Nghe vẻ nghe ve,
Nghe vè bài tới.
Cơm chưa lập xới,
Trầu chửa kịp têm.
Tao đánh ba đêm,
Thua ba tiền rưỡi.
Về nhà chống chửi:
“Thằng Móc, thằng Quăn,
“Đánh sao không ăn,
“Mà thua lắm bấy?”
Tui lấy tiền cấy,
Cho đủ mươi ngày.
Bảy Thưa, Bảy Dày,
Cùng là Ngạt kéo (?)
Chị em khéo léo,
Dễ mượn dễ vay.Thân tui ngày rày,
Dầm mưa dãi nắng.
Chị em có mắng,
Tôi cũng ngồi đây.
Nó là tuồng dày,
Nó cũng a dua.
Ăn thì tôi vùa,
Thua thì tôi chịu.
Bài vè Bài tới trên đây được Trương Vĩnh Ký công bố trên Thông loại khóa trình (Miscellanées) hồi năm 1888(1). Việc dị bản của bài vè phổ biến cả Nam Bộ lẫn Trung Bộ(2) đã chỉ ra không gian phổ biến của trò chơi dân dã này. Có người cho rằng ở Nam Bộ cũng có chơi bài chòi, nhưng theo tác giả Đại Nam quấc âm tự vị thì cuối thế kỷ XIX ở đây có chơi bài tới (với các loại bài giấy và bài cây khác: tứ sắc, bài phụng, bài phi, bài tam cúc, bài phá hấu, bài xá hổ…) mà không thấy nói đến bài chòi(3). Như vậy, bài tới là trò chơi phổ biến khắp Nam Trung. Điều cần lưu ý là bài tới truyền thống được chơi bằng bộ bài với các con bài giống hệt như bài chòi, chứ không phải loại bài tới chơi bằng bộ bài Tây như sau này.
I. Bài tới - Chơi cả ngày lẫn đêm
Cụ thể cỗ bài để chơi gồm 60 quân (con bài). Bộ bài tới được chia làm ba pho, mỗi pho có chín cặp và ba cặp yêu. Tên gọi các con bài ở Bình Trị Thiên, Bình Định, Quảng Nam có khác nhau. Ở Quảng Nam, tên gọi như sau:Pho văn gồm chín cặp: Chín gối, Bánh hai, Bánh ba, Dái voi, Năm rún, Sáu tiền, Bảy liễu, Tám miểng, Chín cu.
Pho vạn có chín cặp: Học trò, Nhì móc, Tam quăng, Tứ cẳng, Ngũ trưa, Lục trạng, Thất vung, Bát bồng, Cửu chùa.
Pho sách gồm các con: Nọc thược, Nhì nghèo, Ba gà, Tứ gióng, Năm dày, Sáu nút, Bảy sưa, Tám giây, Đỏ mỏ.
Và ba cặp yêu là: Ông ầm, Thái tử, Bạch huê.
Bài tới là một lối chơi bài phổ biến và bình dân nhất, không phải chỉ chơi trong ngày Tết mà những lúc rảnh rỗi người ta bày sòng bài tới trên bộ ngựa, chiếc chõng tre để chơi. Cái hay của trò chơi bài tới là ở tính chất thân hữu, tạo nên không khí đầm ấm trong gia đình, chòm xóm. Mặt khác, cách thức chơi cũng đơn giản, dễ học, dễ bắt chước, không đòi hỏi phải rành rọt lề luật phức tạp như các loại bài bạc khác.
Số tay chơi cũng linh động, bốn hoặc sáu người đều chơi được. Bộ bài 60 con được chia cho hai phe, mỗi phe ba người, mỗi người lấy sáu con bài, xây bài trên tay. Người chọn đi bài, trước tiên rút một con bài bỏ ra, lệ cấm dùng các con bài có dấu triện đỏ (Ông ầm, Thái tử, Đỏ mỏ). Những tay bài khác, nếu có con bài giống con bài chợ (bài vừa được đánh ra) thì rút con ấy ra bắt và đi một con bài khác. Các tay bài khác lại tiếp tục bắt và đi cho đến khi có một tay bài tới là hết một ván bài. Tới bài tức là khi trên tay chỉ còn hai lá bài và lúc đó, người đi bài đã đi đúng tên một trong hai con bài mà mình đang chờ để tới. Luật chơi bài tới có qui định là không được chực con bài có dấu triện đỏ. Người tới được lấy phần tiền của mình vừa mới đậu chung. Người đi bài đầu tiên tới là khi người ấy chỉ còn có một con bài để chực và họ được lấy hai phần tiền.
