Hàng vạn người chen nhau đi lễ đền Trần
TTO - Chiều 13-2, hàng vạn du khách thập phương đã đổ về phường Lộc Vượng, thành phố Nam Định để làm lễ đền Trần. Tuổi Trẻ đã có mặt ở đây để ghi nhận không khí náo nhiệt của lễ hội.
Đông đảo người dân làm lễ tại đền Thượng - Ảnh: NGUYỄN KHÁNH
13 giờ , hàng trăm người dân trải chiếu ngồi xung quanh đường dẫn vào đền Trần để chờ giờ xin ấn, là hình ảnh đầu tiên chúng tôi ghi nhận được nơi đây.
Khoảng 14 giờ, dòng người từ khắp các ngả đường đổ dồn về khu vực đền Trần. BTC lễ hội đã huy động đông đảo lực lượng cảnh sát cơ động, công an, bảo vệ để đảm bảo an ninh trật tự. Hàng rào barie cũng được phong tỏa khắp các tuyến đường như Trần Thừa, Trần Thủ Độ… nhằm ngăn chặn không cho người dân đi xe máy vào trong khu vực lễ hội.
Đến đúng 17 giờ, trên các tuyến đường dẫn vào đền Trần bắt đầu chật cứng người. Mặc dù Bộ VH-TT&DL chỉ đạo và yêu cầu sở VH-TT&DL và ban quản lý di tích các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chỉ đạo ban tổ chức lễ hội và ban quản lý di tích chấn chỉnh không để dịch vụ đổi tiền lẻ hoạt động trong khuôn viên di tích và lễ hội. Tuy nhiên, ngay cổng dẫn vào đền Trần, dịch vụ đổi tiền lẻ vẫn tràn ngập.
Rải rác từ đường chắn barie cách khu vực đền Trần khoảng 500m dẫn đến cổng chính phải có đến hơn chục người cầm sẵn tiền lẻ trên tay mời chào khách hàng.
Những xấp tiền lẻ dày cộp mệnh giá từ 500 đồng, 1.000 đồng, 2.000 đồng đến 10.000 đồng, 20.000 đồng được bày gọn gàng chờ giao dịch. “Đổi tiền lẻ đi lễ em ơi, đổi 10 ăn 8 nhanh kẻo hết em ơi” - một người phụ nữ tên Hoa đứng ngay trước cổng đền Trần rao hàng. Khi thấy khách tỏ vẻ lưỡng lự, người phụ nữ này đứng phắt dậy chèo kéo: “Lấy đi, 10 đổi 9 em nhé, mở hàng cho chị”. Ngay sau khi khách hàng bỏ đi, bà Hoa mặt mày xẩm tối, liên mồm văng tục, chửi rủa khách hàng với những lời lẽ thô tục...
Trong khi đó, bên trong đền Trần, người người chen chúc, xô đẩy nhau để làm lễ. Những đồng tiền lẻ mệnh giá 500 đồng, 1.000 đồng, 2.000 đồng… vẫn rải trên khắp các đồ vật ở đền.
Đang bê khay lễ đủ đầy xôi, thịt, giò, vàng mã, hương nhang… bỗng chốc tất cả lật xuống đất, lễ rơi tơi tả. Không ngần ngại, chị N.T.Q. (quê ở Hải Phòng) quay ra tát bốp vào mặt một phụ nữ bênh cạnh - được cho là chạm vào khiến rơi lễ. “Rơi hết thế này thì còn đâu là lộc thần lộc thánh nữa hả giời ơi” - nói xong, chị Q. hấp tấp nhặt lễ rồi tức tốc bỏ ra ngoài trước ánh mắt thông cảm đến ái ngại của nhiều người xung quanh.
Tại khu vực bán lệnh ôtô và công đức cũng đông người không kém. Theo một du khách, lệnh ôtô này có giá 20.000 đồng sẽ giúp gia chủ may mắn khi đi đường xa, ôtô làm ăn sẽ phát tài phát lộc. Các thủ từ liên tục hướng dẫn du khách “lệnh được bán ở đền Thiên Trường và cung Trùng Hoa, bao nhiêu cũng có không thiếu đâu”.
Trao đổi với báo chí, bà Cao Thị Tính - phó chủ tịch UBND thành phố Nam Định, trưởng BTC lễ hội - cho biết năm nay BTC không ấn định số lượng các lá ấn phát ra cho du khách, con số này phụ thuộc quyết định của nhà đền. “Trong mấy ngày hội, chúng tôi huy động lực lượng công an thành phố thực hiện kế hoạch phân luồng giao thông đối với các phương tiện đi qua khu vực lễ hội. Ngoài ra, lực lượng y tế sẽ được bố trí địa điểm cấp cứu tại chỗ kịp thời” - bà Tính cho biết.
Chúng ta hiểu về lễ hội quá mù mờ
TT - Đó là ý kiến của nhà nghiên cứu văn hóa VN - giáo sư Trần Lâm Biền trong cuộc trò chuyện với Tuổi Trẻ về lễ hội - một vấn đề nóng mỗi dịp đầu năm.
Hàng ngàn người chen chúc trong động Hương Tích ngày khai hội chùa Hương - Ảnh: T.T.D.
Ông nói: “Cho đến giờ, chúng ta chưa tìm được con đường chân xác nhất để ứng xử với lễ hội, vì chúng ta hiểu biết về lễ hội còn quá mù mờ. Hay nói đúng hơn là sự lười biếng trí tuệ khiến chúng ta không chịu tìm hiểu đến bản chất sâu xa của lễ hội”.
* Hiện nay, kịch bản phổ biến của một lễ hội là chia làm hai phần: phần lễ và phần hội. Cũng có người cho rằng đây là một quan điểm sai lầm. Thưa giáo sư, ông nghĩ sao?
Ảnh: Hà Hương |
- Lễ không phải là cúng bái, cúng bái và tế chỉ là một phần của lễ mà thôi. Hội là gì? Hội không phải là trò chơi. Hội trước hết là sự tập hợp một cộng đồng người nhất định để thực hiện những điều về lễ. Cho nên lễ và hội là một cặp phạm trù tương hỗ, không thể tách rời. Vì rằng, trong các trò chơi cũng chỉ là một phần của lễ hội. Nhưng khi nó vào trong không gian thiêng, thời gian thiêng thì tự nhiên nó mang ý nghĩa thiêng liêng. Trong ý nghĩa thiêng liêng ấy nó mang giá trị biểu tượng.
