1. Tín ngưỡng
Tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng là hai vấn đề đã và đang được nhiều nhà khoa học nghiên cứu và lý giải. Ở Việt
Ở nước ta hiện nay, thuật ngữ tín ngưỡng có thể hiểu theo hai nghĩa. Khi nói tự do tín ngưỡng, chúng ta có thể hiểu đó là tự do về ý thức hay tự do về tín ngưỡng tôn giáo. Nếu hiểu tín ngưỡng là ý thức thì tín ngưỡng bao trùm trên tôn giáo, là một bộ phận chủ yếu nhất cấu thành tôn giáo. Không có tín ngưỡng sẽ không có tôn giáo. Trong chỉ thị của Bộ Chính trị về công tác tôn giáo ở nước ta, cụm từ “tín ngưỡng tôn giáo không phân biệt hai phạm trù tín ngưỡng và tôn giáo” [Đặng Nghiêm Vạn 2001: 68].
Tuy nhiên, Từ điển tiếng Việt định nghĩa tín ngưỡng là: “lòng tin và sự tôn thờ một tôn giáo” [Nguyễn Như Ý (chủ biên) 2004: 1646], tức là tín ngưỡng chỉ tồn tại trong một tôn giáo.
Theo giải thích của Đào Duy Anh, tín ngưỡng là: “lòng ngưỡng mộ, mê tín đối với một tôn giáo hoặc một chủ nghĩa” [Đào Duy Anh 1957: 283].
Ngô Đức Thịnh đưa ra quan điểm rõ ràng hơn: “Tín ngưỡng được hiểu là niềm tin của con người vào cái gì đó thiêng liêng, cao cả, siêu nhiên, hay nói gọn lại là niềm tin, ngưỡng vọng vào “cái thiêng”, đối lập với cái “trần tục”, hiện hữu mà ta có thể sờ mó, quan sát được. Có nhiều loại niềm tin, nhưng ở đây là niềm tin của tín ngưỡng là niềm tin vào “cái thiêng”. Do vậy, niềm tin vào cái thiêng thuộc về bản chất của con người, nó là nhân tố cơ bản tạo nên đời sống tâm linh của con người, cũng như giống đời sống vật chất, đời sống xã hội tinh thần, tư tưởng, đời sống tình cảm...” [Ngô Đức Thịnh 2001: 16].
Trần Ngọc Thêm cho rằng, tín ngưỡng được đặt trong văn hóa tổ chức đời sống cá nhân: “Tổ chức đời sống cá nhân là bộ phận thứ hai trong văn hóa tổ chức cộng đồng. Đời sống mỗi cá nhân trong cộng đồng được tổ chức theo những tập tục được lan truyền từ đời này sang đời khác (phong tục). Khi đời sống và trình độ hiểu biết còn thấp, họ tin tưởng và ngưỡng mộ vào những thần thánh do họ tưởng tượng ra (tín ngưỡng). Tín ngưỡng cũng là một hình thức tổ chức đời sống cá nhân rất quan trọng. Từ tự phát lên tự giác theo con đường quy phạm hóa thành giáo lý, có giáo chủ, thánh đường… tín ngưỡng trở thành tôn giáo. Ở xã hội Việt
Ở phương Tây, phổ biến thuật ngữ tôn giáo bình dân (popular religion). Thuật ngữ đó có thể hiểu tôn giáo theo lối bình dân, nghĩa là theo tập quán, theo dư luận hoặc bị cuốn hút vào các nghi lễ, chứ không theo lối chính thống chủ yếu xuất phát từ việc nghiên cứu giáo lý, suy tư rồi giác ngộ mà theo. Hoặc cũng có thể hiểu là các hình thức tôn giáo dân tộc được lưu truyền từ xa xưa, gần gũi với cộng đồng như các lễ hội, các cuộc hành hương, các ngày lễ với những rước xách, nhảy múa, thậm chí các hình thức bói toán, tướng số… Ở đó cả tầng lớp trí thức, mặc dù ít tin theo nhưng vẫn tham gia. Ở những lễ hội, đám rước… đó vẫn đa phần lớp bình dân, ở nông thôn hưởng ứng, theo một truyền thống đã có từ lâu trong dân tộc. Niềm tin tôn giáo hay tín ngưỡng biểu hiện ở những nền văn hóa khác nhau và rất đa dạng.
