Khánh Hòa nằm nơi dãy Nam Trường Sơn nên có các sông chảy ngang, dốc và ngắn, đổ ào xuống biển với đồng bằng nhỏ hẹp tạo thế đan xen núi rừng, biển đảo, sông, ruộng, đầm, vịnh. Vùng biển đảo Khánh Hòa tính từ vịnh Đại Lãnh, qua Vân Phong, Nha Phu, cụm đảo Bích Đầm, vịnh Cam Ranh, Thủy Triều, đảo Bình Ba, vươn xa ra biển Đông ngút tầm đến quần đảo Trường Sa với bờ biển dặm dài trên 300 km. Nhìn toàn cảnh, Khánh Hòa như hòn non bộ của thiên nhiên ban tặng. Chẳng thế mà bãi biển Đại Lãnh được nhà Nguyễn cho tạc vào Cửu Đỉnh đặt nơi Thế Miếu (Huế) để nói về non sống gấm vóc Việt Nam.
Điều kiện địa lý tự nhiên, lịch sử, xã hội đã làm cho nơi đây mang đậm dấu ấn văn hóa biển khu vực duyên hải Nam Trung Bộ với đời sống tâm linh, tín ngưỡng, tôn giáo và các trò diễn xướng dân gian.
Với dòng hải lưu giàu thức ăn, cùng với bóng núi, ghềnh, cá tập trung tháng giêng mùa cá lên, tháng tư mùa cá lại, nên nghề lưới đăng ở Khánh Hòa ra đời một cách độc đáo. Nghề đánh cá lưới cản đường dài, cùng các nghề làm muối, nước mắm, đóng tàu, đan lưới…là những nghề có tiếng ở địa phương.
Với rừng một bên, biển một bên, hai sản phẩm quý hiếm là trầm hương và yến sào đã trở thành biểu tượng cho Khánh Hòa. Những hòn đảo có yến làm tổ đã tạo nên một nền kinh tế, văn hóa mang đậm dấu ấn của một vùng quê đầy nắng và gió:
Khánh Hòa là xứ trầm hương
Non cao biển rộng người thương đi về
Yến sào ngon ngọt tình quê
Sông sâu đá tạc lời thề nước non.
Vào rằm tháng giêng, Khánh Hòa rộn ràng tiếng trống chầu hò bá trạo và hát bộ của các vạn lạch vào hội tế lăng - đình theo tục thờ cá Voi - Thành Hoàng làng.
Trên tháp Ponaga ở vùng cửa biển Cù Huân, vào những ngày 23/3 âm lịch hàng năm, đông đảo khách thập phương đổ về để dự lễ vía bà Thiên Y A Na Thánh Mẫu và xem hát chầu văn hầu đồng múa bóng. Tiếng trống chầu hát bộ cứ rộn rã suốt mấy ngày đêm đã trở thành những hoài niệm khó phai, hằn sâu trong nỗi nhớ của những người con xứ biển khi phải xa quê:
Ai về xóm bóng quê nhà
Hỏi thăm điệu múa dâng bà còn không?
Để mong mưa nắng thuận hòa, cây cối tốt tươi, lúa bội thu, diêm nghiệp vào mùa trắng hạt muối, thuyền ra khơi có đi, có về, khoang đầy ắp cá, các cư dân Khánh Hòa đã làm lễ kỳ an tá thổ hát đàn xà trảm mộc (thuê đất, cầu an, hát tích tuồng chém mộc - xà tinh).
Tục thờ mẫu Thiên Y A Na, tế lăng, cúng đình, cùng các trò diễn xướng trải khắp các khu vực cư dân ngư nghiệp. Lễ hội kéo dài từ tháng giêng đến hết tháng 10, nhưng tập trung vào tháng 2 đến tháng 5 âm lịch. Ngoài ra, còn có lễ hội chùa Vàng ở Lương Sơn, lễ Phật Đản, lễ Vu Lan ở các chùa, lễ tế mẹ Thái Dương 11/5 âm lịch (nữ thần Mặt Trời) ở đảo Yến, Trí Nguyên, cùng hàng loạt các lễ tế đình làng biển.