Chẳng hạn, chúng ta có thể thấy được chọi trâu Đồ Sơn có cả một tích mà người ta quên, nên người ta bịa ra là tinh thần thượng võ. Thượng võ gì ở chỗ ấy, không có! Ở đình Hiếu Giang, Đông Hà người ta có chọi bằng trâu đâu. Họ làm hai cái đầu trâu rồi chui vào đó diễn trò chọi nhau. Vậy ý nghĩa đằng sau là gì? Là ý thức hòa với thiên nhiên, vũ trụ để tồn tại, là tục thờ mặt trăng, mà mặt trăng gắn với thủy triều. Thờ như thế là để mong rằng giữa con người với thủy triều có thể cảm thông, hòa vào với nhau, không chống nhau. Chọi trâu Đồ Sơn là lễ hội nói về thủy triều, đâu có phải thượng võ. Hiện tượng chọi nhau là biểu hiện sự vận động của thủy triều. Đến lúc cuối cùng người ta đem con trâu chiến thắng đưa lên mảng ra ngoài khơi để tế thần biển. Người ta quan niệm phải tế thần biển để việc đi biển đánh cá được bình yên, tốt đẹp. Ngoài ra, mặt trăng cũng gắn với tâm thức của người làm nông nghiệp, mong ước mùa màng tốt tươi được mùa, vạn vật sinh sôi nảy nở. Cũng có hiện tượng chọi trâu ít nhiều có giao lưu ảnh hưởng lẫn nhau, song ước vọng đó nằm sâu bên trong. Cho nên nhìn vào lễ hội, trò chơi phải nhìn thấy đằng sau nó là cái gì.
Như con gà trống là biểu tượng mặt trời, gà chọi nhau là biểu tượng cho sự vận động của sinh lực vũ trụ. Còn bây giờ người ta nghĩ gì, chọi gà là chọi gà, nhưng chọi gà mà có ý nghĩa thiêng liêng sẽ khác. Khi đã mất đi tính chất thiêng liêng thì nó là trò chơi. Khi còn giữ được tính thiêng thì nó là biểu tượng. Và nó là thứ tư duy liên tưởng mênh mông, là ước vọng truyền đời của người xưa. Trong các trò ấy đã có lễ, có ẩn chứa mối ứng xử ngầm của con người với trời đất. Nhưng nay, do sự lười biếng trí tuệ và chối bỏ sự nghiên cứu về truyền thống mà gán ghép cho những vẻ đẹp văn hóa cha ông những ý nghĩa trần tục để phục vụ sự ồn ào tâm tưởng xã hội, gắn với cái vật chất lẫn tinh thần, làm cho vẻ đẹp của lễ hội bị tàn phai.
* Vậy theo ông, chúng ta nên có những cảnh báo hay có cách nhìn nhận như thế nào cho đúng về lễ hội?
"Nay những người không hiểu biết cứ để lễ hội phát triển tự nhiên. Lễ hội rơi vào cái bẫy của thị trường. Có người lợi dụng lễ hội để kiếm ăn" |
- Cái này không có cảnh báo. Người dân họ đi theo lễ hội hay thực hành nó theo những gì cha ông truyền lại. Nhưng người dẫn dân đi phải có trí tuệ. Tức là những người làm văn hóa cần phải hiểu biết được ít nhất là những vấn đề cơ bản, chứ không thể dùng sự cấm đoán, bóp méo, hay dùng quyền lực để hạn chế lễ hội. Bởi văn hóa phải có tính chất giáo dục. Muốn giáo dục được phải hiểu nó là cái gì.
* Tuy nhiên, trên thực tế năng lực của cán bộ văn hóa hiện nay đang bị đánh giá là có rất nhiều vấn đề đáng lo?
- Phải nói thẳng thắn là có hạn và không chịu học, không ứng xử với sự việc mà mình phải tham gia trên nền tảng trí tuệ mà mới chỉ dừng ở mức độ cảm tính. Và với một gậy là quyền lực thì càng khiến lễ hội ngày càng xa rời những ý nghĩa vốn có, thậm chí trở thành vấn đề nhức nhối của xã hội.
Tôi đi điền dã, đứng xem thì tôi thấy người dân thực hiện là theo lối di truyền. Nhưng những người làm văn hóa phải hiểu được những hành động, động tác ấy có nghĩa gì. Bây giờ hỏi người dân là đi rước nước phải có cái chóe, cái chóe ấy biểu hiện cái gì, tại sao phải phủ vải điều đỏ lên... Tôi hỏi nhưng không ai biết cả, 90% dân văn hóa không biết. Cho đến bây giờ các nhà nghiên cứu hầu như còn chưa biết. Vì họ có đi vào dân để tìm hiểu đâu. Người dân là người duy trì cái mã của văn hóa, còn giải mã là việc của nhà nghiên cứu, người làm văn hóa. Cho nên tôi nói rằng người làm văn hóa phải có sự hiểu biết, có trí tuệ, cái tâm nương tựa vào trí tuệ thì mới trong sáng được. Còn tâm mà không có trí tuệ thì dễ dẫn đến mù quáng và có khi biến thành mê tín dị đoan.
Phải hiểu rằng lễ hội, các hành động của nó đều là biểu hiện của mối quan hệ giữa con người với xã hội, thiên nhiên, vũ trụ. Lễ hội trong quan điểm của người VN là tiến đến sự hòa hợp và cuối cùng thúc đẩy cho tinh thần đoàn kết. Mà đỉnh cao của tinh thần đoàn kết là tinh thần yêu nước. Lễ hội mà không đạt được đến điều đó là không xong. Bởi trong lễ hội người ta dám quên đi chính mình để lo việc cộng đồng làng xã, cái chung. Đoàn kết trong một làng thì sẽ biết đoàn kết với những cộng đồng lớn hơn.
Cả xã hội đang quá mê tín
TT - Đó là chia sẻ của PGS.TS Lương Hồng Quang (phó viện trưởng Viện Văn hóa nghệ thuật quốc gia Việt Nam) trong cuộc trao đổi với Tuổi Trẻ về câu chuyện cầu cúng, rải tiền trong lễ hội.
