Trong bài viết về “Bản lĩnh Việt Nam” đăng trên báo Sài Gòn giải phóng số chủ nhật 18-7-2004), GS. Trần Văn Giàu từng khẳng định: “Việt Nam ở hàng đầu… những ai đã phải mang cái nhục mất nước..., song cũng là hàng danh dự của những ai… thuộc đội ngũ tiên phong đấu tranh vì đại nghĩa giải phóng dân tộc” [Trần Văn Giàu 2004]. Nhận định đó dựa trên cơ sở khách quan từ các tổng kết tư liệu lịch sử đồng thời mang tính định hướng góp phần mở ra tầm nhìn mới về những vấn đề lớn của cả dân tộc lẫn của thời đại. Bởi, lịch sử nhân loại xưa cũng như nay trong bất kỳ hoàn cảnh nào thực chất vẫn là lịch sử của quá trình đấu tranh để giải phóng và phát triển của bản thân con người trong mọi mối quan hệ xã hội, đặc biệt là với cộng đồng dân tộc. Đối với Việt Nam, trải qua cuộc tranh đấu trường kỳ trong lịch sử, trong đó có nhiều tình thế vô cùng khắc nghiệt để vượt qua tất cả và có được vị thế như hiện nay thì rõ ràng cái giá phải trả là không đơn giản, trong đó bản lĩnh dân tộc với nội lực có thực chính là một trong những nhân tố mang ý nghĩa quyết định.
1. Nội lực đó trước hết chính là từ sức mạnh văn hóa dân tộc, tập trung thể hiện ở truyền thống “Nhân văn Thượng võ”
Nói tới “nhân văn” là nói về “phẩm chất sống và thái độ sống, ứng xử giữa con người với nhau theo tinh thần “vì (tình) người” (“Thương người như thể thương thân”, “Bầu ơi thương lấy bí cùng…”), hoặc “vì (tình nghĩa) cộng đồng” (“tình làng, nghĩa xóm”, “tình dân tộc, nghĩa đồng bào”)…” và, “thượng võ” là “nội lực, khả năng hành động và bản lĩnh sống, chiến đấu để tồn tại, phát triển nhằm vượt qua thử thách trong mọi hoàn cảnh, đặc biệt là trong các tình huống bất thường…”. Đây chính là bộ phận những giá trị cốt lõi tạo nên “bản lĩnh Việt Nam” từng minh chứng qua trường kỳ lịch sử và đến nay vẫn là một nguồn nội lực quan trọng của văn hóa toàn dân tộc cũng như ở từng địa phương: “Không phải ngẫu nhiên mà trong thực tế sinh động của đời sống văn hóa truyền thống, con người Việt Nam từng đã có những cách thế ứng xử hết sức quân bình, mềm dẻo trong sự hòa hợp giữa nội tính “nhân văn” với “thượng võ” của văn hóa thể hiện cụ thể qua phương thức vận động tiêu biểu là “dĩ nhu chế cương”, trong sự cân bằng và hợp nhất của lương tri, lòng nhân hậu với ý chí chiến đấu vượt thắng bản thân, chiến thắng mọi kẻ thù bất cứ từ đâu tới. Đó chính là những gì đã góp phần tạo nên “sức mạnh Việt Nam” như người ta vẫn thường nói” [x. Huỳnh Quốc Thắng - Huỳnh Tuấn Kiệt 2014: 9-21].