Như vậy, xuân thu nhị kỳ, năm đôi mùa vui tế lễ, tạo nét sinh hoạt làng biển, Khánh Hòa thể hiện đời sống kinh tế, văn hóa tâm linh, tín ngưỡng, tôn giáo phong phú, đa dạng,. Đây là điều kiện tốt cho các sinh hoạt văn hóa, trò diễn dân gian nảy sinh và phát triển. Chính vì vậy, để phục vụ cho công việc phát triển kinh tế-văn hóa xã hội Khánh Hòa trong giai đoạn hiện nay, công tác sưu tầm, nghiên cứu, quảng bá những giá trị nghệ thuật diễn xướng dân gian vùng biển đảo là việc làm cấp thiết.
Nhằm phục vụ cuộc mưu sinh trên biển, ngư dân Khánh Hòa đã có tục thờ cúng ngư phủ. Tục thờ cúng ngư phủ Khánh Hòa là sự tiếp biến giữa hai dòng văn hóa Việt – Chăm ở vùng đất này. Đó là sự kết hợp việc thờ Thành Hoàng, thờ Mẫu, tín ngưỡng phồn thực của cư dân nông nghiệp người Việt đồng bằng Bắc Bộ với tục thờ mẹ Xứ sở, với các linga, yoni, tục thờ cá voi của người Chăm. Nên cạnh ngôi đình là lăng thờ cá voi cùng các tục thờ tổ nghề khác, hình ảnh mẹ Xứ sở có ảnh hưởng sâu sắc trong đời sống tâm linh của các ngư dân Khánh Hòa.
Các ngành nghề như: lưới đăng, lưới cản đường dài (đánh bắt ở quần đảo Trường Sa, Hoàng Sa), nghề câu chạy, câu thẹo, nghề lưới mành, nghề yến sào… biểu hiện tục thờ ngư phủ thông qua việc thờ bà Thái Dương, đặc biệt là tục thờ bà Chúa Đảo và Lỗ Lường. Theo nhà nghiên cứu Lê Quang Nghiêm: “Ảnh hưởng phong tục Chiêm Thành, sở đầm Hòn Nhàn (Cam Lâm) thờ bà chúa Đảo và Lỗ Lường. Tại gành đảo hang Lỗ Lường như Hòn Đỏ (Ninh Hòa), họ chọn một tảng đá có kẽ nứt, tượng trưng âm hộ làm lỗ lường và đẽo gọt bộ đồ dương vật làm bằng cây sơn đỏ”. Nếu ở chỗ không có kẽ đá thì: “Họ đẽo cây làm “bộ đồ” (dương vật) và miếng ván hình 3 góc khoét một lỗ ở giữa (âm hộ) và một bài vị viết bằng chữ Nho tên Dương Thị Đĩ Nương Nương (Bà Lường) để tại miếu nhỏ trong hang đá gần chỗ đóng lưới”[Lê Quang Nghiêm 2006: 412].
Lễ cầu ngư ở Khánh Hòa là lễ hội tưng bừng của ngư dân miền biển với tất cả những niềm kính tín của nó. Ngư dân cùng các ngành nghề trong vạn lạch, sống nhờ nguồn thu từ biển đều đứng ra tế lễ. Xin trích nguyên lời văn tế Ông Nam Hải ở phường Vĩnh Nguyên: “Các bậc hào lão, nhân dân, nam nữ lớn bé phường Vĩnh Nguyên kính cẩn dâng lên Nam Hải Cự Tộc Ngọc Lân, Hộ Quốc Tý Dân, Nhẩm Trức Linh Ứng, Dực Bảo Trung Hưng Thượng Đẳng Thần. Động đình thủy phủ... Thiên Y A Na Diễn Ngọc Phi Thượng Đẳng Thần…Thành Hoàng tôn thần…nhân dịp giỗ luôn các vị Tiền Hiền khai khẩn, Hậu Hiền khai khẩn”. Ngoài tế ông Nam Hải còn có tế đình, tế bà Thiên Y A Na”. Vật cúng thờ bao gồm: “Sinh tư, hoa quả, hương đăng, kim ngân, thanh trước tiền bạc, vàng cùng các lễ vật khác…nhân ngày kỵ lễ bạc lòng thành, hiến tửu ba tuần, xướng ca một tiệc”. Ngoài vật phẩm ra, lễ cầu ngư ở Khánh Hòa còn có ca hát. Như vậy, tín ngưỡng thờ thần có kèm theo trò diễn xướng. Lễ cầu ngư ở Khánh Hòa được tổ chức nhằm ngợi ca công đức của các vị thần: “Trời đất núi sông hun đúc, tinh anh Nam Bắc phụng thờ, ơn trên lồng lộng biển Bắc sóng yên. Đức thánh chan hòa nguồn Đông giá lặng. Tinh anh như ở bên lòng thành cảm cách. Trai khiến tế thờ trên trước, phước tới trăm điều”... Đồng thời, còn là mục đich cầu an: “Khỏi cảnh leo cây kiếm cá, già trẻ vui mừng. Thỏa lòng vượt biển ra khơi ngư nghề giàu có. Thuyền lưới cá nhiều. Ấm no lớn nhỏ. Muôn dân an lạc, thái bình âu ca”.