Chen nhau hứng nước thạch nhũ để cầu may mắn tại động Hương Tích, chùa Hương (Hà Nội) - Ảnh: Tiến Thành
Nhét tiền vào cả tay Phật Bà nghìn mắt nghìn tay ở chùa Lim, Bắc Ninh - Ảnh: Tiến Thắng
Lễ cúng sao giải hạn chùa Phúc Khánh (Hà Nội) vào rằm tháng giêng khiến một đoạn đường dài khoảng 200m nối từ đường Tây Sơn - Nguyễn Trãi bị tê liệt hoàn toàn - Ảnh: Nguyễn KHánh
Hỗn loạn tại lễ hội cướp phết Hiền Quan (tỉnh Phú Thọ) khi hàng nghìn thanh niên chen nhau giẫm đạp để tranh giành quả phết với hi vọng mang lại may mắn cho gia đình - Ảnh: Nguyễn Khánh
Thành tâm cầu... lộc, cầu an - Ảnh: Nguyễn Khánh
Chen nhau cọ tiền vào khánh đồng trên chùa Yên Tử mong cầu tài - Ảnh: Đức Hiếu
Ném tiền xuống giếng ở đền Côn Sơn, Kiếp Bạc, tỉnh Hải Dương - Ảnh: Tiến Thắng
Hậu quả sau trận cướp phết cầu may khiến một thanh niên phải nhờ bạn dìu ra khỏi lễ hội - Ảnh: Nguyễn Khánh
Ông nói: “Đền Bà Chúa Kho là minh chứng điển hình cho cái gọi là “sáng tạo” truyền thống trong xu hướng di sản hóa. Cùng với đền Bà Chúa Kho, rất nhiều chùa, đền, phủ của chúng ta hiện nay cũng đang đi theo xu hướng này. Nhưng điều kỳ lạ là cả xã hội chấp nhận điều này, đang quá mê tín, quá trông chờ vào vận may từ thánh thần”.
|
PGS.TS Lương Hồng Quang - |
* Đền Bà Chúa Kho được coi là hiện tượng đặc biệt, thu hút hàng vạn người đến cầu cúng mỗi dịp đầu năm và cuối năm, ông lý giải như thế nào về hiện tượng này?
- Đền Bà Chúa Kho là minh chứng điển hình cho cái gọi là “sáng tạo” truyền thống trong xu hướng di sản hóa. Thành công đầu tiên là đã thay đổi chức năng của nhân vật thờ cúng, từ một người giữ kho lương thành bà chúa giữ tiền, bà chúa của ngân hàng, huyền thoại hóa lên. Giới truyền thông góp phần nhiều cho việc này.
Bên cạnh đó, đền Bà Chúa Kho được quản lý như một tổ chức chuyên nghiệp với sổ sách, quy chế rõ ràng, minh bạch, có cơ chế phân chia lợi ích trong cộng đồng.
Họ dùng nguồn thu đó để bảo tồn, mở rộng nơi thờ tự, các công trình phúc lợi trong dân, tạo công ăn việc làm cho người dân trong nội bộ. Nhưng mô hình này đang gặp vấn đề là tính tự trị quá cao.
Vấn đề không phải thay một mô hình quản lý này bằng một mô hình quản lý khác, sẽ không hiệu quả, mà theo nguyên tắc của xã hội hiện đại, mọi nguồn thu, mọi nguồn quyên góp cần phải được quản lý bằng luật, thay vì luật làng như hiện nay. Đó là một tiến trình lâu dài.
Cuối cùng, các chủ thể ở đền Bà Chúa Kho đã vận dụng tối đa thời cơ của chính sách. Đó là chính sách về bảo tồn phát huy di sản văn hóa dân tộc, tự do tôn giáo tín ngưỡng. Họ vận dụng tối đa điều đó để phục hồi. Họ biết rằng phải có được danh hiệu di tích lịch sử cấp quốc gia, khi có danh hiệu rồi mới mở rộng phạm vi.
* Lễ hội năm nay, chuyện rải tiền lẻ được thắt chặt nhưng tiền lẻ vẫn tung hoành khắp đền chùa miếu phủ. Có thể cắt nghĩa vấn đề này như thế nào, thưa ông?
- Về nguyên tắc cúng là phải có hương, đăng, quả, thực. Tiền cũng là một lễ vật cúng. Ngày xưa người dân chẳng có nhiều tiền, chỉ có tiền lẻ thôi, họ đặt trong mâm cúng.
Hoặc có tiền giọt dầu gửi cho người đứng đầu cơ sở thờ tự để họ chi phí cho việc cúng lễ. Hòm công đức gần đây mới có, ngày trước không có. Hòm công đức là tư duy của xã hội hiện đại.
Sau này người ta còn có một hình thức nữa là ghi phiếu công đức cho những người quyên góp. Có một hình thức khác là thông qua các đợt duy tu sửa chữa, chủ yếu là cung tiến của người có tiền và giới có địa vị trong xã hội. Đây là số tiền đóng góp lớn nhất.
Trở lại vấn đề rải tiền, nhiều người thật sự không có hiểu biết khi đi lễ nên cứ làm loạn lên. Họ không được trao truyền các nghi thức nghi lễ của cha ông để lại, cộng thêm nữa là tư duy cứ đi lễ thì phải lễ to, có nhiều tiền rải thì xin được nhiều lộc.
Cái xin bây giờ là cái xin trao đổi, tư duy hàng hóa thương mại. Còn ngày xưa cũng có cầu xin nhưng họ có niềm tin, lễ to lễ nhỏ không quan trọng, vấn đề là mình thành tâm.
Hành vi rải tiền không chỉ sai về mặt nghi lễ, mà còn thể hiện sự thiếu hiểu biết, mê tín của rất đông người dân hiện nay.
* Tất cả điều đó sẽ dẫn đến những hệ lụy nào?
- Cả thế giới từ thập niên 1970 đã bước vào quá trình “di sản hóa”, coi truyền thống là những giá trị cần được ứng xử một cách nâng niu, gìn giữ, tách ra khỏi đời sống hiện hữu trong một xu hướng “gán giá trị”, “gán nhãn hiệu”, và đôi lúc là những vật thiêng, có ý nghĩa văn hóa của một cộng đồng người.
Xu hướng này đặc biệt được các nước phát triển sử dụng để bảo tồn và phát huy di sản văn hóa trong đời sống đương đại.
Trong xu thế này, các nước phát triển được cũng nhiều mà mất không ít. Chúng ta đang đứng trước lưỡng nan của sự phát triển văn hóa.
Cái được là tạo ra được sự tiếp nối giữa truyền thống với hiện đại, tiềm năng kinh tế của di sản được phát huy, giá trị của di sản được lan tỏa...
