người vì gieo nhân nào sẽ gặt quả ấy, bất kể là ai, từ vua quan cho tới người dân, từ cha con cho tới vợ chồng. Sự quả báo trong truyện Con cá vàng cũng giống như những sự quả báo từng được ghi lại trong các kinh sách của đạo Phật. Chẳng hạn, trong sách Hiền ngu nhân duyên kinh(19), quyển thứ chín, phẩm (Theo Từ điển Phật học Hán -Việt(20), “phẩm” là thuật ngữ tương đương với chương, đoạn) thứ bốn mươi hai có ghi lại câu chuyện về một người con ngộ sát cha đẻ của mình. Việc đó được chính đức Thích Ca giải thích rằng, cái kết quả (bị con ngộ sát) mà người cha phải nhận trong kiếp này là do kiếp trước, chính ông ta đã vô tình đập chết cha của mình (nguyên nhân), chỉ khác là vị trí của cha và con trong hai kiếp đã bị hoán đổi: người cha kiếp trước là người con của kiếp này và ngược lại. Vì theo đạo Phật “quả báo không bao giờ xóa nhòa được, dầu cho lâu kiếp cũng phải đền trả”(21).
Như vậy, trong truyện của Thái Lan, vai trò của con người bị những yếu tố tôn giáo lấn át, mọi hành vi của con người đã được định sẵn theo luật “nhân quả”, “oan oan tương báo” của đạo Phật. Hơn nữa, việc đức Phật luôn xuất hiện ở cuối mỗi câu chuyện để giải thích, xâu chuỗi các sự kiện theo quan điểm của Phật giáo cũng là kết cấu chung của những câu chuyện ghi trong kinh Phật.
Qua so sánh một vài điểm như trên, có thể thấy rõ ràng những yếu tố Phật giáo có xuất hiện trong truyện Tấm Cám nhưng đã bị biến đổi, dân gian hóa và hoàn toàn không đóng vai trò quyết định trong sự phát triển cốt truyện. Ngược lại, với truyện Con cá vàng, yếu tố Phật giáo đóng vai trò chủ đạo, chi phối mọi hành vi của các nhân vật.
Mặc dù cả hai truyện này đều thuộc type 510A theo hệ thống A-T như đã xác định ở trên nhưng dựa vào mức độ ảnh hưởng và vị trí của yếu tố tôn giáo có mặt trong truyện, có thể xác định được truyện Tấm Cám của Việt Nam là truyện cổ mang màu sắc tôn giáo trong khi truyện Con rùa vàng của Thái Lan là truyện cổ tôn giáo.
3. Truyện cổ tôn giáo
3.1. Về khái niệm
Trước đây, truyện cổ tôn giáo ở Việt Nam chỉ được nhắc tới với những cái tên Tiên thoại, Phật thoại và thường không được xem là truyện dân gian. Từ những năm 1958-1982, trong phần nghiên cứu ở đầu bộ sách Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam gồm 5 tập, nhà nghiên cứu Nguyễn Đổng Chi đã có những nhận định bước đầu về truyện tôn giáo. Theo ông thì “Truyện tôn giáo là những loại truyện rất dễ nhìn nhận dù của bất cứ dân tộc nào, vì chúng mang theo dấu ấn rõ nét của một thứ tôn giáo nhất định. Chúng thường xuất hiện từ miệng tăng lữ với mục đích tuyên truyền dẫn giải về chủ nghĩa yếm thế. Chủ đề của truyện thường là việc nhân quả báo ứng, thoát ly cuộc sống trần tục…”(22). Mặc dù không thừa nhận truyện tôn giáo là truyện dân gian nhưng ông đã chỉ ra được một số đặc điểm chung của truyện cổ tôn giáo, tuy còn sơ lược.