Lễ cầu ngư ở Khánh Hòa diễn ra trong không gian lăng, đình. Khu vực biển đảo Khánh Hòa còn 31 lăng và gần 100 đình. Riêng Nha Trang 7 lăng và hơn 30 đình. Mật độ đình và lăng ở đây được xem là dày nhất các tỉnh phía Nam.
Đình được chọn và xây trong cuộc đất giữa vạn lạch. Còn lăng thì người ta thường chọn nơi địa thế cao, có nơi lưng dựa núi, quay ra hướng biển, có tường bao quanh, xây dựng như một quần thể. Tháp thờ Bà của người Chăm chỉ để các thầy tế tự, hành lễ nên chật hẹp. Còn lăng thờ Ông lại là nơi sinh hoạt văn hóa đông người, vì vậy, cần phải rộng và thoáng.
Kết cấu lăng gồm chánh điện chứa quách đựng xương cá Ông. Trong trường hợp có nhiều cá Ông lụy cùng một lúc, mỗi lăng có thể có nhiều quách. Chẳng hạn như trương hợp ở thôn Nhiễu Giang, xã Ninh Tịnh, huyện Ninh Hòa. Quách có: quách Ông (cá đực già), quách Bà (cá cái già), quách Cô (cá cái nhỏ), quách Cậu (cá đực nhỏ). Hai bên tả hữu chánh điện thờ bà Vạn Lạch, Mẫu Thiên Y A Na. Gian lớn thờ Tiền Hiền và các anh hùng liệt sỹ.
Kế tiếp gian chánh điện là gian để đãi khách trong và ngoài vạn lạch ăn uống. Rồi đến gian bếp... Đối diện với chánh điện cách 30 m là võ ca, tức sân khấu để biểu diễn nghệ thuật. Võ ca rộng khoảng 20 - 25 m2, ba mặt tiếp giáp với khán giả nên sân lăng tuy nhỏ song vẫn chứa được hàng nghìn người xem. Sân khấu được trang hoàng lộng lẫy, phía sau là bàn thờ tổ tuồng được lập khi có tế lễ.
Thông lệ, cứ ba năm là một lần tế lễ. Nhưng khi biển “đói”, ngư dân sẽ làm lễ cầu ngư. Trường hợp được mùa cá, ngư dân cũng làm lễ trả ơn Ông. Vì vây, lễ cầu ngư có khi được tổ chức hàng năm.
Người ta thường lấy ngày tế bằng cách chọn ngày Ông lụy (chết), hoặc do hội đồng làng họp chọn ngày nhất định trong năm. Sau đó, họ bầu ban tổ chức, cử ông chánh tế, các tiểu ban như khánh tiết, tài vụ, an ninh, ẩm thực, nghi lễ...
Kinh phí cho lễ tế là do cả vạn lạch tự nguyện góp. Mức đóng góp tùy từng gia đình, tùy từng ngành nghề, tùy từng thuyền lớn, bé mà ban tổ chức ấn định thu sao cho đủ nhu cầu lễ tế. Điều kiện vật chất ấy có được thể hiện tình cảm, niềm tin, lẽ sống tất yếu của cả cộng đồng. Số tiền chi sẽ chia thành các khoản: lễ tế và đãi bà con, tiền chi trả cho đoàn hát bộ. Còn đội bá trạo là do con em trong vạn lạch thể hiện. Trước khi diễn ra lễ hội, ban chánh tế, bồi tế, học trò lễ, bá trạo viên tập tành, tạo không khí rộn ràng vui tươi cho cả xóm.