Nhưng có những bất cập:
Thứ nhất, con người rơi vào ảo tưởng, ảo giác, điều này dẫn đến việc mất cân bằng, vị truyền thống một cách siêu hình. Trong khi đó, logic phát triển phải là chuẩn bị gì cho hiện tại và tương lai cần được cân bằng với bảo tồn và phát huy truyền thống.
Hệ quả thứ hai là việc chạy theo danh hiệu đã làm biến dạng di sản, kể cả mặt vật chất lẫn tinh thần. Các cơ sở thờ tự được mở rộng quy mô, các di sản văn hóa tinh thần cũng được nâng cấp, nâng tầm, nhiều khi làm biến dạng di sản dưới nhiều biểu hiện.
Hệ quả thứ ba, xã hội có vẻ quá mê tín. Trông chờ vào thần thánh, trông chờ vào thế lực siêu nhiên xuất hiện ở nhiều hạng và nhóm xã hội. Một xã hội “tắm mình” trong tín ngưỡng, lễ hội, cúng bái, thờ phụng, nghi lễ. Mê tín nhờ đó cũng trở thành một thứ quyền lực. Đó là điều phải cảnh tỉnh xã hội, nếu không thế hệ trẻ sẽ mất phương hướng.
Đây là vấn đề về chính sách.
* Trong bối cảnh này, theo ông, liệu có biện pháp nào để giảm bớt tình trạng mê tín của xã hội hay không?
- Theo tôi, muốn thay đổi phải cần thời gian để tất cả mọi người thay đổi nhận thức. Khách hành hương hiện nay không có khuôn mẫu văn hóa, họ không biết cái gì nên và không nên khi đến đền chùa miếu phủ.
Mấy chục năm nay người Việt Nam không được trao truyền những nghi thức ấy, cũng không được hướng dẫn. Cho nên, theo tôi, việc đầu tiên là phải giáo dục về việc thực hành các nghi lễ truyền thống.
Trong đó, giới truyền thông cũng cần được trang bị lại hệ thống kiến thức để tránh tình trạng nhiễu loạn như hiện nay.
Mặt khác, bản thân chủ cơ sở thờ tự phải kiên quyết đảm bảo thực hiện nếp sống văn minh. Nếu họ không vào cuộc thì sự nỗ lực của cả xã hội cũng không giải quyết được việc gì.
Cứ nghĩ người dân rải tiền lung tung thì tiền vẫn cứ thuộc về nhà chùa, nhà đền như hiện nay thì khó thay đổi được gì. Chưa nói đến việc hiện nay chúng ta chưa có những quy chế, chính sách nào hiệu quả về vấn đề này. Chế tài lại càng không.
Một du khách cố thả tiền lên bàn thờ tại đền Trần, Nam Định để cầu may - Ảnh: Nguyễn Khánh
* Có vẻ như việc tạo ra những huyền thoại mới để khuếch trương lễ hội, di sản ở Việt Nam đang trở thành xu hướng khá phổ biến? - Điều đó có ở đền Bà Chúa Kho, đền Trần... và rất nhiều cơ sở thờ tự khác. Như ấn đền Trần ban đầu chỉ là chiếc ấn cầu an, trừ tà, trấn yểm, theo nguyên tắc của Đạo giáo. Không biết từ bao giờ, với sự tham gia của quan chức nhà nước và bị đẩy lên thành ấn cầu quan. Đến cả tôi hằng năm vẫn thường bị nhờ vả đi xin ấn đền Trần. Giải thích mãi nhưng người ta vẫn tin là như thế. Chùa Hà ban đầu chỉ là một ngôi chùa thờ Phật bình thường. Bỗng dưng một ngày trở thành ngôi chùa cầu duyên, là nơi linh thiêng cho đôi lứa. Dần dần tâm thức của con người bị đóng đinh như thế rồi. Còn chùa Phúc Khánh trở thành “thương hiệu” của việc dâng sao, giải hạn, cầu an. Phủ Tây Hồ bị biến thành nơi cầu tài cầu lộc, buôn may bán đắt. |
Thần, Phật linh thiêng xin phù hộ người Việt
cứu lấy “hồn” dân tộc
Tâm linh là nhu cầu của mỗi người và nó là chuyện cá nhân. Nhưng khi câu chuyện tâm linh cá nhân được biểu hiện ra hành vi phản cảm của số đông và gây náo loạn xã hội thì quả là chuyện đáng nói và nó đã là câu chuyện văn hóa rồi. Lễ hội Khai ấn đền Trần diễn ra cảnh cướp ấn, leo trèo, chen lấn như năm nay khiến người ta liên tưởng giống như cảnh chợ búa. Chẳng lẽ chốn linh thiêng lại thô tục và bát nháo như vậy sao!
Việt Nam có hơn 8000 lễ hội, phần lớn các lễ hội đó có liên quan đến các tôn giáo (Phật giáo, Đạo giáo…), chẳng lẽ các lễ hội ấy chỉ để con người thỏa mãn cái danh lợi nào đó dưới cái vỏ bọc tâm linh. Tâm linh đích thực chắc hẳn phải hướng tới giá trị chân, thiện, mỹ nhưng xem ra các lễ hội Việt Nam thời gian qua ít lễ hội có được điều này.
Tín ngưỡng và tôn giáo qua bao đời nay, rất coi trọng 3 yếu tố: ‘tâm’, ‘thực’, ‘tinh’. Điều đó có nghĩa là: đến với tín ngưỡng, với tôn giáo, đòi hỏi tâm phải thành, phải thực chất chứ không phải rùm beng, hoa hòe hoa sói; Một nén nhang thơm, một bó hoa tươi không có nghĩa là thấp kém hơn mâm lễ hàng chục triệu đồng, thỉnh cầu tốt đẹp phải đi với hành động cao đẹp; “tinh” là tinh hoa- nghĩa là con người cần phải nhận thức được những tinh túy, sâu sắc của lễ. Hồn dân tộc trong sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng không dung chứa và dễ dàng chấp nhận cái hoa mỹ, hời hợt, hình thức sáo rỗng, vụ lợi.
Có thể thấy đi lễ ngày càng nhiều và không tỉ lệ thuận với tình hình phát triển kinh tế và đạo đức xã hội. Kinh tế mấy năm nay rơi vào khủng hoảng nhưng số người đi lễ lại có xu hướng tăng lên. Đạo đức xã hội xuống cấp nhưng tín ngưỡng tâm linh mà thực chất là không ít mê tín, dị đoan lại lên ngôi.