Theo cách nhìn nhận như vậy, mặc dù trong bài viết “Bản lĩnh Việt Nam”, GS. Trần Văn Giàu có nói rằng “Văn hóa Hoa Hạ cao hơn nhiều văn hóa Việt” trong giai đoạn thử thách đầu đời dân tộc, nhưng chúng ta phải hiểu rằng điều đó không có nghĩa là văn hóa Việt Nam thấp kém để đến nỗi trở thành thua kém trước bất cứ ai! Nội dung này được làm rõ hơn ở công trình Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam: “Một dân tộc có văn hóa đặc sắc của mình cắm sâu ở lòng nhân dân hẳn cũng không ngại mở cửa tâm trí của mình để đón các luồng văn minh trên thế giới đưa đến. Đất nước và con người Việt Nam vốn khai phóng từ ngàn xưa” [Trần Văn Giàu 2011: 120]. Điều đó có nghĩa rằng qua thực tế đối đầu với các thế lực xâm lược lớn nhất trong mọi thời đại, cái hạn chế nào đó có thể là về “văn minh” nhưng về “văn hóa” thì chắc chắn “bản lĩnh Việt Nam” từng chứng minh rõ ràng mình không hề thua kém ai thậm chí còn là ngược lại! Ở đây, so sánh với “văn hóa Hoa Hạ” chẳng hạn, trước khi tiếp thu những thành tựu “văn minh” của nó, thì “đất nước và con người Việt Nam vốn khai phóng từ ngàn xưa” và sự “khai phóng” ấy được thể hiện trên nhiều mặt đời sống xã hội ngay từ buổi sơ khai, tất cả hợp thành nguồn mạch bản lĩnh “văn hóa” của dân tộc để vượt qua tất cả... Rõ ràng là, như trong bài báo ấy đã khẳng định rằng Việt Nam là “một dân tộc không khi nào háo chiến mà luôn có bản lĩnh cao cường, dám đánh dám thắng…”; và, nội lực của bản lĩnh ấy không chỉ là “can đảm đi song đôi với tài trí” mà hơn nữa đó còn là: “trong chiến tranh, địch xâm lược thì vô cùng tàn bạo, nhưng đối phó với sự tàn bạo đó thì đường lối kháng chiến là “chí nhân” [Trần Văn Giàu 2011: 344]! Điều đó từng được minh chứng rõ nhất với cách “lập quốc” theo kiểu: “Người ta có thể thống nhất giang sơn… bằng cường lực, quân chinh phạt đi đến đâu thì máu sông xương núi, như gió, như lốc, xô cây cỏ đổ về một chiều…”, ngược lại cách “dựng nước” của các thủ lĩnh dân tộc Việt Nam luôn theo tinh thần “thống nhất lòng người, bằng tình thương người, thương dân… đi đến đâu thì tức khắc nhân dân tề tựu về đó như suối chảy thuận về sông…, dù có phải dùng bạo lực thì cũng là dùng đối với một tối thiểu số gian ác, ngoan cố…” [Trần Văn Giàu 2011: 382]. Nhìn nhận lại vấn đề như vậy người ta càng có thể thấy rõ hơn ý nghĩa của vấn đề như GS. Trần Văn Giàu đã nêu: “Từng thời đại, thấy nổi lên những trung tâm văn minh ở khu vực này hay khu vực khác, chỗ này trước là thấp sau vươn lên cao, chỗ kia là gặp hồi cao rồi thì bây giờ lại suy sụp xuống thấp” [Trần Văn Giàu 2011: 106]. Đó cũng là điều khẳng định rằng chỉ có “văn hóa” mới có thể góp phần tạo nên “bản lĩnh” thực chất cho dân tộc mà “bản lĩnh Việt Nam” là một minh chứng rõ ràng nhất!