Quy trình tế lễ được diễn ra như sau. Mở đầu là đám rước sắc phong cá Ông (sắc này do các vua nhà Nguyễn phong). Sắc được để ở miếu thờ riêng hoặc gởi nhà chùa. Trước khi tế, vạn lạch phải rước sắc về lăng. Đi đầu là lân, kiệu, các hào lão, phường bát âm, cờ xí, nam thanh nữ tú. Để thể hiện sự trang nghiêm, cũng như để thông báo cho mọi người rằng vạn lạch làm lễ cầu ngư, cả đoàn sẽ đi dạo quanh vạn lạch. Tiếp đến là lễ nghênh thủy triều có hò bá trạo. Lễ nghinh Ông hò bá trạo chia làm hai phần: trạo nghinh và trạo chầu. Nghinh là rước linh hồn Ông từ cửa biển về điện thờ. Sau đó, trạo chầu thần ở chánh điện.
Ba con tàu đã được chuẩn bị. Tàu lớn gồm đội lân, siêu. Tiếp đến là long đình. Sau long đình là ba cụ (đại diện cho Ông Nam Hải mặc áo xanh đứng giữa, Thành Hoàng làng mặc áo đen, Thiên Y A Na mặc áo tím). Tiếp theo nữa là ban nhạc lễ, chủ yếu trống, kèn, nhị, thanh la. Sau ban nhạc lễ là đội tế nữ quan gồm 8-12 người. Kế đến là đội bá trạo với 2 hàng từ 18-20 người. Đi giữa đội bá trạo là ba nhân vật chính của đội: đi đầu là tổng mũi, tay cầm cặp sanh để ra hiệu lệnh cho các trạo phu; ở giữa là tổng khoang, người tát nước và ra trò; cuối cùng là tổng thương điều khiển con thuyền và ra lệnh cao nhất.
Với nền phông là biển cả và bầu trời xanh ngắt, thuyền lớn đi trước, hai thuyền nhỏ đi sau, hai bên mạn thuyền là những cờ ngũ sắc, phấp phới bay trong nhạc điệu hò bá trạo... Quang cảnh trông vô cùng ngoạn mục. Sau lễ Nghinh Ông và đưa về chánh điện, vạn lạch chuẩn bị làm lễ tế chính. Đoàn trạo sẽ tiếp tục trạo lần nữa và được gọi là trạo chầu.
Nội dung hò bá trạo chia làm ba phần. Phần một sẽ diễn lại cảnh các trạo phu đánh cá trên biển. Phần hai là tả cảnh thuyền gặp giông bão, tính mạng bạn chèo gặp nguy hiểm. Họ cầu mong được Ông cứu giúp. Phần ba, Ông Nam Hải hiển linh đưa trạo phu về nơi an toàn. Họ làm lễ đền ơn đáp nghĩa.
Hò bá trạo trong lễ cầu ngư ở Khánh Hòa chứa đựng sự sùng bái thiên nhiên. Trước sức mạnh của biển cả, thiên nhiên trở nên huyền bí, tính mạng của ngư phủ phụ thuộc nhiều vào điều may rủi. Vì thế, con người trở nên có niềm tin vô hạn vào các bậc thánh thần mới. Đây là yếu tố tinh thần làm cho con người bình tĩnh, đối đầu để vượt qua khó khăn. Rõ ràng, xuất phát từ yêu cầu của lao động và để thỏa mãn nhu cầu về tâm linh, tín ngưỡng, làm giàu thêm đời sống tinh thần, ngư dân đã sáng tạo nên loại hình hò bá trạo. Vì vậy, hò bá trạo chứa đựng giá trị nghệ thuật cao. Đó là câu chuyện hấp dẫn được dẫn dắt từ đầu cho đến cuối theo lối kể bằng các điệu hát, múa. Kết cấu hoàn chỉnh như một vở diễn kịch hát. Kịch bản viết bằng thơ, văn xuôi, văn vần. Nó chứa các làn điệu của tuồng và bài bản dân ca Nam Trung Bộ với ba nhân vật chính: tổng mũi, tổng khoang, tổng lái. Luật thơ và các điệu hát trong hò bả trạo được thể hiện như sau:
Điệu Nói lối: thể biền ngẫu từ 4 đến 7, 9 chữ.