Xã hội Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi và hội nhâp đang thu nhận những sắc thái văn hóa mới với không ít khả quan song cũng đang thể hiện những rạn nứt, xuống cấp văn hóa, thậm chí là loạn giá trị. Từ sinh hoạt đời thường đến nơi thờ tự, từ sinh hoạt cộng đồng đến biểu diễn nghệ thuật, đâu đâu cũng thể hiện những “lỗi” khó chấp nhận. Giải pháp cũng đã có nhiều nhưng chưa thực sự kiểm soát được phản giá trị; Chưa làm tăng trưởng cái tiến bộ, cái nhân văn để nó thấm, ngấm vào xã hội, vào mỗi người dân.
Cái loạn văn hóa về lâu về dài, hệ quả của nó sẽ là rất nặng nề và nghiêm trọng. Các nhà quản lí thường chú ý đến ổn định chính trị, sợ loạn chính trị, lo giữ thượng tầng kiến trúc mà coi nhẹ loạn văn hóa. Loạn giá trị, loạn văn hóa, nếu không cẩn thận sẽ dẫn đến loạn chính trị.
Nhiều người đổ lỗi loạn văn hóa cho kinh tế thị trường. Thực ra, kinh tế thị trường có những tác động tiêu cực đến văn hóa, ít nhiều làm biến thái văn hóa, nhưng kinh tế thị trường không “giã nát” văn hóa mà chính con người lợi dụng kinh tế thị trường để giã nát văn hóa. Chạy theo lối sống thực dụng, thực dụng trong làm ăn kinh tế, thực dụng ngay cả tâm linh, con người trở nên u mê hoặc chộp giật, miễn sao kiếm được danh, giành được lợi, nhận được phần hơn cho mình.
Lâu nay chúng ta nói đến bản sắc dân tộc, nhưng dường như cứ cho rằng thấy bản sắc dân tộc của người Việt là một cái gì đó xa vời và sâu sắc hơn cuộc sống thường ngày của cộng đồng. Cái bản sắc này đôi khi được đẩy lên trong tìm kiếm của các nhà nghiên cứu văn hóa, chứ không phải là cái hiển hiện trên bề mặt và trong cuộc sống đời thường để ai ai cũng có thể cảm nhận được.
Một dân tộc có bản sắc, một cộng đồng coi trọng hồn dân tộc, có bản lĩnh thì nhất thiết con người trong cộng đồng dân tộc đó sẽ biết xấu hổ với nhau về những hiện tượng phản văn hóa, phải biết lên tiếng báo động và “nói không” với cái xấu, cái thấp kém tràn lan trong xã hội.
Về những hiện tượng phản văn hóa xẩy ra nơi đình chùa, lễ hội thời gian qua, nguyên nhân thì đã rõ nhưng các giải pháp chưa hiệu quả. Hàng rào cảnh sát 2000 người tại lễ Khai ấn đền Trần năm 2014 không chắn được cơn bão khát ấn, “khát” cái lợi, cái lộc; các văn bản, chỉ thị không ngăn chặn được cơn khát khát thực dụng của rất nhiều người.
Quản lý văn hóa không thể theo kiểu cấm lấy được hoặc khắc phục lỗi trên những sự vụ cụ thể mà phải có hiểu biết sâu sắc về văn hóa, cái nhìn toàn cảnh, và giải pháp toàn thể.
Đầu năm đến với Thần Phật, với cái Thiêng là để cầu cái Thiêng minh giám và phù trì những khát vọng chính đáng của cả năm. Tuy nhiên, Thần, Phật chắc chắn không ủng hộ cho những vô cảm, bất nhân, danh lợi thấp kém… Con người tôn trọng Thần, Phật là tôn trọng chính mình, bởi trên bình diện nhận thức, Thần, Phật chính là biểu tượng cho khát vọng sống, năng lực cao đẹp của con người về thế giới của mình.
Nếu cứ phải chứng kiến những hiện tượng sinh hoạt lễ hội phản cảm nơi chốn linh thiêng thờ tự thần thánh như bỏ tiền lên ngai Phật ở chùa Bái Đính, như tranh cướp chen lấn ở Lễ hội khai ấn đền Trần… thì cũng phải bó tay và thắp hương mà khấn vái rằng: Thần Phật ơi, các chư vị có linh thiêng xin hãy phù trợ người Việt cứu lấy hồn dân tộc!
Muốn hưởng thụ được văn hóa thì phải có giáo dục
GS.TS Đỗ Quang Hưng
Hoàng Thu Phố thực hiện
Không bi quan mà cũng chẳng tỏ ra lạc quan, trong phòng khách ấm áp hơi xuân giữa chiều Hà Nội trở gió mùa, GS.TS Đỗ Quang Hưng - Chủ nhiệm Hội đồng tư vấn về Tôn giáo của UBTƯMTTQ Việt Nam đã có buổi trò chuyện với Đại Đoàn Kết về các vấn đề của lễ hội, của tín ngưỡng đang diễn ra với người Việt những ngày tháng này bằng cái nhìn cặn kẽ và thấu đáo của một nhà nghiên cứu tôn giáo.
Lễ hội Suối Mỡ (huyện Lục Nam, Bắc Giang)
Thận trọng trong việc quy kết mê tín
Thưa Giáo sư, chúng ta đang ở tháng Giêng, nghĩa là mùa lễ hội và đi lễ đầu năm của người Việt đang vào hồi "cao điểm” nhất. Nên nhìn điều này thế nào?
GS.TS Đỗ Quang Hưng: Theo tôi, nên nhìn lễ hội ngày nay ở nhiều cách tiếp cận. Về mặt bản chất của lễ hội là một phần của của văn hóa dân gian, một phần của văn hóa tín ngưỡng, và đương nhiên, một phần của tôn giáo nữa. Những cái này nó hòa quyện, đan chéo vào nhau rất uyển chuyển, và cũng rất phức tạp. Ai cũng biết rằng, ở trong lễ hội có phần lễ. Lễ thì dính tới tâm linh, tín ngưỡng, đôi khi thậm chí còn dính tới "phép thuật”. Ai đó nhìn ở góc này mà nghiêm khắc thì cũng có thể đã thấy cái yếu tố cái ta gọi là mê tín. Hội thì phải có trò này, trò khác. Như vậy, từ bao đời nay, đối với mọi quốc gia, mọi dân tộc lễ hội nó là hình thức sinh hoạt văn hóa cộng đồng, nó là nơi bắt chéo của các hình thái tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau, đó là văn hóa dân gian, đó là truyền thống hội hè hiểu theo nghĩa đen. Nếu có điều kiện thì nó phát triển. Còn không thì nó sẽ mất đi.
