Nam Bộ, vùng đất trẻ trên 300 năm, chưa có nhiều truyền thống lịch sử, văn hóa, học thuật như những vùng đất khác. Nhưng nói rằng, vùng đất này chỉ đọng lại những thành tựu kinh tế, chứng tỏ sự năng động con người Nam Bộ thì chưa đủ; vùng đất này còn những dấu ấn văn hóa làm nên truyền thống hiếu học, độ dày tri thức ở người Nam Bộ ngày nay. Ba tổ chức văn chương Nam Bộ nổi tiếng một thời; không chỉ trong vùng mà có tiếng vang cả nước, thậm chí nước ngoài: “Chiêu Anh Các (Hà Tiên - 1736); Bình Dương thi xã (Gia Định – cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX), Bạch Mai thi xã” (Gia Định – nửa sau thế kỷ XIX) là ví dụ.[1] Sự xuất hiện những tổ chức này, một mặt nói lên được cảm hứng, chủ trương, óc sáng tạo, khả năng và thành quả văn chương của những con người một thời đã qua. Mặt khác, ngoài tài năng văn chương, học vấn sâu rộng, nhân cách sống, những con người ấy, còn thấy được ở vùng đất mới, sự học đã có bước phát triển đáng kể; mà trước đó, vùng đất này chỉ được biết đến với thế mạnh nông nghiệp, nhưng hãy còn “hoang sơ” về văn hóa, chữ nghĩa. Một thời và đến bây giờ, không ít người vẫn nghĩ thế.
Chiêu Anh Các được thành lập vào đời thứ hai dòng họ Mạc (Mạc Cửu: 1655 – 1735) đến định cư và khai phá mảnh đất Hà Tiên. Người có công đầu là Mạc Thiên Tích (1706 – 1780), còn gọi Mạc Thiên Tứ, con trai Mạc Cửu, mang hai dòng máu Việt - Hoa. Ông kế thừa tài năng cha và tình yêu mẹ để lãnh đạo vùng đất Hà Tiên. Ông biết cả chữ Hán lẫn chữ Nôm; ông giỏi tiếng cha (tiếng Trung Quốc), lại rành tiếng mẹ (tiếng Việt); ông thạo cả văn, tinh thông lẫn võ. Ông là người sáng lập và là chủ soái “Tao đàn Chiêu Anh Các”. Tổ chức này được thành lập với tôn chỉ mục đích rất đơn giản, nhưng khá rõ ràng, giàu ý nghĩa, là xây dựng “Trung tâm văn hóa” để “Phát triển giáo dục” (truyền bá Nho học), làm cho Hà Tiên mới mẻ hơn, hấp dẫn hơn không chỉ với du khách, thương nhân; mà cho cả tầng lớp nghèo khổ muốn tìm đất dung thân, phát triển.
Chiêu Anh Các không vịnh cảnh đẹp đâu đâu, xa vời, vọng ngoại; mà nói về cảnh, người đất Hà Tiên, nơi họ sống. Nội dung văn chương tổ chức này cần được ghi nhận như nét sáng tạo và mới mẻ trong bối cảnh lịch sử ấy. Vì: ở thời điểm đó, không ít tác giả vẫn vịnh cảnh đẹp xuất phát từ điển cố, tích xưa, cảnh cũ; mặt khác, “văn dĩ tải đạo” là chính, còn “thỏa mãn thú vui tiêu khiển” là phụ. Nhưng, Chiêu Anh Các thì nhắm vào cảnh thực, người thật, lấy niềm vui tiêu khiển để con người vui sống, có thêm nghị lực lao động, chiến đấu. Mục tiêu này quan trọng trong tôn chỉ hoạt động Chiêu Anh Các. Chùm thơ xướng họa “Hà Tiên thập cảnh” là chủ đề sinh hoạt tiêu biểu cho khuynh hướng văn chương Chiêu Anh Các. Trịnh Hoài Đức trong “Gia Định thành thông chí” nhận xét: “Về sách “Hà Tiên thập vịnh” thì nội dung gồm 10 bài mệnh đề do Minh chủ Chiêu Anh Các là Mạc Thiên Tứ xướng ra.”. [2]