Trong công trình nổi tiếng Văn hóa nguyên thủy, Tylor E. B cho rằng: “Cần đặc biệt chú ý là những tín ngưỡng và tập quán khác nhau đều có những nền tảng vững chắc trong thuyết vật linh nguyên thủy, như thể chúng đã thực sự mọc lên từ đó. Trong thuyết vật linh phức tạp, chúng trở thành sản phẩm của sự ngu dốt hơn là của nhà triết học và tồn tại như những tàn tích của cái cũ hơn là những sản phẩm của đời sau, khi chuyển từ sức sống đầy đủ sang trạng thái tàn tích” [Tylor E.B 2001: 939].
Trong công trình Ma thuật khoa học và tôn giáo, Malinowski cho rằng: tín ngưỡng ra đời khi mà cuộc sống của con người có nhiều sự trở ngại và bất trắc. Cụ thể hơn, ông đưa ra một ví dụ về sự tồn tại của ma thuật (tín ngưỡng) ở nghề đánh cá: “Vấn đề quan trọng nhất là ở chỗ đối với việc đánh bắt cá ở phá, khi con người hoàn toàn dựa vào kiến thức và kĩ năng của mình, ma thuật không tồn tại; trong khi đối với việc đánh bắt cá ngoài khơi, đầy nguy hiểm và bất trắc, người ta sử dụng một hệ thống nghi lễ ma thuật với phạm vi rộng lớn để đảm bảo an toàn và kết quả cao” [Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam 2006: 159].
Trong công trình Cành vàng, George James Frazer cho rằng: “Tôn giáo là việc cầu phúc hay là việc hòa giải những thế lực cao cấp hơn con người, những thế lực này, như người ta nghĩ, chỉ huy và điều hành dòng chảy của tự nhiên và đời sống con người. Tôn giáo được định nghĩa như vậy bao gồm hai thành tố, một mang tính lý thuyết và một mang tính thực hành; biết rằng đó là một tín điều vào những thế lực cao cấp hơn con người và một cố gắng để làm cho những thế lực đó trở thành thế lực bảo hộ hay để làm vừa lòng những thế lực ấy. Rõ ràng là tín ngưỡng đến đầu tiên, bởi lẽ chúng ta buộc phải tin vào sự tồn tại của thần thánh trước khi cố gắng làm vừa lòng những thế lực ấy. Nhưng, nếu như tín ngưỡng không dẫn đến việc thực hành tương ứng với nó thì đó không còn là một tôn giáo mà chỉ đơn giản là thần học. Theo câu nói của thánh Jacques, “lòng tin mà không có những hành động chỉ là lòng tin chết bởi lẽ nó cô độc” [George James Frazer 2007: 94].
S.A. Tokarev, nhà nghiên cứu tôn giáo nổi tiếng của Nga cho biết: “Mặc dù bác bỏ luận thuyết về sự phát triển nội tại của tôn giáo, chúng tôi vẫn không bao giờ phủ định sự tồn tại của những mối liên hệ nguồn gốc giữa các tín ngưỡng. Chúng ta đã thấy rõ những tín ngưỡng đó có tính bảo thủ đến mức nào. Bất kỳ một tín ngưỡng nào đã bắt rễ vững chắc cũng đều tồn tại trong nhân dân rất lâu bền, thậm chí tồn tại ngay cả lúc những điều kiện sản sinh ra nó đã thay đổi” (chúng tôi nhấn mạnh) [S.A.Tocarev 1994: 55]. Theo ông, các hình thức tôn giáo sơ khai là: tô tem giáo, bùa mã và lễ ám hại, chữa bệnh bằng phù phép, lễ dục tình, ma chay, lễ thành niên, sự thờ cúng của nghề săn bắt, sự thờ cúng của thị tộc mẫu hệ, sự thờ cúng tổ tiên, Shaman giáo, Naguan giáo, sùng bái hội kín, thờ cúng thủ lĩnh, thờ thần bộ lạc, thờ thần nông.
Như vậy, ở phương Tây, các nhà nghiên cứu thường dùng khái niệm tôn giáo bao hàm cả các tôn giáo có hệ thống và tổ chức, tôn giáo dân gian và tôn giáo nguyên thủy. Do vậy, theo họ, tín ngưỡng là bộ phận quan trọng của tôn giáo, nằm trong khái niệm tôn giáo, là cơ sở hình thành tôn giáo. Tuy nhiên, niềm tin vào cái thiêng đó, cũng theo hoàn cảnh và trình độ phát triển kinh tế - xã hội của mỗi dân tộc, địa phương, quốc gia mà thể hiện ra dưới các hình thức tín ngưỡng và tôn giáo cụ thể khác nhau như: tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, tín ngưỡng thờ Thành hoàng, tín ngưỡng thờ mẫu, tín ngưỡng sùng bái tự nhiên…
Các hình thức tín ngưỡng mang đặc thù theo từng không gian văn hóa, chủ thể văn hóa cũng như thời gian văn hóa khác nhau nhưng vẫn là biểu hiện niềm tin vào cái thiêng, sự ngưỡng mộ và sùng bái của con người. Do vậy, tín ngưỡng là một hiện tượng văn hóa mang tính lịch sử, một phạm trù lịch sử.