Tất cả những nội dung trên chính là những gì liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến truyền thống “Nhân văn Thượng võ” của dân tộc. Do hoàn cảnh và vị trí địa lý, điều kiện tài nguyên thiên nhiên, nhân văn, giao tiếp văn hóa cùng với những bối cảnh lịch sử, xã hội đặc thù…, nổi bật trong truyền thống văn hóa Việt Nam vẫn luôn là tinh thần thương yêu, đoàn kết cộng đồng nhằm không ngừng đấu tranh với mọi khắc nghiệt của thiên nhiên và chống nạn ngoại xâm, giữ gìn bản sắc văn hóa gắn với chủ quyền độc lập, tự do của dân tộc... Chính từ sự kết tinh những thành quả tinh thần trong quá trình lịch sử lâu dài bền bỉ như vậy, dân tộc Việt Nam đã từng bước tạo nên “những “giá trị hành động siêu việt” nhằm góp phần đáp ứng yêu cầu giải phóng những yếu tố vận động ngoại sinh (sẵn sàng đánh thắng các thế lực xâm lược, trấn áp cái ác, diệt trừ cái xấu…) và giải phóng những yếu tố vận động nội sinh (diệt trừ thói hư tật xấu để hoàn thiện bản thân, tạo sự dồi dào sức mạnh về thể xác và tinh thần để lao động và chiến đấu vững vàng trong mọi tình huống khắc nghiệt nhất…)” [Huỳnh Quốc Thắng - Huỳnh Tuấn Kiệt 2013: 726-732]. Như GS. Trần Văn Giàu đã khái quát trong bài viết “Bản lĩnh Việt Nam” rằng bởi vì “phương pháp đấu tranh hòa bình, văn hóa, chính trị nhiều lắm cũng chỉ có thể làm cho dân tộc chậm bị đồng hóa mà không thể làm cho dân tộc được giải phóng” do đó mà “phải cần đến bạo lực đánh đổ ngoại bang” và chí ít “khởi nghĩa giống như một lò lửa sưởi ấm mãi ý chí quật cường”… Tinh thần “thượng võ” trong trường hợp như vậy chính là điều kiện phát huy cao độ nhất của “Nhân văn” để làm cho truyền thống “nhân văn thượng võ” được tỏa sáng mãi tiến tới hình thành nên một “bản lĩnh Việt Nam” ngày càng ngời sáng đúng như lịch sử dân tộc đã từng chứng minh…
2. Chủ nghĩa yêu nước là một nguồn mạch trung tâm trong nội lực của bản lĩnh Việt Nam
Từ nguồn mạch văn hóa dân tộc, từ truyền thống “nhân văn thượng võ” đã nói ở trên, “chủ nghĩa yêu nước” được xem là một trong những giá trị mang tính chất “sợi chỉ đỏ” xuyên suốt trong trường kỳ lịch sử dựng nước, giữ nước theo tinh thần “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khái quát. Đây đồng thời cũng là những gì thuộc về các giá trị mà nhân loại hướng đến như là những mục tiêu sống tốt đẹp của con người qua mọi thời đại. Không phải ngẫu nhiên khi GS. Trần Văn Giàu xem nó chính là một nét “tình cảm, đạo đức” lớn của Việt Nam: “chủ nghĩa yêu nước đích thực là đạo Việt Nam… là sản phẩm của bản thân lịch sử Việt Nam, bắt đầu từ tình cảm tự nhiên của mỗi người đối với quê hương mình, tiến lên thành tư tưởng và hệ thống tư tưởng” [Trần Văn Giàu 2011: 167]. Qua thực tế lịch sử, dân tộc Việt Nam chứng minh mình là một cộng đồng có “một tư tưởng, một chủ nghĩa yêu nước hết sức rắn rỏi, kiên trì”, điều đó thể hiện rõ qua: “Công lao của các thế hệ xây dựng cái nôi chung của dân tộc lớn bao nhiêu, thời gian các thế hệ của dân tộc sinh sống trên đất nước này lâu dài bao nhiêu, thì lòng yêu quê hương đất nước đậm đà bấy nhiêu. Yêu nước nên quyết tâm trụ lại trong nước dù nước mất, nhà tan, người bị làm trâu ngựa; còn người, còn đất thì còn ngày tự chủ, độc lập” [Trần Văn Giàu 2011: 183, 253]. Tinh thần của Nam quốc sơn hà (Lý Thường Kiệt), Hịch tướng sĩ (Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn), Bình Ngô đại cáo (Nguyễn Trãi) và Tuyên ngôn Độc lập (Hồ Chí Minh)… trước sau đều góp phần thể hiện và làm rõ về điều đó. Điều này được khẳng định qua ý kiến của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng trong bài “Nguyễn Trãi, một tiêu biểu rất đẹp của thiên tài Việt Nam” viết trên báo Nhân Dân số ra ngày 19/9/1962: “Nguyễn Trãi là một người yêu nước, yêu nước sâu sắc, mạnh mẽ, thiết tha, với tâm hồn và khí phách của một người anh hùng. Đối với Nguyễn Trãi yêu nước là thương dân, để cứu nước phải dựa vào dân, đem lại thái bình chi dân, cho mọi người. Triết lý nhân nghĩa của Nguyễn Trãi cuối cùng chẳng qua là lòng yêu nước thương dân: cái nhân, cái nghĩa lớn nhất là phấn đấu đến cùng chống giặc ngoại xâm, diệt tàn bạo, vì độc lập của nước, hạnh phúc của dân” [Chương Thâu 1980: 6].