Thưa ông, có phải vì thế mà cho rằng người Việt hiện nay đang rất mê tín không?
- Tôi suy nghĩ rất nhiều về vấn đề này. Thế nào là "mê tín”? Nghiên cứu nhiều năm, tôi phải thừa nhận định nghĩa về mê tín khó vô cùng. Thuật ngữ mê tín đã được phương Tây bàn rất nhiều trong thế kỷ này nhưng rất khó lý giải trong việc tìm ra một định nghĩa. Sự phát triển tâm linh của con người giờ đã lên rất cao, vì thế các định nghĩa liên quan luôn có sự thay đổi. Cho nên, trong khoa học, ai đó nói cả nước mê tín là vội vàng. Chúng ta cũng phải rất thận trọng trong việc quy kết thành mê tín. Bởi chúng ta cũng đã mắc sai lầm trong lịch sử, đã từng đồng nhất tôn giáo – tín ngưỡng là mê tín.
Và đã dẫn đến nhiều hậu quả đáng tiếc. Hiện nay, vấn đề mê tín còn phức tạp ở chỗ sự giao thoa giữa khái niệm tâm linh, tín ngưỡng, tôn giáo là rất phức tạp, với những biểu hiện trong đời sống cá nhân và cộng đồng. Trong đó, sự "quay trở lại của tâm linh và tâm thức tôn giáo” trên phạm vi toàn cầu, khiến cho đời sống tinh thần của con người và xã hội thêm phong phú và đa dạng. Nhiều hiện tượng rất khó bóc tách cái duy lý và cái siêu nhiên, siêu nghiệm khi xem xét những hiện tượng được gọi là " mê tín”.
GS.TS Đỗ Quang Hưng
Hiện tượng dâng sao giải hạn - một vấn đề phức tạp
Nhưng có những biểu hiện rất khó lý giải, ví dụ như lễ dâng sao giải hạn đầu năm ở các ngôi chùa, thưa ông, hình như không đúng với giáo lý nhà Phật?
- Chúng ta đều biết cúng sao giải hạn, đốt vàng mã đã được giới Phật giáo phân tích và thể hiện thái độ ngay từ trong phong trào "Chấn hưng Phật giáo” nửa đầu thế kỷ 20. Ngày nay, nhiều chức sắc, các nhân vật tên tuổi trong Phật giáo đã nói rõ thái độ của nhà Phật với những hiện tượng như thế. Tuy vậy, trong thực tiễn, đặc biệt là những ngôi chùa ở các tỉnh phía Bắc có vẻ như hiện tượng đốt vàng mã, cúng sao giải hạn ngày một tăng thêm.
Cũng cần nói thêm rằng, khi nhu cầu tâm linh của cá nhân và cộng đồng ngày một tăng thêm và đa dạng thì hiện tượng cúng sao giải hạn cũng trở nên đa nghĩa ở cả chiều cá nhân và xã hội, vì thế một kết luận có tính khái quát rằng, cúng sao giải hạn là "đỉnh điểm”, "biểu trưng” của xu thế mê tín hiện nay của cả xã hội, đúng là có phần vội vã.
Nhưng chúng tôi cũng muốn nhấn mạnh thêm rằng như đã nói ở trên hiện tượng này nếu xét về phương diện xã hội thì đã bộc lộ những hạn chế khó bác bỏ. Mặt khác, hiện tượng này có liên quan chủ yếu đến sinh hoạt tôn giáo, tâm linh của nhà chùa. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, kinh tế thị trường, sự tác động của "tính hiện đại”, đặc biệt là mối quan hệ tôn giáo và kinh tế hiện nay. Ở nhiều nước đã nói đến khuynh hướng "dịch vụ Phật giáo” với hàm ý Phật giáo hiện đại có khả năng tham gia các dịch vụ tâm linh cho xã hội. Đây là một vấn đề khá phức tạp mà chúng ta cần tiếp tục nghiên cứu đầy đủ hơn, song vẫn có thể khẳng định rằng, trong một chừng mực nào đó để khắc phục những mặt hạn chế của hiện tượng như cúng sao giải hạn thì Giáo hội Phật giáo cũng cần có những vai trò tích cực và chủ động hơn.
Lễ hội Yên Tử (Quảng Ninh)
Nhiều lễ hội đã vượt cấp làng xã kéo theo nhiều vấn đề xã hội
Thưa ông, gần đây lễ hội lại trở thành "vấn đề” không chỉ của các nhà nghiên cứu văn hóa, mà nó còn là nỗi bận tâm của cả nền công quyền?
- Đúng vậy. Ở Việt Nam, có lẽ chưa bao giờ như mấy năm nay lại cứ phải tranh luận với nhau là quản lý lễ hội như thế nào cho tốt. Bao nhiêu hội nghị rồi… Có nghĩa rằng, lễ hội đã trở thành vấn đề xã hội, của công quyền, của nhà nước. Xã hội đang cởi bỏ cái nịt áo hơi chặt, giờ mọi người cảm thấy được thỏa mãn hơn. Về mặt thái độ, nếu chúng ta can thiệp hành chính thái quá thì rõ ràng rất không hay. Nhưng oái ăm thay, nhiều lễ hội đã vượt cấp làng xã, cấp vùng, kéo theo đó là rất nhiều vấn đề xã hội. Nhìn vấn đề lễ hội hiện nay không chỉ là văn hóa dân gian, văn hóa tín ngưỡng mà nhìn nó là đòi hỏi xã hội, thậm chí đụng đến vấn đề của chính sách xã hội. Không đơn giản là thái độ với văn hóa truyền thống nữa.
Tại sao bây giờ người Việt Nam lại thích lễ hội? Dùng lý thuyết văn hóa học, tôi tạm gọi lễ hội giờ nó đã thành văn hóa tiêu dùng mất rồi. Cộng đồng người ta thích, người ta được xả phóng tâm linh, xả phóng tình cảm, người ta có thể đến lễ hội để chiêm bái, thậm chí cũng có thể là "xin xỏ”… Đó là nhu cầu. Tại sao giờ nhu cầu đó bung nở? Có một lý do đó là cái hưởng thụ văn hóa cộng đồng nó phát triển mạnh và trở thành phổ biến.