Hiện nay, có cách hiểu về tín ngưỡng họ cho rằng: tín ngưỡng có trình độ phát triển thấp hơn so với tôn giáo về mặt tổ chức, thiết chế, giáo chủ… Bên cạnh đó có những cách suy nghĩ cho rằng tôn giáo và tín ngưỡng đồng nhất và gọi chung là tôn giáo, đồng thời có sự phân biệt giữa tôn giáo dân tộc, tôn giáo quốc tế, tôn giáo vùng miền. Chúng tôi không đi sâu vào sự khác biệt giữa tín ngưỡng và tôn giáo, mà chủ yếu kế thừa các quan điểm nghiên cứu về tín ngưỡng của các nhà khoa học đi trước để tìm kiếm các giá trị văn hóa của tín ngưỡng mà thôi: “Dù hiểu trên góc độ nào, tín ngưỡng - tôn giáo vẫn là một hình thái ý thức xã hội, cũng là một nhu cầu của xã hội. Và một khi những nhu cầu ấy chưa được những hình thái khác của ý thức xã hội hoàn toàn thỏa mãn thì đối với một số tầng lớp xã hội, tín ngưỡng - tôn giáo vẫn là nguồn gốc của giá trị đạo đức, niềm an ủi, sự nâng đỡ về tâm lý” [Nguyễn Hữu Thông 2001: 12]. Hoặc nói theo Tổ chức Văn hóa, Khoa học và Giáo dục Liên hợp quốc (UNESCO): “Mỗi dân tộc, mỗi quốc gia cần có tự hào về quá khứ của mình để bảo vệ và phát triển văn hóa của mình vào kho tàng văn hóa nhân loại. Sự đa dạng trong tín ngưỡng, tức niềm tin tín ngưỡng, biểu hiện rất khác nhau, xuyên qua không gian và thời gian, phụ thuộc hoàn cảnh địa lý - lịch sử của từng quốc gia, từng dân tộc” [dẫn theo Đặng Nghiêm Vạn 2001: 71]. Theo quan điểm của người viết, thì tín ngưỡng được hiểu như sau: Tín ngưỡng là hệ thống những niềm tin và cách thức biểu lộ đức tin của con người đối với những hiện tượng tự nhiên hay xã hội; nhân vật lịch sử hay huyền thoại có liên quan đến cuộc sống của họ nhằm cầu mong sự che chở, giúp đỡ từ những đối tượng siêu hình mà người ta thờ phụng.
2. Văn hóa tín ngưỡng
Dưới góc nhìn văn hóa, tín ngưỡng chứa đựng những giá trị thiêng liêng và nhạy cảm đối với đời sống văn hoá tinh thần của con người. Hiện nay, ngoài khái niệm tín ngưỡng nói chung và tín ngưỡng thờ mẫu nói riêng, được nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Ngô Đức Thịnh đề cập nhiều trong các công trình như: Tín ngưỡng và văn hoá tín ngưỡng ở Việt Nam Ngô Đức Thịnh 2001 (chủ biên), bài viết Các dạng thức văn hoá ở Việt Nam (2006), công trìnhTtín ngưỡng lễ hội cổ truyền (2007)… Trong các công trình kể trên, ông cũng chưa đưa ra một khái niệm cụ thể nào mà mới chỉ dừng lại ở những vấn đề chung chung về văn hoá tín ngưỡng mà thôi. Trong bài viết về Các dạng thức văn hoá ở Việt Nam, ông cho rằng: “Tương ứng với các cộng đồng tôn giáo tín ngưỡng như Phật giáo, Kitô giáo, Hồi giáo, Nho giáo, đạo Mẫu… đều có các dạng thức văn hoá tương ứng: văn hoá Phật giáo, văn hoá Kitô giáo, văn hoá Nho giáo, văn hoá Hồi giáo, văn hoá đạo Mẫu… Bản thân các tôn giáo tín ngưỡng đã là một hình thức văn hoá đặc thù. Đấy là chưa kể, trong quá trình hình thành và phát triển, mỗi tôn giáo tín ngưỡng bao giờ cũng sản sinh, tích hợp trong nó những hiện tượng, những sinh hoạt văn hoá nghệ thuật” [Ngô Đức Thịnh 2006: 28].