Bên cạnh các nội dung trên, Trần Văn Giàu còn nói đến cái “dụng” của chủ nghĩa yêu nước trong thực tế lịch sử và trong cuộc sống, đó là:
+ Tinh thần và hành động cứu nước (khi đất nước lâm nguy)
+ Một tiêu chuẩn cho sự xác định tốt, xấu, phải quấy, nên chăng (nhất là những gì liên quan đến quyền lợi của dân, của nước)
+ Cơ sở của chủ nghĩa anh hùng cách mạng (trong thời hiện đại)
+ Đặc biệt liên quan tinh thần “sáng tạo”: “Cuộc sống buộc ta phải sáng tạo. Không sáng tạo thì mất nước, mất cả nòi giống nữa. Dân tộc Việt Nam sống rất mãnh liệt nên không thể không có óc sáng tạo được”; ví dụ: “chiến tranh nhân dân chống xâm lược là một sáng tạo lớn, một truyền thống lớn của dân tộc Việt Nam, là nơi óc sáng tạo của người Việt Nam được phát triển mạnh mẽ” [Trần Văn Giàu 2011: 314, 340] …
Chính những cái “dụng” như vậy đã góp phần phát huy vai trò của “Chủ nghĩa yêu nước” trong thực tế lịch sử, trực tiếp làm thành những nhân tố tạo nên nội lực đích thực của bản lĩnh dân tộc. Nhưng đó là cái “dụng”, thế còn cái “thể” là gì? Đây là vấn đề lớn sẽ được tiếp tục đề cập ở phần sau.
3. Đạo đức Việt Nam, cái “thể” của chủ nghĩa yêu nước và là nền tảng truyền thống “nhân văn thượng võ” trong nội lực tạo nên bản lĩnh Việt Nam
Nói đến đạo đức là nói đến gốc rễ của mọi tâm thức cũng như mọi cách thế ứng xử của con người, ở đây là thông qua truyền thống chung của dân tộc như “nhân văn thượng võ”, “chủ nghĩa nghĩa yêu nước”, v.v. Bằng cái nhìn khái quát nhất, GS. Trần Văn Giàu đã xác định rằng: “Đạo đức là sản phẩm của xã hội, của lịch sử loài người, lịch sử xã hội càng phát triển thì đạo đức theo đó mà biến chuyển…”. Cụ thể hơn, liên hệ thực tế lịch sử dân tộc, GS. khẳng định: “Yếu tố chính quyết định nội dung và bản sắc của đạo đức truyền thống chính là cuộc sinh tồn lịch sử của dân tộc Việt Nam chớ không phải cái gì khác” [Trần Văn Giàu 2011: 104, 155].