Đồng quan điểm với tác giả Nguyễn Đổng Chi là những ý kiến được ghi lại trong một số sách nghiên cứu về Văn học dân gian như cuốn giáo trình Văn học dân gian Việt Nam của các tác giả Đinh Gia Khánh – Chu Xuân Diên – Võ Quang Nhơn(23) hay cuốn Văn học dân gian Việt Nam, tập 2 của tác giả Hoàng Tiến Tựu(24). Nhìn chung, các nhận định trong đó mới chỉ nhấn mạnh vào “tính chất mê tín” hay là “thế giới quan thần bí và những quan niệm duy tâm siêu hình”(25) của truyện tôn giáo mà chưa đưa ra được một khái niệm chung về loại truyện này.
Chúng tôi nhận thức rằng, để đưa ra được một định nghĩa thực sự đầy đủ và thuyết phục về truyện cổ tôn giáo là một công việc khó khăn, chắc chắn sẽ phải đầu tư không ít thời gian và công sức. Tuy nhiên, từ những phân tích bước đầu, chúng tôi cũng mạnh dạn đi đến một nhận xét chung nhất về truyện cổ tôn giáo như sau:
Truyện cổ tôn giáo là những truyện kể dân gian có tính chất hư cấu và tưởng tượng, trong đó những yếu tố tôn giáo giữ vai trò chủ đạo. Nhân vật chính trong truyện thường là những nhân vật tôn giáo như giáo chủ, tông đồ hay các tín đồ. Nội dung chủ yếu của truyện thường có tính chất thuyết minh cho lịch sử và hệ thống quan niệm của những tôn giáo nhất định. Truyện cổ tôn giáo thường được các giáo phái tôn giáo sử dụng với mục đích truyền bá tôn giáo của mình.
3.2. Một số loại truyện cổ tôn giáo ở Việt Nam
Với mục đích mở rộng ảnh hưởng của mình trong đời sống của quần chúng nhân dân, bất cứ tôn giáo nào cũng có xu hướng sử dụng những truyện kể liên quan đến các vấn đề của tôn giáo đó như truyện về giáo chủ, về các tông đồ hay tín đồ, tín điều, v.v… để truyền bá. Tôn giáo nào càng có phạm vi ảnh hưởng rộng trong đời sống sinh hoạt xã hội thì truyện cổ liên quan tới nó càng được phổ biến rộng rãi trong cộng đồng xã hội. Nói cách khác, sự phát triển của một loại truyện cổ tôn giáo cụ thể tỷ lệ thuận với phạm vi ảnh hưởng của tôn giáo đó. Theo quy luật đó, những truyện cổ gắn với loại tôn giáo có tính phổ biến toàn cầu (còn được gọi là tôn giáo thế giới như đạo Thiên Chúa, đạo Hồi, đạo Phật ) cũng được lưu truyền và phổ biến ở nhiều nơi trên thế giới.
Ở Việt Nam, như đã nói, quá trình phát triển từ tự phát lên tự giác để biến một tín ngưỡng dân gian thành tôn giáo đã không xảy ra. Việt Nam không có tôn giáo bản địa theo đúng nghĩa, truyện cổ tôn giáo do vậy đều là những truyện liên quan tới các tôn giáo ngoại lai. Nhưng do những đặc điểm riêng về lịch sử, văn hóa và tâm lý tiếp nhận, mỗi loại tôn giáo cũng như truyện cổ liên quan tới tôn giáo đó lại nhận được những phản ứng khác nhau của cư dân nơi đây. Điều này là nguyên nhân của việc được phổ biến hay bị thu hẹp của một số truyện cổ tôn giáo khác nhau mà chúng tôi sẽ tiếp tục bàn tới.
3.2.1. Truyện cổ Thiên Chúa giáo
Truyện cổ Thiên Chúa giáo là loại truyện cổ tôn giáo kể về sự tích đức Chúa Trời và các điều răn, về sự tích các vị Thánh tông đồ, về những mối liên hệ giữa Thánh thần của đạo Thiên Chúa với con người trần tục… Loại truyện cổ tôn giáo này đặc biệt phổ biến ở châu Âu.
Trong công trình The Types of the Folklore (A Classification and Bibliography)(26), các nhà nghiên cứu folklore thế giới A. Aarne và S. Thompson đã dành mục B (từ type số 750 tới type số 849) để lập thư mục về truyện tôn giáo. Tuy mục B có tiêu đề là Truyện tôn giáo song trong thực tế, những type truyện được giới thiệu trong đó chỉ liên quan tới đạo Thiên Chúa.