Điệu Hát Nam: thơ lục bát, song thất lục bát.
Điệu Tẩu, Khách: thể song thất, có khi là câu đối.
Bài lý Tát nước: nhịp 1, thể thơ lục bát một câu, dí dỏm, hài hước.
Bài hò Chèo hầu: nhịp 3, thể thơ lục bát, nhẹ nhàng khoan thai, hơi ai.
Bài hò Ới lơ: thể 5 chữ (biền ngẫu), nhịp mạnh, dồn dập.
Bài hò Mái dặm (mái I): thể thơ lục bát, thiết tha, trầm bổng, sự dồn nén về mặt tình cảm trước công ơn ông Nam Hải.
Bài hò Bá trạo: nhịp 3, thể 5 chữ, mạnh mẽ, đan xen giữa nói đếm và hò khoan.
Để tạo tính hấp dẫn, bá trạo đã đưa hát bộ vào nhằm gây tính kịch, tính tự sự trữ tình cuốn hút người xem. Các điệu hò, lý hát theo thể thơ, khúc thức hoàn chỉnh, được đệm một số từ kết nối: “như, mà là, mà nào, à í a, hới lơ là hò hới lơ, hò hố phai, …”.Tuy nó không có nghĩa nhưng lại mang giá trị âm nhạc, quy định giữa điệu này và điệu kia.
Ví dụ 1: Chèo hầu
“Xuân thu mà ngày rộng, chứ tháng dài
Phật trời, mà là trời xui khiến, nào mà có ai, có ai tỏ tường…”
Ví dụ 2: Bài hò Ới lơ:
“Vui đời biển hát là hò hới lơ
Bao la sóng ngàn hới lơ là hò hới lơ”
Giá trị nghệ thuật mà trò diễn đem lại là đã cho khán giả vừa được nghe hát, lại vừa được xem bộ, xem diễn xuất... Sự hài hòa giữa hát, nói và bộ (bộ mang tính động tác hư) như một loại sân khấu và một kịch bản tổng thể, trong đó, diễn viên đóng vai trò trung tâm.
Không gian, thời gian đều mang tính gợi tả, ước lệ cao. Các điệu hát nam cũng như tất cả các bài bản khác đều hát vo. Người giữ nhịp là tổng mũi với cặp sanh trên tay để điều khiển. Vai trò của tổng khoang là kết nối khán giả với trạo phu. Nhân vật hài hước làm cho trò diễn mềm mại, gần gũi, dù đó là lớp trạo chầu thần Nam Hải.
Hết phần trạo chầu là lễ tế chính. Sau lễ tế chính, ông chánh tế trịnh trọng hô lớn: “Nhạc vũ ca công tựu án tiền khởi võ!”.
Hát thứ lễ là tiếp theo phần tế chính, bởi trong văn tế, có ghi rõ câu: “Hiến tửu ba tuần, xướng ca một tiệc”. Đại diện đoàn hát đọc lời cầu chúc vạn lạch và: “tuồng thứ lễ hát dâng thần linh xin phép được bắt đầu”.
Hát bộ trong lễ hội cầu ngư cũng chứa đựng nội dung và nghệ thuật rất cao. Nội dung các vở tuồng thứ lễ thường ngợi ca người anh hùng biết trọng nghĩa nhân, sống thác đều quang minh chính đại.
Các vở tuồng hát về Quan Công trích trong truyện Tam Quốc chí gọi là tuồng Ông. Có ba vở chính: Tam Anh chiến Lữ Bố nói về ba nhân vật Quan Công, Lưu Bị, Trương Phi đánh Lữ Bố.
Vở Trương cổ thành có nội dung: Quan Công bỏ Tào Tháo, trảm lục tướng Tào, phò nhị tẩu về Hà Nam.
Vở Phục Huê Dung đạo, Quan Công bắt được Tào, lại tha Tào vì ân nghĩa xưa.Đây là vở tuồng được hát nhiều nhất. Vì tuồng tích này không chỉ hay, rôm rả mà không đổ máu, chết chóc.