Số lượng thơ vịnh Hà Tiên có khoảng 330 bài Đường luật; trong đó, Mạc Thiên Tứ có 10 bài xướng chữ Hán và 10 bài họa chữ Nôm. Ngoài ra, còn 334 câu thơ song thất lục bát được bố trí mở đầu mười bài thơ họa Nôm của ông, như phần giới thiệu, dẫn giải cho mỗi cảnh đẹp Hà Tiên; số thơ Đường còn lại của văn nhân, thi sĩ trong tao đàn và cả nước. Mười cảnh đẹp Hà Tiên thuộc tỉnh Kiên Giang, gồm: Tô Châu với bài “Kim dự lan đào”, còn viết “Kim dữ lan đào”; núi Lăng với bài “Bình sơn điệp túy”, còn viết “Bình san điệp thúy”; chùa Phù Dung với bài “Tiêu tự thần chung”; rạch Giang Thành với bài “Giang Thành dạ cổ”; Thạch Động với bài “Thạch Động thôn vân”; núi Đá Dựng với bài “Châu nham lạc nhạn”, còn viết “Châu nham lạc lộ”; phá Hà Tiên với bài “Đông Hồ ấn nguyệt”; biển Nam Phố với bài “Nam Phố trừng ba”; mũi Nai với bài “Lộc trĩ thôn cư”; rạch Vược với bài “Lư khê ngư bạc”, còn gọi “Lư khê nhàn điếu”.[3]
Chiêu Anh Các quy tụ được khá đông văn tài, thi nhân. Theo tư liệu cổ, gồm các tác phẩm “Phủ biên tạp lục”[4], “Kiến văn tiểu lục” [5] của Lê Quý Đôn, “Gia Định thành thông chí” của Trịnh Hoài Đức, với sự ghi chép của 2 tác giả này có đến 75 người tham gia. Trong số này, ngoài Mạc Thiên Tứ chủ soái, có 24 người được ghi nhận trong cả 3 tư liệu nói trên. Đó là: Đặng Minh Bản, Lộ Phùng Cát, Từ Đăng Cơ, Châu Cảnh Dương, Trần Duy Đức, Trần Minh Hạ, Ngô Chi Hàn, Lâm Kỳ Nhiên, Từ Huyễn, Trần Tự Lan, Nguyễn Nghi, Đan Bỉnh Ngự, Từ Hiệp Phí, Trần Thụy Phụng, Phan Đại Quảng, Trịnh Liên San, Thang Ngọc Sùng, Lâm Duy Tắc, Trần Hoài Thủy, Tôn Thiên Thụy, Hoàng Kỳ Trân, Tôn Nghiêm Trân, Trần Thiệp Tứ, Trần Diệu Uyên; có 11 người được ghi nhận từ 2 nguồn tư liệu. Đó là: Tạ Chương, Mạc Triều Đán, Trương Giao, Từ Hoằng, Lê Chương Húc, Tôn Quý Mậu, Phương Minh, Chu Phác, Trần Bá Phát, Dư Tích Thuần, Lý Nhân Trường; lại có 40 người được ghi nhận từ một trong những tư liệu đã nêu. Đó là: Phương Thu Bạch, Trần Thành Bích, Lê Bá Bình, Mã Văn Chấn, Lưu Chương, Tô Dần, Phùng Diễn, Trang Huy Diệu, Lư Triệu Dinh, Lê Dự, Phương Dự, Ngô Điển, Hoàng Đỗ, Nguyễn Đình Hiền, Đỗ Văn Hổ, Hoàng Nguyên Hội, Chung Vĩnh Hòe, Nhan Chung Hoàng, Vương Húc, Trần Trí Khải, Nghê Nguyên Khâm, Uông Hễ Lai, Lý Sĩ Liên, Trần Diệu Liên, Lương Loan, Phương Lộ, Vương Đức Lộ, Hoàng Long, Trần Ngoan, Lương Kim Phong, Thái Đạo Pháp, Từ Đăng Sơ, Trần Đình Tảo, Thi Trù, Trần Trinh, Lê Giản Tư, Đoàn Tương, Lương Thừa Tuyên, Trần Xuân, Vương Xưởng. Như vậy, số lượng thành viên trong Tao đàn Chiêu Anh Các đông đảo hơn “Tao đàn Nhị thập bát tú”. Điều đó cho thấy sức tập hợp của tào đàn rất mạnh, niềm đam mê văn chương thi phú của “kẻ sĩ” đối với tao đàn văn chương vùng đất Hà Tiên thời bấy giờ rất lớn, có tiếng vang đáng nể phục.