Với tư cách là những “đạo lý sống” và “thái độ sống” của con người và cộng đồng trong lịch sử, đạo đức Việt Nam thể hiện đầy đủ nhất bản lĩnh văn hóa dân tộc, bao gồm cả phần “đời” lẫn phần “đạo”, tức liên quan tất cả những gì như đã đề cập ở các phần trên. Như cố thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng có nhận xét: “Nguyễn Trãi, mà cốt lõi là tư tưởng Nhân – Nghĩa là một học thuyết hoàn chỉnh được trình bày trong toàn bộ tác phẩm của Nguyễn Trãi; cơ bản nó rất xa lạ với Nho giáo và Khổng Tử, gắn liền với sự nghiệp cứu nước cứu dân của nhân dân ta đầu thế kỷ XV” [Phạm Văn Đồng 2009: 257], GS. Trần Văn Giàu khi nói về những nguồn nội lực đã góp phần tạo ra bản lĩnh Việt Nam ở khía cạnh “Việt Nam hóa những tôn giáo đã được du nhập” chẳng hạn, đã có những lý giải mang tính chất gợi mở nhiều vấn đề rất đáng chú ý:
- “Suốt một vài nghìn năm tồn tại phổ biến trên đất nước ta, Phật giáo tất đã phải in dấu khá sâu sắc vào văn hóa dân tộc, phong tục nhân dân, đức tính con người, nghĩa là đến các giá trị tinh thần truyền thống” theo tinh thần: “Sự phát triển của Phật giáo trong lịch sử… đã góp phần đào luyện thêm tư tưởng thương người dưới hình thức cứu khổ, từ bi”; bằng chứng là “Thiền Trúc Lâm Việt Nam mang cái đặc điểm sâu sắc là không tách rời với tinh thần yêu nước” [Trần Văn Giàu 2011: 124-125].
- Trong lúc đó, “bởi vì Nho giáo chủ trương nhập thế rất mạnh, xem việc tề gia trị quốc là việc của nhà nho, cho nên nó phải tổng kết những kinh nghiệm sinh hoạt xã hội, do đó phần đóng góp của nó còn đa diện hơn so với đóng góp của Phật giáo” [Trần Văn Giàu 2011: 132].
- Ngược lại, mặc dù “Lịch sử Thiên chúa giáo ở Đông Nam Á gắn liền với lịch sử của chủ nghĩa thực dân” nhưng tinh thần “kính Chúa yêu nước” cuối cùng cũng đã mở đường “tìm về dân tộc” và “Đạo đức Thiên chúa giáo, triết học nhân bản Thiên chúa giáo đã có và ngày càng có khả năng đóng góp làm phong phú thêm bản chất Việt Nam” [Trần Văn Giàu 2011: 135]…
Sâu sắc hơn nữa, GS. Trần Văn Giàu còn đưa ra một luận điểm: “Một số người Pháp nhận xét rằng người Việt Nam “không có tâm hồn tôn giáo sâu sắc”, cái không có ấy, ngẫm lại có gì là dở đâu?” [Trần Văn Giàu 2011: 132]. Luận điểm này có thể giúp chúng ta tìm ra thêm một nhận thức mới: cái “Đức” lớn nhất của người Việt Nam là luôn chân thành đi tìm “Đạo” và “Đạo Đức” cao nhất của dân tộc Việt Nam là vì những Chân Lý, vì Nghĩa Lớn và vì những cái Cao Đẹp, tức những giá trị văn hóa theo nghĩa toàn vẹn, chân chính nhất! Dựa trên tư tưởng qua tác phẩm của GS. Trần Văn Giàu, người ta có thể nêu lên vài nét dẫn chứng cụ thể:
- Khả năng thẩm mỹ nói riêng, trình độ văn hóa (gồm cả văn hóa đạo đức) nói chung của dân tộc thể hiện ở năng lực cân đối hài hòa các giá trị văn hóa tiếp thu từ nhiều phía qua nhiều giai đoạn mà ở đây có thể khái quát đó là: “hài hòa giữa kiến trúc và phong cảnh, giữa người và thiên nhiên, hài hòa giữa trí tuệ, tình cảm và đạo đức, hài hòa giữa xưa và nay, truyền thống và cách mạng, thống nhất và đa dạng, dân tộc và quốc tế… ” [Trần Văn Giàu 2011: 335].
- Nhân cách con người Việt Nam thể hiện rõ nét bản lĩnh dân tộc được hình thành rất sớm từ xa xưa cho đến nay qua hình tượng / biểu tượng “Gióng là vũ dũng phi thường kết hợp với đạo đức cũng phi thường, vì nước, vì dân, vì chính nghĩa, hoàn toàn không kể tới lợi ích riêng tư, không tính tới khen thưởng, danh vọng sau cuộc chiến thắng vẻ vang” [Trần Văn Giàu 2011: 337], v.v.