Các nhân vật thiện trong tuồng chịu nhiều lao khổ nhưng kết thúc có hậu. Cuối cùng, họ phải thắng, phải diệt được ác, trừ được gian. Yếu tố có hậu của tuồng tích luôn là tư tưởng chủ đạo.
Giá trị nội dung của hát tuồng thứ lễ là đề cao tư tưởng trung quân, ngợi ca những người anh hùng biết xả thân vì chính nghĩa, giàu lòng nhân ái, nặng nghĩa tình huynh đệ. Quan Công là nhân vật tiêu biểu. Song tại sao lại lấy nhân vật Quan Công mà không phải nhân vật lịch sử nào khác? Sự thực Quan Công đã được Việt hóa hoàn toàn, từ tính cách, đến hành vi, rõ nét nhất là Trương Phi. Nguyên gốc Trương Phi trong Tam Quốc chí lỗ mãng, cục cằn, còn Trương Phi ở Việt Nam tuy nóng tính, song rất nặng tình, nặng nghĩa. Trương Phi ở đây biết khóc chứ không phải như Trương Phi trong Tam Quốc chí. Hơn nữa trong dân gian, Quan Công đã được hiển thánh thì ở đâu cũng được kính thờ, giống như đạo Mẫu ở Khánh Hòa thờ bà Cửu Thiên Huyền Nữ, thờ cả Quan Công, thờ Thiên Y A Na.
Một số lớp cần chú ý: vở Trương cổ thành, lớp Trương Phi xướng rượu là khó nhất, vì ai cũng tưởng Trương Phi nóng tính, bộp chộp khi nghe Quan Công hàng Tào... Nhân vật Trương Phi do người nghệ sĩ Việt Nam sáng tạo sống ngay thẳng, tình cảm. Khi xướng, người nghệ nhân phải cân nhắc từng chữ, khớp với tình và ý thơ.
Vở Tam Anh chiến Lữ Bố khó ở lớp Quan Công chém Văn Sủ, Trương Phi đâm tóc. Quan Công hiên ngang, cầm thanh long đao ở góc độ bao nhiêu để xác định được vị trí của Văn Sủ, rồi bất thần trở ngược lưới đao ấy chém rớt đầu mà không cần nhìn vào mặt đối phương, làm cho đối phương bất thần không kịp né tránh. Đây là lớp tuồng không lời, chỉ diễn xuất và vũ bộ. Người diễn viên phải luyện tập công phu thì mới đủ khả năng diễn đạt ý tứ trên. Lớp Trương Phi đâm tóc Lữ Bố lại là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa hát, múa và biểu diễn. Sự kết hợp giữa diễn xuất với các ngôn ngữ toát lên hình ảnh người anh hùng Trương Phi. Bên cạnh nét tính cách hùng mạnh, người anh hùng cũng có điểm yếu điểm: đâm được giặc nhưng nhắm mắt lại vì sợ nhìn thấy máu. Kẻ thù biết và lợi dụng nên đã chuồn mất. Đây là lớp hay giữa hai nhân vật Trương Phi và Lữ Bố.
Vở Phục Huê Dung lộ hay nhất là lớp Tào Tháo xin tội. Diễn viên không đóng Tào Tháo như một tên hề. Mà ở đây, họ diễn cái bi của cuộc đời Tào.
Nét riêng tuồng thứ lễ Khánh Hòa thích hát tuồng không chém giết, không đổ máu như vở Phục Huê Dung lộ. Tuy hát tuồng Ông nghiêng về dương tính, chịu ảnh hưởng Nho giáo nhưng lại không thích đổ máu, tạo thế hài hòa âm dương. Phải chăng người Khánh Hòa hiền lành, thâm hậu, không ưa chém giết. Nghiêng về âm tính như biển rộng và sâu. Phật cũng thờ Phật bà, nặng về tục thờ mẫu, tế lễ của Khánh Hòa mục đích cũng để cầu an, không cầu vinh.
Sau hát thứ lễ là lễ tôn vương. Nội dung là múa tứ linh, hoặc múa long hổ hội, múa dâng hoa, mừng vua trẻ lên ngôi. Sau đó, để kết thúc phần lễ tế chánh, người chánh tế tuyên bố: “lấy đức vỗ bốn phương, ra ân nhuần trăm họ”.