Trong truyện dân gian Nga, những truyện cổ liên quan tới tôn giáo này cũng khá phong phú và thường xoay quanh hình tượng nhân vật cha cố song chủ yếu là với thái độ châm biếm. Khi tuyển chọn và giới thiệu những Truyện dân gian Nga do Aphanaxiep biên soạn, V.Anhikin đã lưu ý tới tuyển tập Những truyện cổ tích có tính chất giáo huấn của Nga của Aphanaxiep mà trong đó “có nhiều truyện chống đối bọn cha cố” và ông đã dẫn lời của Aphanaxiep: “Nhân vật thường xuất hiện trong các câu chuyện là những người hầu của cha cố. Ở đấy tha hồ mà châm biếm và tưởng tượng”(27). Những câu chuyện này thuộc loại truyện cười tôn giáo, thể hiện quan điểm đấu tranh của người dân đối với một bộ phận nhân vật tôn giáo đã biến chất hay chỉ dựa vào tôn giáo để thỏa mãn lòng tham lam vô độ của mình.
Trong khi tìm hiểu Thế giới truyện cổ tích của Puskin, tác giả Nguyễn Thị Huế cũng lưu ý tới những truyện như Cha cố, viên tư tế và viên trợ tế, Lão cố đạo hảo tâm, Cha cố đẻ như thế nào, Lão Ôxip và ba cố đạo, Cha cố nằm trong bao tải lên trời… và những truyện như: Người mugic và ông lớn, Người mugic giỏi bợm, v.v… là nhóm truyện thuộc loại truyện “không thích đừng nghe” và cho rằng: “Tất cả những truyện loại này đều nói lên tư tưởng lành mạnh của nhân dân, không cuồng tín mà chống đối và biếm họa hình ảnh những ông cha cố biến chất… Có thể coi đây là những mẫu mực của loại truyện cổ tích trào phúng hiện thực”(28).
Những câu chuyện châm biếm vị cha cố với “cái trán kiều mạch” (biệt hiệu mà Puskin sử dụng cho nhân vật này) cũng giống như truyện cười về những nhà sư và chú tiểu vốn rất phổ biến trong truyện cổ Phật giáo ở Trung Quốc, Nhật Bản cũng như ở Việt Nam.
Thiên Chúa giáo được truyền bá vào Việt Nam từ những thế kỉ XVII, XVIII, XIX. Đây là thứ tôn giáo ngoại lai tới từ phương Tây, phần nhiều xa lạ với người dân phương Đông (Ví dụ: chỉ biết tới Chúa Trời, thờ phụng ngài mà không có bàn thờ tổ tiên…) nên khó hòa nhập vào nhịp sống của cư dân bản địa. Hơn thế, đạo Thiên Chúa bị coi là du nhập vào Việt Nam theo bước chân của quân xâm lược, tính áp đặt cao nên ngay từ đầu đã vấp phải sự phản kháng của không chỉ người dân mà cả nhà cầm quyền lúc bấy giờ. Năm 1833, vua Minh Mạng ra sắc lệnh cấm đạo (đạo Thiên Chúa giáo) trong cả nước Nam và chính vị vua này cũng từng không ít lần phê duyệt những bản án tử hình đối với các cha xứ vẫn lén lút truyền đạo. Trong Mô hình tín ngưỡng tôn giáo truyền thống của người Việt do giáo sư Trần Quốc Vượng tổng kết lại chỉ đưa ra 4 thành tố là Tam giáo: Nho-Phật-Đạo và Tín ngưỡng dân gian (vật linh, đa thần) mà không hề nhắc tới đạo Thiên Chúa(29).
Trong khi chính bản thân Thiên Chúa giáo - vừa là chủ thể, vừa là đối tượng phản ánh của truyện cổ Thiên Chúa giáo - bị từ chối, truyện cổ Thiên Chúa giáo cũng trở nên khá xa lạ đối với người dân Việt Nam. Thậm chí, trong một truyện cổ dân gian bất kì, chỉ cần thay đổi tên gọi của lực lượng phù trợ từ ông Bụt, ông Tiên, Phật Bà… sang Chúa Trời hay Đức Mẹ đồng trinh, lập tức truyện đó trở nên xa lạ với người Việt Nam.