Tín ngưỡng chính là môi trường sản sinh, tích hợp và bảo tồn nhiều sinh hoạt văn hoá dân gian. Con người muốn chuyển đạt nguyện vọng của mình lên thần linh thì phải cần có các công cụ, phương tiện như: múa hát, tượng thờ, nghi lễ, phẩm vật, nơi thờ cúng… Ngô Đức Thịnh đã đưa một ví dụ điển hình: “Từ nhân lõi tôn giáo tín ngưỡng này, đạo Mẫu đã sản sinh và tích hợp nhiều yếu tố, giá trị văn hoá: văn học đạo Mẫu, diễn xướng đạo Mẫu (âm nhạc, múa, hát chầu văn, sân khấu), kiến trúc và nghệ thuật trang trí, lễ hội và sinh hoạt cộng đồng gắn với đạo Mẫu” [Ngô Đức Thịnh 2001: 765].
Văn hoá tín ngưỡng chính là sự gắn kết từ một hình thức tín ngưỡng nào đó, rồi tích hợp các giá trị văn hoá khác như: di tích, lễ hội, truyền thuyết, diễn xướng nghệ thuật… có liên quan. Tín ngưỡng mang tính nguyên hợp chính là sự tích hợp nhiều giá trị văn hoá vật thể và phi vật thể cùng tồn tại như một tổng thể văn hoá. Tính nguyên hợp là một đặc trưng cơ bản của văn hóa dân gian, dùng để nói một hiện tượng văn hóa không chỉ tồn tại riêng biệt, đơn lẻ mà còn tồn tại và tích hợp các hiện tượng văn hóa khác vào xung quanh như một tổng thể.
Điều này đã được Ngô Đức Thịnh giải thích và đưa ví dụ cụ thể ở trên. Patrick B. Mullen có ý kiến tương tự: “Tín ngưỡng dân gian không chỉ tồn tại ở dạng trừu tượng mà nó còn tồn tại trong thực tiễn và các ứng xử thực tế. Xin nhắc lại, văn hoá dân gian không chỉ là sự phản ánh một thế giới quan văn hoá trừu tượng, mà nó còn tồn tại trong cuộc sống hằng ngày như là một phương tiện sáng tạo văn hoá” [Ngô Đức Thịnh - Frank Proschan 2005a: 280].
Dựa vào cách tiếp cận của những nhà nghiên cứu đi trước, chúng tôi đưa ra quan niệm của mình về văn hóa tín ngưỡng như sau: Văn hóa tín ngưỡng là hệ thống giá trị về những phương cách ứng xử của con người đối với thế giới siêu nhiên hay xã hội có liên quan đến đời sống của mình. Những phương cách ứng xử đó phản ánh các điều kiện vật chất và tinh thần tương ứng với môi trường tự nhiên và xã hội của một cộng đồng cư dân.
Như vậy, văn hóa tín ngưỡng sẽ được tiếp cận từ những giá trị văn hóa vật thể, văn hóa phi vật thể thông qua các cơ sở thờ tự, nghi thức thờ cúng, các giai thoại dân gian, địa danh và lễ hội có liên quan đến các hình thái tín ngưỡng của người Việt: tín ngưỡng sùng bái tự nhiên; tín ngưỡng sùng bái con người; tín ngưỡng phồn thực; tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt...
Tài liệu tham khảo:
1. Đặng Nghiêm Vạn 2001: Lý luận về tôn giáo và tình hình tôn giáo ở Việt
2. Đào Duy Anh 1957: Việt
3. Ngô Đức Thịnh (chủ biên) 2001. Tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng ở Việt
4. Nguyễn Hữu Thông 2001: Tín ngưỡng thờ Mẫu ở Miền Trung Việt
5. Trần Ngọc Thêm 1998: Cơ sở văn hóa Việt
6. George James Frazer 2007: Cành vàng (Người dịch Ngô Lâm Bình). - HN: Nxb Văn hóa Thông tin.
7. S.A.Tocarev 1994: Các hình thức tôn giáo sơ khai và sự phát triển của chúng (Người dịch: Lê Thế Thép). - Hà Nội: Nxb Chính trị Quốc gia.
8. Tylor E.B. 2000: Văn hóa nguyên thuỷ. - HN: Nxb Văn hóa Dân tộc.
9. Nguyễn Như Ý (chủ biên) 2004: Đại từ điển tiếng Việt. - HN: Nxb Văn hóa thông tin.
Nguồn: cdk.edu.vn