Sau phần lễ tế chánh, phần hát lòng án được bắt đầu. Đây là phần hát giờ hay hát lòng án. Nghĩa là theo số giờ đã được ký trong hợp đồng với đoàn hát. Số giờ hát lòng án nhiều hay ít tùy vào số tiền đóng góp của vạn lạch. Ít thì 20, nhiều thì 50, 80 giờ. Có nơi còn gọi hát đãi. Đãi là đãi bà con vạn lạch và quan khách. Số vở trong hát lòng án là do ban tổ chức yêu cầu. Mọi sự cắt bỏ cho phù hợp với giờ diễn phải được bàn bạc với ban tổ chức, nhằm tránh cắt phải những lớp tuồng hay mà khán giả cần xem.
Tuồng được bạn hát chia làm 2 loại: tuồng thầy và tuồng truyện thường phục vụ cho các lăng.
Tuồng thầy có pho Ngũ Hổ, Sơn Hậu, Triệu Đình Long cứu chúa, Tiết Cương chống búa hát đến Tiết Giao đoạt ngọc, Hồ Nguyệt Cô hóa cáo…thường gọi là tuồng chiến.
Tuồng văn: Đào Phi Phụng, Thanh xà Bạch xà, Lữ Bố hý Điêu Thuyền, Lý Phụng Đình, Lưu Bình Dương Lễ...
Tuồng truyện: Đường Chinh Đông, Đường Chinh Tây, La Thông Tảo Bắc, Tam Hạ Nam Đường, Mạnh Lệ Quân Kỳ Nữ, Bích Hà - Giáng Tuyết.
Tuồng dân gian: Phạm Công Cúc Hoa, Lâm Sanh Xuân Nương, Thoại Khanh Châu Tuấn,…kịch bản tuồng truyện chủ yếu cương rồi lập thành. Các vở tuồng ở đây mới chỉ tạm liệt kê, trên thực tế số lượng vở diễn ở lễ cầu ngư rất nhiều.
Khánh Hòa không có tuồng hài, như vở Giáp kén xã nhộng, Trương đồ nhục, Nghêu-Sò-Ốc-Hến thường thấy ở Quảng Nam, Quảng Ngãi…
Kết thúc mấy chục giờ lòng án, dù đã tôn vương rồi, nhưng cuối vở vẫn phải giết nịnh, định đô, phải có câu “Muôn dân an lạc thái bình âu ca”. Kết mà mở, mở ra cuộc sống mới hứa hẹn điều tốt đẹp đối với cả vạn lạch. Đại diện ban chánh tế xổ chầu, nghĩa là đánh trọn một hồi không lại ba tiếng. Mái che bàn thờ tổ tuồng lập tức được gỡ bỏ. Mục đích báo cho các vị thần theo xem hát mà ngủ gật, đến đây đã hết rồi, dậy mà đi cùng đoàn đến nơi diễn khác.
Có thể nói, tiếng trống chầu và nghệ thuật hát bộ đã làm cho lễ hội cầu ngư thật sự là ngày hội văn hóa của cả cộng đồng ngư dân biển đảo Khánh Hòa. Nội dung và đề tài vở diễn trong lễ hội cầu ngư phong phú, cả hình thức nghệ thuật cũng rất đa dạng, không gò bó. Tính tự sự trữ tình, lối kết cấu vở diễn theo lớp, hồi, người nghệ sỹ còn có thể lồng ghép quan điểm cá nhân, hay ngẫu hứng sáng tạo sao cho phù hợp với yêu cầu thẩm mỹ của từng đối tượng khán giả mỗi vùng.
Từ những điều nghiên cứu trên đây, có phải chăng, biển Khánh Hòa rất rộng và sâu nên người Khánh Hòa nói chung và ngư dân Khánh Hòa nói riêng sống hiền hòa, thâm hậu, nặng tình, nghiêng về âm tính:
Khánh Hòa là xứ trầm hương
Non cao, biển rộng, người thương đi về.
Nguồn: Văn hóa Biển Đảo Khánh Hòa, NXB Văn hóa, 2012.