Ở Việt Nam, ngoại trừ những con chiên của Chúa (tức là những người theo đạo Thiên Chúa), có lẽ ít người biết tới những truyện kể liên quan tới Thiên Chúa giáo. Truyện cổ Thiên Chúa giáo thường được phổ biến ở trong cộng đồng giáo dân, thông qua các buổi học Kinh Thánh và vì thế những truyện này thường có tính chất kinh viện, thường có nội dung kể về lời răn dạy của Chúa và truyện về các vị Thánh tông đồ.
3.2.2. Truyện cổ Phật giáo
Phật giáo (hay còn được gọi là đạo Phật) cũng là một tôn giáo ngoại lai, có nguồn gốc từ Ấn Độ, là một trong những tôn giáo lớn trên thế giới. Nếu đạo Thiên Chúa ảnh hưởng rộng lớn tới các nước phương Tây thì ảnh hưởng của đạo Phật lại bao trùm các nước phương Đông, trong đó có vùng Đông Nam Á.
Đạo Phật du nhập vào Việt Nam từ khá sớm, khoảng đầu Công nguyên. Ngay từ cuối thế kỉ II, vùng Luy Lâu (Thuận Thành, Bắc Ninh) đã trở thành một trung tâm Phật giáo lớn của nước ta. Khác với đạo Thiên Chúa, đạo Phật đi vào đời sống tinh thần của người Việt Nam một cách hòa bình hơn, tự nguyện hơn. Lúc đầu, nó được các thương nhân Ấn Độ chứ không phải các nhà truyền giáo mang tới. Theo Nguyễn Lang thì những thương gia đó “không phải là những nhà truyền giáo, và mục đích của họ khi đến xứ ta là để buôn bán chứ không phải là để truyền đạo. Trong thời gian lưu lại Giao Chỉ, họ thờ Phật, đốt trầm, đọc kinh và cúng dường những pháp Phật nho nhỏ mà họ mang theo. Người Giao Chỉ ta đã áp dụng những điều hay về canh nông và về y thuật do họ chỉ bày, cố nhiên là cũng tỏ ra mến chuộng tôn giáo của họ. Nhưng nếu hồi đó có những người Giao Chỉ theo đạo Phật thì đạo Phật đây cũng mới chỉ là những sinh hoạt tín ngưỡng đơn sơ của người cư sĩ, giới hạn trong sự tụng đọc tam quy, cúng dường Phật tháp và bố thí cho người ốm đau đói khổ mà thôi, chứ chưa có sự học hỏi kinh điển và chế độ tăng sĩ”(30).
Chính vì sử dụng những phương pháp thuyết phục, dẫn dụ để truyền bá cùng với việc giáo lý của Phật giáo không đối kháng với tín ngưỡng bản địa nên Phật giáo được người dân Việt Nam thu nhận và phạm vi ảnh hưởng của nó ngày càng được mở rộng. Thậm chí, đã có lúc nó trở thành quốc giáo của Việt Nam (thời Lý - Trần). Trong đời sống tinh thần của người Việt Nam thì “đạo Phật thân thiết đến nỗi dường như một người Việt Nam nếu không theo một tôn giáo nào khác thì ắt là theo đạo Phật hoặc chí ít là có cảm tình với đạo Phật(31)”.
Cùng với đạo Phật, truyện cổ Phật giáo cũng là loại truyện tôn giáo phổ biến nhất ở Việt Nam. Nằm trong hệ thống truyện cổ tôn giáo, truyện cổ Phật giáo cũng là những truyện kể được xây dựng bằng trí tưởng tượng và hư cấu, ít nhiều liên quan tới lịch sử hoặc triết lí của đạo Phật và thường được sử dụng để truyền bá tư tưởng, giáo lý của tôn giáo này.