II. Bài chòi: Trò vui ngày Tết
Bài tới dù gì cũng là trò chơi bài bạc dù chơi theo lối chơi vui hay ăn thua. Còn bài chòi là trò chơi, tuy cũng có ăn thua may rủi, nhưng đó quả là cuộc vui chơi thực sự của cộng đồng. Phải chăng xu hướng trình thức hoá và công cộng hóa là kiểu thức phát triển của các loại trò chơi của xứ ta - nơi các hoạt động chủ yếu vào cộng đồng thôn làng làm chính. Từ đánh cờ tướng với hai người và bàn cờ tướng đã biến đổi thành trò chơi cờ bỏi, cờ người ở sân đình, ở nơi công cộng có nhiều người tham dự, tích hợp nhiều yếu tố trình diễn là một ví dụ. Từ việc đánh bài tổ tôm biến thành trò chơi tổ tôm điếm là một ví dụ khác. Ở đây, bài tới phát triển thành bài chòi cũng thông qua con đường công cộng hóa và trình thức hóa cao, tích hợp cả trò chơi/ luật chơi và nghệ thuật diễn xướng.
Khác với bài tới, bài chòi được tổ chức ở ngoài trời, ở sân đình hay một nơi thoáng rộng mát mẻ. Người ta dựng mươi cái chòi bằng tre như những chòi giữ bắp, giữ dưa, phân làm hai dãy, ở giữa là chòi của “anh hiệu”. Anh hiệu là người có tài hô bài chòi - độc xướng những bài văn vần lục bát có nội dung không chừng, nhưng phải gắn với tên con bài mà anh ta rút được từ cái ống đựng thẻ. Ngoài ra, ban tổ chức chơi bài chòi gồm ba người chạy hiệu thu cờ, bán cờ, phát cờ; một thủ quỹ và một ban nhạc gồm nhiều nhạc cụ: trống cơm, trống cái, đờn cò, trống chầu. Trống chầu có chức năng cổ động hữu hiệu và còn dùng để thưởng chầu, tức gióng chầu liên tục để mừng người được trúng quân bài.
Tất cả công việc chuẩn bị cho cuộc chơi bài chòi thường phải hoàn tất vào chiều cuối năm. Tối hôm đó, khi việc cúng rước ông bà đã xong xuôi thì một số nơi có lệ buộc phải mở hội đánh bài chòi. Đây là một nghi lễ có tính chất tượng trưng: người ta chỉ đánh vài ván để lấy lệ, lấy ngày - và phải chăng đây là buổi diễn phúc khảo để có sơ sót gì thì còn tìm cách khắc phục hay là tàn dư của việc thực hành nghi lễ đón năm mới của bài chòi ngày xưa? Điều lưu ý trước khi chơi bài chòi khai cuộc, hương chức làm lễ cúng Thổ địa, thần linh và cầu khẩn điều tốt việc lành vào năm mới. Hôm sau, cuộc chơi bài chòi được khai mạc từ sáng sớm. Tiếng trống vang lên thôi thúc dân làng đến chơi bài chòi. Các tay chơi bài chòi lần lượt chiếm các chòi và sau đó, những người chạy hiệu mang bài và “cờ ngân” trên khay đến tận chòi để bán. Lá “cờ ngân” trị giá cho số tiền góp của mỗi chòi cho một ván bài. Nếu có chín chòi thì có tám “cờ ngân”. Cờ ngân thường dùng màu đỏ. Cờ ngân còn lại được dùng cho ban tổ chức cuộc chơi, coi như một thứ “tiền xâu”. Ngoài “cờ ngân” còn có một số “cờ bài” đuôi nheo ngũ sắc đi theo bài con. Bán xong, Anh Hiệu cất tiếng hô một bài lục bát, hoặc song thất lục bát dài để “giáo đầu trò” và cất giọng hô con bài đầu tiên của buổi chơi được rút ra từ ống tre treo (hoặc cột, hoặc đóng đinh) ở phía sau lưng, cao hơn đầu anh hiệu một chút:
- Hiu hiu gió thổi ngọn tre,
Chín chòi lẳng lặng mà nghe "bài chường” (4).
Sau con “bài chường” là những con bài kế tiếp khác. Ở các chòi, mỗi khi bài đã tới đến con thứ ba, thì gõ mõ lên ba tiếng, có chòi lại ré lên “tới! tới!”. Nghe tiếng ấy, người chạy hiệu liền đem một cây cờ đuôi nheo cùng số tiền mà họ được thưởng chạy đến giao cho người chơi. Chòi “tới” lãnh cờ cắm lên mái chòi cho mọi người chiêm ngưỡng “vận hên đầu năm”. Chòi nào tới đủ ba con bài, tức lãnh được ba cờ đuôi nheo trước, là chòi đó tới, tức là ăn ván đó. Chòi tới được ban tổ chức cuộc chơi trao cho một cờ lớn, và tiếng trống gióng lên để “báo tin mừng”. Có chòi còn bỏ tiền mua pháo đốt để tỏ rõ sự hào hứng và cũng để mọi ngưới có mặt cùng chung niềm vui năm mới.