Đi lễ hội cũng là một trong những phương thức thỏa mãn cái tâm linh của cá nhân nhưng vẫn có dấu ấn cộng đồng, mà người Công giáo gọi là "linh đạo” tức là cái cảm giác tạo nên đức tin, vừa thỏa mãn cái cá nhân, vừa là sự giao cảm với cộng đồng. |
Lễ hội cũng tự nó sẽ phải căn chỉnh lại
Khi lễ hội đã vượt thoát cái ngưỡng của văn hóa và trở thành vấn đề xã hội, thì cũng rất cần một cơ chế quản lý sao cho phù hợp, thưa ông?
- Vấn đề lễ hội bây giờ nó đã "căng” hơn trước nhiều. Thời xưa, lễ hội là chuyện của cộng đồng làng xã. Bây giờ, nhiều người bảo hãy cứ trả lễ hội về cho cộng đồng quản lý. Thoáng nghe có vẻ rất hợp lý, nhưng tôi xin hỏi cộng đồng đó là cộng đồng nào? Hiện nay, xã hội phát triển, trong đời sống hiện đại đã sinh ra những lễ hội lớn, mang tầm vóc quốc gia thì trả về cho ai? Như Festival Huế, trả về cho ai? Nếu không phải Nhà nước đứng ra làm thì cộng đồng nào làm được? Cũng có người lại bảo, hội Lim cứ trả về cho làng Lim là mọi chuyện sẽ ổn. Nhưng bây giờ, hội Lim đã trở thành "quả bóng to đùng” rồi, trả về cho làng Lim đâu có ổn. Giờ nó cần một cái áo rộng hơn, chứ cơ thể đã phát triển rồi mà ta vẫn mặc cho nó một cái áo quá chật, làm sao mà ổn thỏa được.
Lễ hội đã không mặc vừa những chiếc áo cũ mang tính truyền thống, dân số cũng đã tăng lên, vì thế, thưa ông, chúng ta cần có những cách tiếp cận mới để hóa giải những vấn đề bức xúc của lễ hội hiện nay?
- Thật ra lễ hội hiện nay đang ào ạt phát triển. Nhưng tôi luôn tin rằng, chỉ dăm ba năm nữa thôi, một số lễ hội cũng tự nó sẽ phải căn chỉnh lại cho phù hợp với xã hội, với tâm thế của đại đa số nhân dân.
Mặt khác, khi con người có ý thức tốt hơn, trưởng thành hơn sẽ có cái nhìn khác đi. Nhưng nếu vai trò của các đơn vị quản lý không lập lại trật tự thì không thể cứ để mãi thế. Để mà phải trả giá thì đâu còn ý nghĩa.
Trở lại với vấn đề của cá nhân, đó là vấn đề rất cốt lõi. Vai trò của tâm linh lễ hội trong đời sống con người, trước hết là cá nhân. Chúng ta cũng phải thừa nhận là ở Việt Nam, trong một thời gian rất dài do hoàn cảnh lịch sử, đời sống tâm linh cá nhân ít được quan tâm. Bây giờ, xã hội phát triển, cởi mở, kinh tế phát triển người ta quay trở về với lễ hội. Trong thế kỷ 21 này, vấn đề tâm linh trở thành đối tượng nghiên cứu. Nhu cầu tâm linh được coi là cận tôn giáo. Nó rất đặc biệt. Nếu lệch đi một chút là có thể bị coi là mê tín. Thế giới coi tâm linh là một thứ siêu tinh thần. Đi lễ hội cũng là một trong những phương thức thỏa mãn cái tâm linh của cá nhân nhưng vẫn có dấu ấn cộng đồng, mà người Công giáo gọi là "linh đạo” tức là cái cảm giác tạo nên đức tin, vừa thỏa mãn cái cá nhân, vừa là sự giao cảm với cộng đồng.
Thay vì việc các nhà nghiên cứu, báo chí lên án, kêu ca về sự biến tướng của lễ hội, mọi người phải cùng nhau tìm ra nguyên nhân để khắc phục. Bản sắc lễ hội chỉ được giữ gìn, vun đắp của tất cả cộng đồng, thưa ông?
- Tâm lý cộng đồng lôi cuốn trong việc tham gia lễ hội hay đi lễ đầu năm của người Việt hiện nay là có. Nhưng nếu nhìn theo một góc khác, ta cũng thấy nó rất tuyệt vời. Xưa, nhiều người chỉ biết chùa Hương qua thơ của Nguyễn Nhược Pháp hay những bức ảnh. Còn nay, việc đi lại quá dễ dàng. Điều kiện kinh tế có, tàu xe thuận tiện, già trẻ, lớn bé đều có thể tận mắt chiêm bái Hương Sơn. Hay bây giờ, trẻ con thành phố cũng có thể đi xem lễ hội của bà con dân tộc thiểu số. Đó là những hình ảnh rất đẹp, rất đáng biểu dương, chỉ có điều nó không được người ta chú ý và tôn vinh.
Chúng ta nên nhìn nhiều mặt. Lên án thì dễ thôi, nhưng như Marx từng nói, muốn hưởng thụ văn hóa thì phải có giáo dục. Mà thái độ hưởng thụ văn hóa là một điều rất khó để dạy bảo. Chúng ta phải kiên nhẫn chờ đợi. Sự tuyên truyền đúng đắn ở ta còn thiếu, chưa tuyên truyền được là bao.
Trân trọng cảm ơn Giáo sư!
Lưu giữ lễ hội để bảo vệ bản sắc
George Burchett là con trai của cố nhà báo Wilfred Burchett người Úc, một trong những phóng viên phương Tây có mặt đầu tiên tại chiến khu Việt Bắc. Từ năm 2011, George Burchett cùng vợ chuyển hẳn về Hà Nội - nơi ông ra đời năm 1955 - để sinh sống và sáng tác.
TT - Tôi hiện đang sống ở làng Yên Phụ (Hà Nội). Đó là một nơi vẫn còn giữ những nếp sinh hoạt làng, cộng đồng truyền thống.
Nhiều người hứng nước thạch nhũ để cầu may ở động Hương Tích tại lễ hội chùa Hương 2014 - Ảnh: Tiến Thành
Ở đây mọi người sống với nhau như một gia đình mở rộng. Người dân nơi đây vẫn còn lưu giữ được cảm xúc ấm áp và sự liên hệ, gắn kết với nhau chứ không như ở nhiều thành phố lớn khác trên thế giới với phần lớn mọi người chỉ sống trong căn hộ hay ngôi nhà của riêng mình rồi xem tivi và đang đánh mất dần mối gắn kết gia đình, làng xóm.