Quan điểm thi văn “Tao đàn Chiêu Anh Các” khá chuẩn mực. Phải nói có yêu cầu rất cao. Lời tâm sự qua lại giữa người chủ soái Tao đàn Hiệp trấn Hà Tiên Tông Đức hầu Mạc Thiên Tích với khách thơ Nguyễn Cư Trinh, được Lê Quý Đôn ghi chép trong “Phủ biên tạp lục”, cho thấy sáng tác văn chương, tuy nói là để thưởng ngoạn, vui chơi; nhưng rõ ràng Tông Đức hầu có những yêu cầu chặt chẽ và nghiêm túc về câu, chữ, hình thức diễn đạt, văn phong, tính chân thực, hàm súc, v.v.:
“Phàm giữ lòng là chí, ngụ ý là thơ. Người có nông sâu, cho nên thơ có ẩn và rõ, bao gồm và rút gọn không giống nhau. Thời có lên xuống cho nên thơ có bước đầu, lúc thịnh, lúc giữa, lúc muộn khác nhau. Tóm lại, không ngoài lấy trung hậu làm gốc, hàm súc làm nghĩa, bình đạm làm khéo, mà tô điểm cho đẹp đẽ, rèn luyện cho kĩ xảo, đó chỉ là ngoại thiên của sáu nghĩa[6], dư sự của năm mối[7] mà thôi. Tâm là cái khó lường, tiết ra mà làm thơ, mà thành. Thơ mà có thể đọc được, cốt ở một chữ, có khi đến ba năm mà sau mới tìm được hay nghìn năm mà không giải quyết được. Tôi xem đó là khó lắm. Huống chi khi nhỏ còn bông lông, chưa hay dốc chí về kinh luân, lớn lên lại biếng lười, rất sợ cầu danh ở văn chương, cho nên sinh bình thơ hay rất ít. Huống lại sông vàng ải ngọc, muôn dặm tình hoài; lại việc ba quân còn rỗi đâu mà nghĩ đến thơ. Nếu có ngâm vịnh một hai bài thì cũng miễn cưỡng theo người, chứ vốn cũng không phải tự mình cao hứng, so với điều không nên cẩu thả thực đáng xấu hổ. Xin khéo vì tôi che giấu, không nên nói với người ngoài.”. [8]
Đánh giá sáng tác văn chương dưới chủ đề “Hà Tiên thập vịnh” của “Tao đàn Chiêu Anh Các”, Lê Quý Đôn có viết: “… Như thế có thể biết được núi sông Hà Tiên được phong hóa của tiên quân lưu hành đã thêm phần tráng lệ, lại được các tay danh sĩ đề vịnh càng thêm sáng sủa tốt tươi. Tập thơ này không những tô điểm bộ mặt dân cư nơi bãi biển, mà cũng có thể thay vào sử ký của Hà Tiên.”.[9] Đánh giá này một mặt cho thấy giá trị văn - sử học của “Hà Tiên thập vịnh”; mặt khác, phản ánh được sức thu hút “Tao đàn Chiêu Anh Các” thời bấy giờ.
Sau “Tao đàn Chiêu Anh Các”, ở Nam Bộ lại hình thành tổ chức văn chương mới là “Bình Dương thi xã”. Tổ chức này ra đời vào nửa đầu thế kỷ XIX, tại Gia Định, do nhóm “Gia Định tam gia thi” đứng đầu. Đó là những vị quan văn nổi tiếng thời triều Nguyễn, như: Trịnh Hoài Đức, Ngô Nhơn Tĩnh, Lê Quang Định, v.v..