Xét về mặt nguồn gốc, truyện cổ Phật giáo Việt Nam một mặt tiếp thu những nguồn truyện lấy trực tiếp từ trong kinh sách của đạo Phật nhưng khá gần gũi với đời sống của người Việt Nam như là những truyện trong Bách dụ kinh, mặt khác lại là những truyện có nguồn gốc bản địa. Những truyện này được sáng tạo ra để giáo hóa dân chúng về thiện – ác, về luân hồi, về nhân quả báo ứng… theo giáo lý Phật giáo.
Xét về mặt nội dung, truyện cổ Phật giáo cũng xoay quanh những vấn đề cơ bản của đạo Phật là Phật, Pháp và Tăng. Trong truyện cổ Phật giáo Việt Nam, quả là thiếu vắng những câu chuyện kể về sự tích các vị Phật chính thống được ghi trong kinh sách của đạo Phật (như đức Thích Ca, đức A Di Đà,…). Trong đời sống, mặc dù chúng ta vẫn thường nghe thấy xen vào những lời cầu khấn của người dân Việt Nam mỗi khi đi lễ chùa là những câu niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, “Nam Mô Quan Thế Âm Bồ Tát”… nhưng những câu niệm đó dường như được nói ra một cách vô thức. Bởi vì, với người dân Việt Nam, quá trình tu hành để ngộ đạo, chứng quả thành Phật của đức Như Lai trong nhiều kiếp và quá trình truyền đạo của ngài được ghi trong những bộ kinh sách, gắn với những cái tên như “thành Xá Vệ, nước Tỳ Xá Ly, cung trời Đâu Suất, ngài A Nan tôn giả, ngài Đại Ca Diếp”… là những cái tên khá xa lạ. Ngoài tầng lớp tăng lữ và một số ít những phật tử am hiểu về lịch sử cũng như kinh sách của Phật giáo, những truyện như thế ít có điều kiện lưu truyền rộng rãi trong nhân dân.
Tuy nhiên, trong folklore Việt Nam, không phải là không có truyện kể về sự tích các vị Phật. Chỉ có điều, đó đều là những vị Phật bản địa như Phật Mẫu Man Nương, Phật Bà Quan Âm (Quan Âm Thị Kính, Quan Âm Nam Hải). Điều đặc biệt ở đây là các vị Phật bản địa đều mang giới tính nữ trong khi đạo Phật gốc vốn không có Phật Bà. Sự khác biệt này là kết quả của sự dung hợp tín ngưỡng dân gian thờ Mẫu, tôn sùng phụ nữ trong văn hóa truyền thống của Việt Nam với một tôn giáo ngoại lai.
3.2.3. Truyện cổ Đạo giáo
Tuy không được xem là một trong ba tôn giáo thế giới nhưng Đạo giáo là một trong những tôn giáo có ảnh hưởng lớn ở Việt Nam.
Đạo giáo là tôn giáo có nguồn gốc từ Trung Quốc được du nhập vào Việt Nam từ khá sớm, khoảng cuối thế kỉ II sau Công nguyên. Từ khi vào Việt Nam, Đạo giáo (đặc biệt là Đạo giáo phù thủy) nhanh chóng chiếm được một chỗ đứng quan trọng trong đời sống tâm linh của người dân nơi đây do những thuật tu tiên, luyện đan, bùa chú… của nó có nhiều điểm tương đồng với tín ngưỡng ma thuật của người dân Việt Nam. Trước đó, người Việt đã tin rằng những lá bùa, những câu phù chú có thể chữa khỏi bệnh, giúp người ta trường thọ và xua đuổi tà ma. Nhiều người Việt Nam sùng bái thuật phù chú, say mê đồng bóng nhưng lại không có khái niệm hay sự hiểu biết gì về Đạo giáo.