Nhận thức qua một số tác phẩm của GS. Trần Văn Giàu kết hợp các nguồn tư liệu khác nhau, chúng ta thấy rằng “Bản lĩnh Việt Nam” không chỉ là những gì được trải nghiệm / tích lũy từ thực tế lịch sử với những chặng đường khác nhau mà hơn nữa đó còn là hệ giá trị tinh thần tạo nên nguồn nội lực khởi từ truyền thống chung của văn hóa dân tộc... Tất cả rất có ý nghĩa đối với nhận thức chúng ta về hệ giá trị chung của dân tộc cũng như về việc phát huy “Bản lĩnh Việt Nam” và hệ giá trị Việt Nam trong thời đại mới, đặc biệt đối với việc góp phần xây dựng con người theo định hướng văn hóa và văn hóa phải thật sự trở thành là “nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực và nguồn lực nội sinh quan trọng của sự phát triển bền vững” [Đảng CSVN 2014] đất nước cho giai đoạn hiện nay.
Tài liệu tham khảo và trích dẫn
1. Chương Thâu 1980: Trên đường tìm hiều sự nghiệp thơ văn Nguyễn Trãi (Tiểu luận), NXB Văn học, Hà Nội,
2. Đảng CSVN 2014: Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9 BCH Trung ương (khóa XI).
3. Hoàng Minh Thảo 1985: Tìm hiểu tổ tiên ta đánh giặc (in lần thứ ba). – H.: NXB Quân đội nhân dân.
4. Hồng Nam & Hồng Lĩnh (cb) 1984: Những trang sử vẻ vang của dân tộc Việt Nam chống phong kiến Trung Quốc xâm lược. – H.: NXB Khoa học xã hội.
5. Huỳnh Quốc Thắng - Huỳnh Tuấn Kiệt 2013: Võ đạo Việt Nam với Luân thường Nho giáo (Trường hợp võ phái Nam Huỳnh Đạo), Kỷ yếu hội thảo quốc tế “Luân thường Nho giáo từ góc nhìn xuyên văn hóa”, Đại học KHXHNV, ĐHQGTPHCM, trang 726 – 732.
6. Huỳnh Quốc Thắng - Huỳnh Tuấn Kiệt 2014: Truyền thống “Nhân văn Thượng võ” Việt Nam trong văn hóa Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh. – In trong kỷ yếu Hội thảo: Bản sắc dân tộc trong đời sống văn hóa, nghệ thuật Thành phố Hồ Chí Minh quá trình hội nhập quốc tế hiện nay; Ban Tuyên giáo Thành ủy – Hội đồng Lý luận - Phê bình Văn học, Nghệ thuật TP. Hồ Chí Minh; NXB Văn hóa - Văn nghệ TPHCM.
7. Lê Xuân Vũ 1984: Chủ nghĩa nhân đạo của chúng ta. – H.: NXB Sự Thật.
8. Nhiều tác giả 2012: Trần Văn Giàu - dấu ấn trăm năm. – H.: NXB Trẻ.
9. Phạm Văn Đồng 2009: Tuyển tập 1976-2000, tập III. – H.: NXB Chính trị Quốc gia.
10. Trần Văn Giàu 1993: Sự phát triển của tư tưởng Việt Nam. - NXB TP.HCM.
11. Trần Văn Giàu 2004: Bản lĩnh Việt Nam. – Báo Sài Gòn giải phóng, số chủ nhật, ngày 18-7.
12. Trần Văn Giàu 2011: Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam. – H.: NXB Chính trị Quốc gia - Sự Thật.
13. Trần Xuân Trường 1981: Mấy vấn đề về chủ nghĩa yêu nước xã hội chủ nghiã ở Việt Nam. – H.: NXB Quân đội nhân dân.
14. Trường Lưu 1996: Chủ nghĩa nhân văn và văn hóa dân tộc. – H.: NXB Văn hóa - Thông tin.
Nguồn: Bài viết tham gia hội thảo “Hệ giá trị Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế”. Kỷ yếu hội thảo in thành sách “Một số vấn đề về hệ giá trị Việt Nam trong giai đoạn hiện tại”