Cái thú vị của trò chơi bài chòi không phải là việc ăn thua mà là được hội nhập vào một sinh hoạt văn nghệ. Anh hiệu là diễn viên chính. Anh hô những bài lục bát trên nền nhạc của giàn nhạc tấu. Các câu lục bát anh hô lên có thể là những câu cũ đã quen tai từ những lần chơi trước ở đâu đó và cũng có những câu mới mẻ đầy thú vị, hay những câu rất dí dỏm. Ví dụ:
- Một anh để em ra
Hai anh để em ra
Về em buôn, em bán
Trả nợ bánh tráng, trả nợ bánh xèo
Còn dư trả nợ thịt heo
Anh đừng lầm em nữa,
kẻo mang nghèo vì em.
Nhì nghèo là huớ Nhì nghèo!
- Chiều chiều con quạ lợp nhà
Con cu chẻ lạt, con gà đưa tranh
Ai làm em bén duyên anh
Cho mây lấy núi, cho trăng thanh lấy gió ngàn.
Ba gà huớ Ba gà
- Một hai bậu nói rằng không
Dấu chân ai đứng bờ sông hai người
Tứ cẳng huớ Tứ cẳng
- Chú giỏi sao chú hổng đi thi
Cứ ăn xó bếp, lại ngủ khì chuồng trâu
Chú ơi! Tui chẳng ứng đâu
Trạng không xứng trạng, có hầu cũng uổng công
Lục trạng huớ Lục trạng
- Ngồi buồn nghĩ chuyện xưa nay
Trai tài gái sắc sao tày người xưa
Đời nay ăn sớm ngủ trưa
Ngồi lê đôi mách bỏ thưa việc nhà
Bảy thưa huớ Bảy thưa
- Nghèo mà làm bạn với giàu
Ngồi xuống đứng dậy nó đau cái đì
Bạch huê huớ Bạch huê
- Tay bưng dĩa muối, nắm lầm
Vừa đi vừa húp té ầm xuống mương
Ông ầm huớ Ông ầm
Nói chung, anh hiệu dùng đủ thứ “văn liệu” để thêm bớt cốt sao cho câu hô bài của mình có dính líu hoặc âm, hoặc nghĩa, hoặc hình tượng, biểu tượng đến con bài mình bốc ra. Tài năng của anh hiệu là làm cho câu hô bài của mình đạt được một ý nghĩa thẩm mỹ nào đó hay một biểu tượng đạo lý chính đáng và đôi lúc nêu lên quan điểm chê khen, châm biếm một vấn đề thời sự đang diễn ra ở địa phương:
- Ngồi buồn nghĩ giận quan Tây
Bắt dân đi lính, xe dây buộc mình
Phương trời mù mịt linh đinh
Biết người (ở nơi) quê kiểng thấu tình cho chăng
Tám giây huớ Tám giây
Tuy nhiên, việc chú ý đến nội dung những câu hô bài chòi là có mức độ, vì một lẽ đơn giản, đây là một sinh hoạt nặng về giải trí. Chính vì vậy, anh hiệu thường hay ứng tác những câu có tính chất dí dỏm, khôi hài; đôi lúc có những câu “tiếu lâm chay” lẫn những câu “tiếu lâm mặn”. Chẳng hạn như con bài Nọc thược được anh hiệu “diễn ca” rằng:
- Tiếc công mẹ đẻ cha nuôi
Thân con không giữ họ lùi thâu đêm
Đàn ông có một cái nêm
Đàn bà nứt nhụy lại thêm mẻ đèn
Đàn bà sáng rực ao sen
Đàn ông giữ của… nọc chèn hai bên
Nọc chèn huớ Nọc chèn.
Tất nhiên, người chơi đều chấp nhận lệ chơi nên chả mấy ai trách cứ anh hiệu mà chỉ cười lăn cho đã cái thú “Rủ nhau đi đánh bài chòi, để cho con khóc mà lòi rún ra”!