Truyện cổ Đạo giáo ở Việt Nam thường được gọi là Tiên thoại. Đó là những truyện liên quan tới thần tiên như việc tu tiên, lạc vào động tiên, cõi tiên, lấy tiên…
Thế giới thần tiên trong truyện cổ Đạo giáo là thế giới bất tử, một năm ở đó có thể dài bằng hàng trăm năm so với cuộc sống của con người trần tục. Sau một năm lấy vợ tiên, sống ở cõi tiên, Từ Thức quay về thăm nhà, nhưng mọi thứ đã hoàn toàn biến đổi, hơn tám mươi năm đã trôi qua. Còn với chàng Vương Chất, sau khi xem một ván cờ tiên quay trở về thì cán rìu bằng gỗ lim đã mục, mấy trăm năm đã trôi qua… Thế giới đó được xây dựng chắc hẳn không phải chỉ từ quan niệm của Đạo giáo mà còn từ ước vọng muốn đạt tới sự bất tử của con người, là nhận thức về sự ngắn ngủi của đời người.
Trong truyện cổ Đạo giáo, ngoài những yếu tố tín ngưỡng truyền thống bản địa còn tồn tại những yếu tố tôn giáo khác như Phật giáo. Chử Đồng Tử được gọi là Chử Đạo Tổ tức ông tổ của Đạo giáo Việt Nam nhưng trong truyền thuyết về ông, có bóng dáng của đạo Phật vì theo dân gian, ông từng đi tu với nhà sư Phật Quang và đắc đạo thành Phật.
Cũng giống như Phật giáo, Đạo giáo khi du nhập vào Việt Nam cũng bị bản địa hóa. Một trong những biểu hiện của sự bản địa hóa đó là trong thần điện của người Việt nói chung và trong truyện cổ Đạo giáo Việt Nam nói riêng, các vị thần tiên bất tử được thờ cúng, được dân gian lưu truyền sự tích là các vị thần tiên bất tử của Việt Nam. Theo thống kê trong sách Hội Chân Biên của Trường Viễn Đông Bác cổ, Danh sách các thần tiên Việt Nam gồm có 13 vị nam và 14 vị tiên nữ(32). Nguyễn Văn Huyên khi nghiên cứu Tục thờ cúng thần tiên ở Việt Nam cũng đã tập hợp và giới thiệu những câu chuyện xung quanh các vị thần tiên này(33).
Như vậy, truyện cổ Đạo giáo nằm trong hệ thống truyện cổ tôn giáo, kể về thế giới thần tiên với những vị tiên đã đắc đạo, về mối quan hệ giữa người với tiên, về những cách thức tu tiên, tầm tiên… Đạo giáo như là một tôn giáo hiện không còn tồn tại ở Việt Nam song truyện cổ Đạo giáo vẫn được lưu truyền trong dân gian, thể hiện niềm tin vào một sự vĩnh hằng, thỏa mãn phần nào ước vọng về sự bất tử của con người.
*
Như trên đã nói, nghiên cứu truyện cổ tôn giáo không còn là vấn đề mới mẻ đối với ngành folklore thế giới song ở Việt Nam, hướng đi này đang mở ra nhiều triển vọng. Chính tính phức tạp của bản thân loại truyện này đã đặt ra nhiều vấn đề lý thú cần tiếp tục được nghiên cứu trên cả bề rộng lẫn chiều sâu mà trong giới hạn của một bài viết, khó có thể bao quát hết. Tiến hành phân biệt truyện cổ tôn giáo và yếu tố tôn giáo là cơ sở ban đầu để chúng tôi có thể tiến tới nhận diện một cách đầy đủ hơn về diện mạo của truyện cổ tôn giáo, một loại truyện độc đáo trong kho tàng truyện dân gian Việt Nam
Chú thích:
(1) Jame Frazer: Văn hóa dân gian trong Kinh Cựu Ước. Nxb Macmillan, London, 1918. (Dẫn theo Stephen Oppenheimer. Địa đàng ở phương Đông. Nxb. Lao động. Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, H, 2005).
(2) (13) (26) A.Aarne & S.Thompson: Các type truyện dân gian – Phân loại và thư mục (The Types of the Folktale (A Classification and Bibliography), Helsinki, 1973.
(3) John Bailey: Đức Chúa Trời và con người: truyền thuyết của các tôn giáo trên thế giới. Nxb Đại học Oxford, 1992. (Dẫn theo Stephen Oppenheimer. Địa đàng ở phương Đông. Nxb. Lao động. Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, H, 2005).