"Tôi biết có một số ý kiến cho rằng cần phải chú trọng khâu tổ chức hơn. Điều đó có thể là cần thiết, nhưng chúng ta phải thận trọng để sao cho không biến các lễ hội dân gian mang tính tự nhiên và truyền thống thành các buổi trình diễn cho du khách xem. Bởi vì khi đó ý nghĩa và sức hút của lễ hội đó sẽ không còn, bản sắc của địa phương và của từng dân tộc cũng dần phai nhạt" George Burchett |
Mỗi năm người VN ở khắp nơi trên cả nước tổ chức hàng ngàn lễ hội dân gian. Ở làng Yên Phụ cũng có lễ hội riêng. Điều này gần như không còn diễn ra nhiều như vậy ở các nước phương Tây hiện đại khi người dân sống ngày càng xa cách nhau hơn. Tết Nguyên đán của người Việt chính là dịp lễ hội quan trọng để mọi người củng cố mối gắn kết trong gia đình, bè bạn với nhau, để bày tỏ lòng thành kính và biết ơn tổ tiên. Tôi thấy người lớn, trẻ con đều đóng bộ thật đẹp để thăm nhau trong những ngày đầu năm mới. Đó là một truyền thống đẹp đẽ.
Tôi từng có dịp tình cờ tham dự lễ hội cầu mưa của người Lô Lô, lễ hội đua ngựa của người Mông ở Hà Giang và đến đền Ba Vua (Tam Cốc, Ninh Bình)... Điều tôi cảm nhận từ các lễ hội ấy là các bạn có một nền văn hóa dân gian vô cùng giàu có và phong phú. Các lễ hội chính là cách người dân ở những vùng khác nhau kỷ niệm và tôn vinh văn hóa của mình.
Nhiều nét văn hóa Việt nổi tiếng với bạn bè thế giới lại có nguồn gốc từ chính các lễ hội dân gian, truyền đời như vậy, ví dụ như múa rối nước. Bản thân tôi không phải là người nghiên cứu về tôn giáo nên tôi nhìn những lễ hội này dưới con mắt văn hóa. Tôi rất thích tham gia các ngày lễ ở chùa chiền vì vừa có thể tìm hiểu về kiến trúc đền chùa, mặt khác giúp tôi cảm nhận được mối liên hệ của mọi người với nhau, của mọi người với cội nguồn tinh thần, với ông cha và giúp chính tôi hình thành sợi dây liên kết với những người khác...
|
Nghệ sĩ George Burchett |
Tôi biết có một số người thường cầu tiền tài một cách thái quá như rải tiền lẻ khắp nơi, nhét tiền cả vào tay thần thánh. Báo chí VN cũng phản ánh chuyện người dân nhét tiền lẻ ở mọi nơi trong đền chùa, thắng cảnh... và đa số người Việt không đồng tình với điều đó. Tôi nghĩ tự thân điều ấy cũng cho thấy những hành vi không đẹp ở lễ hội đang bị lên án. Hi vọng rằng cùng với thời gian và ý thức của từng người, những lễ hội đó sẽ dần loại bỏ được những điều chướng tai gai mắt. Điều quan trọng là tất cả chúng ta - không riêng gì chính quyền - phải có ý thức trân trọng giá trị tinh thần và truyền thống của lễ hội. Lễ hội phải là tài sản chung của mọi người.
Tôi có nghe thấy một số thông tin về tình trạng quá tải, móc túi... trong các lễ hội lớn. Nhưng khách quan mà nói, chuyện này không chỉ xảy ra ở VN. Một số nước như Ý, Tây Ban Nha còn lưu giữ nhiều lễ hội truyền thống và ở đó cũng không tránh khỏi những điều như các bạn đang gặp phải. Mặc dù có những chuyện không hay như vậy nhưng tôi cho rằng đó không phải là văn hóa của người Việt, không mang tính phổ biến và đặc trưng. Điều quan trọng là chúng ta giữ sao cho các lễ hội thể hiện và củng cố bản sắc, giúp con người hiện đại kết nối được với quá khứ và truyền thống, đồng thời tạo không khí vui tươi và tưng bừng để mọi người cùng được thưởng thức cả phần lễ lẫn phần hội một cách trọn vẹn.
Ông Philippe Bouler (nhà sản xuất nghệ thuật người Pháp): Lễ hội truyền thống ngày càng bị thương mại hóa Tôi đã có 15 năm gắn bó với việc tổ chức Festival Huế. Tôi thấy việc các lễ hội truyền thống ngày càng bị thương mại hóa không chỉ diễn ra ở VN. Chẳng hạn ở phương Tây, lễ Giáng sinh ngày càng bị biến thành một sô diễn thương mại khổng lồ trong khi gốc gác của nó là một ngày lễ tôn giáo. Điều chúng ta cần lưu ý ở những lễ hội này là các gia đình nghèo và trẻ em các nơi phải cùng được tận hưởng những lễ hội đó như những người có điều kiện vật chất tốt hơn và các lễ hội phải giữ được đúng ý nghĩa tinh thần sâu sắc như vốn có. Tôi có nhiều hiểu biết và kinh nghiệm hơn với các lễ hội nghệ thuật. Bởi thế, khi nghĩ tới các lễ hội ở VN, điều đầu tiên hiện lên trong trí óc tôi chính là những tháng ngày tổ chức Festival Huế lần đầu vào năm 1999 để chuẩn bị cho festival đầu tiên diễn ra năm 2000. Một lễ hội quy mô như vậy, lại diễn ra ở một thành phố cỡ như Huế, có tác động rất sâu sắc đến người dân cũng như kinh tế thành phố. Nó có vai trò như một yếu tố gắn kết người dân. Để làm được điều đó, chúng tôi phải dự tính hàng chục thông số khác nhau như tính nghệ thuật, kỹ thuật, ngân sách, hậu cần, lễ tân, đi lại, đỗ xe, quan hệ công chúng, bán vé, truyền thông, tài trợ... và đòi hỏi phải lập kế hoạch rất kỹ lưỡng. Nhưng tôi nghĩ rằng đôi lúc chúng ta quên mất mục đích của một lễ hội nghệ thuật là để gặp gỡ nghệ sĩ và khán giả. Việc gặp gỡ, giao lưu với nhau mới chính là điều thiết yếu trong các lễ hội như vậy. |
Nguồn: http://tuoitre.vn, http://daidoanket.vn và http://vanhoanghean.com.vn