Trịnh Hoài Đức[10] (1765 - 1825) tự Chỉ Sơn. Ông đã hai lần giữ chức Hiệp Tổng trấn Gia Định thành, dưới thời Tổng trấn Nguyễn Văn Nhơn và Tổng trấn Lê Văn Duyệt. Ông cũng từng giữ các chức quan cao triều đình, như: Thượng thư bộ Hộ, Thượng thư bộ Lễ, Thượng thư bộ Lại, v.v..
Nhưng người đời biết đến ông nhiều là qua thơ văn. Thơ Trịnh Hoài Đức là thơ trữ tình. Ngoài thơ trữ tình, ông còn làm thơ tả cảnh vật, cảnh sinh hoạt người dân nơi ông ở hoặc có dịp đi qua. Ông cùng với Lê Quang Định, Ngô Nhơn Tĩnh lập nên nhóm “Gia Định tam gia thi” với tác phẩm “Gia Định tam gia thi tập”. Ngoài ra, ông còn để lại nhiều bộ sách có giá trị khác, như: “Cấn trai thi tập”; “Bắc sứ thi tập”, trong tập này có 18 bài thơ Nôm liên hoàn được viết khi ông đi sứ Trung Quốc[11]; ngoài ra, còn có các sáng tác khác, như: “Lịch đại kỷ nguyên”, “Khang tế lục” và đặc biệt là tác phẩm “Gia Định thành thông chí”.
Bộ “Gia Định thành thông chí” là công trình có giá trị cao về lịch sử, địa lý, văn hóa Sài Gòn nói riêng, Nam Bộ nói chung. Bộ sách gồm 6 tập ghi chép tương đối đầy đủ và cẩn thận các vấn đề về thiên văn, núi sông, địa giới, phong tục tập quán, sản vật và đơn vị hành chính Nam Bộ thời bấy giờ.
Nhân vật thứ hai là Ngô Nhơn Tĩnh[12] (?-1813), tự Nhữ Sơn. Ông đã từng làm đến chức Thượng thư bộ Công, và chức Hiệp tổng trấn Gia Định dưới triều nhà Nguyễn. Ngoài sự học, tài thơ văn, ứng đáp ông được nhiều người nể trọng; người Trung Quốc còn phải phục tài thi văn ông, khi ông đi sứ. Sáng tác của ông có các tập: “Nghệ An phong thổ ký”, được sáng tác lúc ông được bổ nhiệm làm quan Nghệ An. Ngoài ra, ông còn 2 tập văn - thơ quan trọng: “Thập Anh văn tập”, “Thập Anh đường thi tập”, v.v.. Trong tập “Thập Anh đường thi tập”, có 81 bài thơ được làm trong thời gian đi sứ, lúc làm quan và khi xướng họa. Ông còn hiệu đính sách “Hoàng Việt nhất thống dư địa chí” cho Lê Quang Định. Trong nhóm “Bình Dương thi xã”, Ngô Nhơn Tĩnh còn có đóng góp chung vào công trình “Gia Định tam gia thi tập”. Thơ ông chất chứa tâm trạng một vị trượng phu, nhưng mang nhiều nỗi oan khuất, mà lời lẽ lại không chất chứa oán hờn. Ý tình trong thơ còn cho thấy ông là kẻ sĩ đã trải đời, thấu hiểu được lẽ xuất xử thời cuộc.
Nhân vật thứ ba là Lê Quang Định[13] (1759 -1813), tự Tri Chỉ. Ngoài tài văn thơ, ông còn “biệt tài” viết đẹp, vẽ đẹp. Bên cạnh bộ “Hoàng Việt nhất thống dư địa chí”, gồm 10 quyển, được xem là bộ địa chí đầu tiên triều Nguyễn, Lê Quang Định còn có tập “Hoa nguyên thi thảo”, tập thơ sáng tác trong chuyến đi sứ Trung Quốc, gồm 74 bài, hầu hết là thơ đề vịnh, cảm hoài. Trong thơ, ông nêu bật được những quan niệm thẩm mỹ cá nhân, tính sáng tạo riêng trong cảm xúc thẩm mỹ và nhận định của mình. Ông cũng là người góp công sức vào sự thành công chung của “Bình Dương thi xã”, bằng tập thơ chung “Gia Định tam gia thi tập”.