(4) Cung Kim Tiến (biên soạn): Từ điển Triết học. Nxb. Văn hoá - Thông tin, H, 2002, tr.1202, 1211.
(5), (6), Don Yonder: Hướng tới một định nghĩa tôn giáo dân gian. Trong sách Folklore thế giới, một số công trình nghiên cứu cơ bản. Ngô Đức Thịnh và Frank Proschan đồng chủ biên. Nxb. KHXH, H, 2005. tr.96, 108-109.
(7) Nguyễn Duy Hinh: Phật giáo với văn học Việt Nam. Tạp chí Văn học, số 4-1992, tr.4.
(8), (12), (23), (25) Đinh Gia Khánh (Chủ biên) - Chu Xuân Diên - Võ Quang Nhơn: Văn học dân gian Việt Nam. Tái bản. Nxb. Giáo dục, H, 2003, tr.128, 298.
(9), (11), (22) Nguyễn Đổng Chi: Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam. Nxb. Giáo dục, H, 2000. tr.44-45.
(10) Thích Trung Hậu (sưu tập và giới thiệu): Những truyện cổ Việt Nam mang màu sắc Phật giáo. Nxb. Tôn giáo, H, 2004.
(14) M.R. Cox: Cinderella. Ba trăm bốn lăm dị bản (Cinderella. Three hundred and forty five variants), London Folklore Society, 1893.
(15) E.M. Mêlêtinxki: Nhân vật trong truyện cổ tích hoang đường. Xuất xứ của hình tượng. Nguyễn Văn Dao – Phan Hồng Giang dịch, tư liệu đánh máy, Đại học Sư phạm Hà Nội.
(16) Đỗ Bình Trị: Hướng dẫn tìm hiểu truyện “Tấm Cám”. Trong sách Phân tích tác phẩm văn học dân gian. Nxb. Giáo dục, H, 1995.
(17) Đinh Gia Khánh: Sơ bộ tìm hiểu những vấn đề của truyện cổ tích qua truyện Tấm Cám. Nxb. Văn học, H, 1968, tr.40.
(18) Đường Tiểu Thi: Bản dự thảo luận án So sánh kiểu truyện Cô Lọ Lem của miền Nam Trung Quốc với kiểu truyện Tấm Cám của Việt Nam. Khoa Văn học. Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội.
(19), (21) Hiền ngu nhân duyên kinh (Thích Trung Quán dịch). Nxb. Tôn giáo, H, 2005, tr.354.
(20) Giáo hội Phật giáo Việt Nam – Phân viện nghiên cứu Phật học: Từ điển Phật học Hán - Việt. Nxb. KHXH, H, 1998, tr.985.
(24) Hoàng Tiến Tựu: Văn học dân gian Việt Nam. Tập 2. Nxb. Giáo dục, H, 1990.
(27) Truyện dân gian Nga (Aphanaxiep biên soạn, V. Anhikin tuyển chọn và giới thiệu). Bản dịch của Lê Chí Quế, Lê Thanh Hương, Trí Dũng. Nxb. KHXH, H, 1988. tr.15.
(28) Nguyễn Thị Huế: Thế giới truyện cổ tích của Puskin. Tạp chí Văn học, số 7-1999, tr.20.
(29) Trần Quốc Vượng (chủ biên): Văn hóa học đại cương và cơ sở văn hóa Việt Nam. Nxb. KHXH, H, 1996, tr.545.
(30) Nguyễn Lang: Việt Nam Phật giáo sử luận. http: //w.w.w. Thư viện Hoa sen.org, chương I.
(31) Trần Ngọc Thêm: Cơ sở văn hóa Việt Nam. Nxb. Giáo dục, H, 1999.
(32) Thanh Hòa Tử: Hội Chân Biên. Xb năm 1847. Dẫn theo Nguyễn Văn Huyên. Tác phẩm được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh. Nxb. KHXH, H, 2003, tr.202.
(33) Nguyễn Văn Huyên: Tác phẩm được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh. Nxb. KHXH, H, 2003, tr.202-254.
Nguồn: vienvanhoc.org.vn