Nhóm “Bình Dương thi xã” tuy không đông thành viên, nhưng sự đóng góp của tổ chức văn chương này không nhỏ. Bởi nhóm đã tập hợp được ba cây bút tài danh, mà khi nói về họ, người dân Nam Bộ luôn tự hào, gọi họ bằng tên gọi thân quen là nhóm “Gia Định tam gia”. Nhóm “Bình Dương thi xã” không chỉ đóng góp trên bình diện văn chương, sáng tác, mà họ còn giúp người sau có những hiểu biết nhiều bình diện khác, như: lịch sử, địa lý, phong tục tập quán, v.v..
“Bạch Mai thi xã” là một trong ba tổ chức văn chương lớn vùng Nam Kỳ Lục Tỉnh, được thành lập giữa thế kỷ XIX, do nhóm sĩ phu Nam Bộ từng xướng vịnh ở gò Cây Mai sáng lập và sớm chuyển đổi thành dòng văn học yêu nước, với những tên tuổi lớn như: Nguyễn Đình Chiểu, Thủ khoa Nguyễn Hữu Huân, Thủ khoa Bùi Hữu Nghĩa, Phan Văn Trị, Nguyễn Thông, Huỳnh Mẫn Đạt, v.v.. “Bạch Mai thi xã” quy tụ đông đảo văn nhân, thi sĩ hơn “Bình Dương thi xã”. Tuy không tồn tại lâu, nhưng phần lớn họ là những sĩ phu yêu nước có đóng góp lớn cho phong trào kháng chiến chống thực dân Pháp ở Nam Bộ thời kỳ đầu trên cả hai mặt trận: cầm viết và đánh giặc.
Trong nhóm này, Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888) được ví như ngọn cờ đầu, thủ lĩnh tinh thần cho công cuộc kháng chiến chống Pháp. Sáng tác của nhà thơ mù đất Ba Tri (Bến Tre) Nguyễn Đình Chiểu rất phong phú. Tiêu biểu trong số những tác phẩm ông là ba tập truyện thơ dài: “Lục Vân Tiên” (1858), “Dương Từ - Hà Mậu” (1858), “Ngư tiều y thuật vấn đáp” (1874-1888). Ngoài ra, ông còn là “vua” thể loại văn tế: “Văn tế Nghĩa sĩ Cần Giuộc” (1861) [14], “Văn tế Trương Công Định” (1864). Ông cũng có rất nhiều thơ Đường luật tiêu biểu, mang đậm tính thời sự, như bài “Chạy Tây” (1859), Mười hai bài thơ điếu Trương Định (1864), Mười hai bài thơ điếu Phan Tòng (1868), v.v..
Thơ văn hai vị Thủ khoa đất Nam Kỳ Nguyễn Hữu Huân (Mỹ Tho - Tiền Giang), Bùi Hữu Nghĩa (Bình Thủy - Cần Thơ) cũng tràn đầy tinh thần yêu nước, trọng đạo nghĩa, nêu cao luân lý thánh hiền. Đặc biệt với Nguyễn Hữu Huân (1820-1875), ông vừa là một nhà thơ, còn là chiến sĩ đã anh dũng hi sinh trong công cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp. Thơ ông thể hiện ý chí sắt đá trong công cuộc đấu tranh không khoang nhượng với kẻ thù. Trong các bài thơ: “Mang gông, Tặng vợ, Tự thuật, Cảm hoài, Thuật hoài, Hò khoa ca, Khi được tha về…”, ông luôn tỏ rỏ ý chí bền bỉ, thái độ cứng cỏi với kẻ thù và tinh thần đấu tranh trước sau như một cho non sông đất nước. Còn Bùi Hữu Nghĩa (1807-1872) cũng là một sĩ phu yêu nước, có tinh thần chống giặc. Thơ ông bộc lộ nỗi niềm chua xót trước cảnh đất nước bị giặc ngoại xâm và tấm lòng đối với non sông đất nước. Ông có một số tác phẩm nổi tiếng như các vở tuồng: “Kim Thạch kỳ duyên, Tây Du, Mậu Tòng”, các bài văn tế: “tế vợ, tế con” và một số thơ Đường luật.
Nhà thơ Phan Văn Trị (1830-1910) sinh Giồng Trôm (Bến Tre), cuối đời về dạy học và nằm lại quê vợ Phong Điền (Cần Thơ) sáng tác khá nhiều, có đến cả trăm thơ vịnh, nhưng nổi tiếng với “cuộc bút chiến” bằng mười mấy bài họa thơ Tôn Thọ Tường.[15] Ông là một chiến sĩ trên mặt trận văn hóa, văn học. Thơ ông có sức cổ vũ được đông đảo sĩ phu Nam Kỳ vào cuộc bút chiến và có khả năng cảm hóa được đối phương đang ở bên kia bờ chiến tuyến.
Nhà thơ đất Long An, Nguyễn Thông (1827-1884) có thời là quan đốc học tỉnh Vĩnh Long, không chỉ là nhà thơ, còn là nhà nghiên cứu nhiều lĩnh vực, như: giáo dục, lịch sử, địa lý, v.v.. Ông có hai tập thơ, văn được nhiều người biết đến: “Ngọa du sào thi tập” và “Ngọa du sào văn tập”. Ngoài ra, ông còn có một số tác phẩm khác, như: “Kỳ Xuyên công độc văn sao”, “Việt sử cương giám khảo lược”, “Nhân sự kim giám”, v.v.. Nhìn chung, thơ văn ông thể hiện tấm lòng thiết tha yêu mến quê hương, đất nước và tấm lòng ưu ái với những người không may, xấu số. Ông ca ngợi, xót thương những người đã hy sinh trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược. Đôi lúc, thơ ông cũng bộc lộ nỗi buồn của một sĩ phu bất lực trước thời cuộc đất nước.
Huỳnh Mẫn Đạt (1807-1883) nhà thơ đất Gia Định,[16] cũng là một tên tuổi của nhóm. Ông đứng trong hàng ngũ những nhà thơ yêu nước và cũng là một trong những nhà thơ lao mình vào cuộc bút chiến với Tôn Thọ Tường. Ông có một số bài thơ nổi tiếng như: “Cây dừa, Chó già, Mưa đêm, Ngộ Hữu, Trời chiều, Điếu Nguyễn Trung Trực…”. Thơ ông bộc lộ tình yêu nước, thương dân, lòng căm thù giặc. Huỳnh Mẫn Đạt ngưỡng mộ những người vì nước hi sinh; khinh bỉ, căm ghét những kẻ đầu hàng, chạy theo thực dân xâm lược Pháp.
Tổ chức văn chương “Bạch Mai thi xã” tuy không tồn tại lâu, nhưng cho thấy được ước nguyện to lớn của các sĩ phu thời bấy giờ trong lĩnh vực hoạt động văn học; đồng thời cũng nêu được tâm trạng, sự lo âu, cùng hành động của họ trước vận nước và thời cuộc đang nhiều thay đổi theo chiều hướng bất lợi cho đất nước và dân tộc.
Nam Bộ tuy là vùng đất mới, nhưng những người khai phá và bảo vệ vùng đất này luôn ý thức và quan tâm hết mực đến hoạt động tinh thần, văn hóa, học thuật. Ba tổ chức văn chương được hình thành trong một thời gian ngắn trong tiến trình mở đất Đồng bằng Nam Bộ đủ nói lên khát vọng lớn ở người Nam Bộ đối với hoạt động văn hóa, nghệ thuật. Những sáng tác của họ góp phần làm giàu kho tàng văn hóa, văn học dân tộc và mang lại một bản sắc riêng về vùng đất mới khai phá. Sự đóng góp làm cho nền văn học dân tộc có tính đa diện, nhiều sắc màu phong phú.
Nguồn: tác giả
[10]. Xem: Trịnh Vân Thanh mục từ Trịnh Hoài Đức trong Thành ngữ điển tích danh nhân từ điển, quyển II, Sài Gòn, 1966, tr. 1392.
[11]. Xem: Trịnh Vân Thanh: mục từ Trịnh Hoài Đức trong Thành ngữ điển tích danh nhân từ điển, Sđd, quyển II, tr. 1397 - 1399.