Người chơi bài chòi, rõ ràng là không phải tính chuyện ăn thua đến mức bị phê phán như nội dung vè Bài tới nói trên mà để chơi cho “vui vẻ ba ngày xuân”, để được thưởng thức văn nghệ. Anh hiệu có tài là người biết nhiều truyện tích, tích luỹ được nhiều văn liệu để ứng tác. Tất nhiên là phải có giọng hát hay, bộ mặt ra tuồng sinh động. Do đó, những con bài được hô với một bài lục bát dài dằng dặc. Người chơi bài đã hóa thân thành khán giả của một loại hình sân khấu “chòi” này. Người chơi có lúc cười bể bụng, có lúc lại lặng lẽ trầm ngâm nghe những lời hô khơi gợi nỗi xót xa về những thân phận:
- … Bác nhìn mặt cháu (lệ) tuôn rơi
Không cha chẳng mẹ chơi vơi một mình
Nắm xương tàn xơ xác điêu linh
Mới hai tuổi rưỡi gia đình vốn không
Vì thương con bác gọi bác bồng
Mẹ con mất sớm, đừng trông mẹ về
Chốn huỳnh tuyền cha con an giấc mỏi mê
Lâm sơn cốt nhục an bề con ơi…
Bát bồng huớ Bát bồng.
Có lúc họ lại theo dõi một tích tuồng rút từ các bài vè (Chàng Lía, Cô Thông Tằm…), hay các truyện thơ bình dân (Phạm Công-Cúc Hoa, Lâm Sanh-Xuân Nương, Mã Phụng-Xuân Hương…). Hoặc những đoạn diễn ca các tình tiết rút ra từ các vở tuồng (Sơn Hậu, Trảm Trịnh Ân, Phụng Nghi Đình…).
Việc mở rộng phạm vi sử dụng các văn liệu cũng như mở rộng phạm vi phản ánh trong ứng tác đã khiến cho tập hợp những bài hô bài chòi trở thành một tập hợp có nội dung phong phú, đa dạng vừa đáp ứng nhu cầu vui chơi vừa thoả mãn yêu cầu thẩm mỹ-văn học của người dân. Mặt khác, sự tiếp nhận làn điệu dân ca, những điệu nhạc cổ, các giọng điệu của tuồng v.v… đã khiến cho việc tham dự trò chơi này không chỉ là trò chơi đơn thuần, mà còn là sự thưởng lãm văn nghệ. Anh hiệu đã trở thành diễn viên trên sân khấu là chiếc chòi đơn giản ấy, với những đoạn trích các tình tiết rút từ tuồng tích hát bội, truyện thơ hoặc truyện Tàu…
- Lưu Kinh Đính (nói lối)
Sông Tả kỳ tích
Lưu Kinh Đính ngã danh
Niên kỷ vừa đôi tám xuân xanh
Kinh luân đủ lục thao, tam lược
Thuở trước thầy ta đã dặn:(Bài chòi):
Thầy ta thánh mẫu Lê San
Thầy cho đồ đệ nguồn cơn thăm nhà
Mấy lời sư trưởng dặn ta
Sông Tả San tới đó tạc ra "chiêu phu bài”
Trước thời gặp lại trúc mai
Sau thời giải giá cứu ngài Triệu Vương
Bài phu tạc để một trương
Giả đò kén khách qua đường mới xong
Phải duyên ta bắt làm chồng
Vái cùng Nguyệt Lão tơ hồng xe dây…
- Cao Quân Bảo (bài chòi)
Tống trào Cao Quân Bảo tài lành
Tai nghe bị bắt, chân thành trốn đi
Thọ Châu giải giá một khi
Giải vây Đường quốc phen nì mới an
Lên yên giục ngựa băng ngàn
Quan san cách trở giữa đường gặp mưa(…)
Chiêu bài phu tạc giữa đường
Kén trai hào kiệt nam thanh đua tài
Cao Quân Bảo đành phá "chiêu phu bài”.
"Sá chi thục nữ đua tài nam nhi,
Chữ rằng: nữ tú vu quy
Làm thân con gái vội chi lấy chồng
Ta đây tức giận trong lòng
Phá tan bảng gái kén chồng coi chơi”
- Lưu Kinh Đính: (nói lối)
Thân tướng phá bài phu
Thiếp binh lai vấn tội
Chàng đi đâu phóng vội
Đứng lại cho thiếp hỏi han
(Bài chòi): Cả kêu bớ gã đi đàng
Tài tình chi đó dám phá tan bảng này
Người đâu xiêu lạc tới đây
Cha mẹ khá tả, tên họ rày khá phân.
Chính nhờ sự tiếp nhận các điệu ca cổ (xuân nữ, xàng xê, cổ bản, hồ quảng…) nên hô bài chòi đã hội được vốn liếng căn bản để sau đó, khoảng giữa thế kỷ này, nó trở thành một loại hình sân khấu - có tên gọi Ca kịch bài chòi. Đó là việc phát triển của thành tố diễn xướng của trò chơi bài chòi. Còn bản thân hình thức trò chơi này cũng tích hợp với các hình thức chơi khác để biến đổi thành các trò chơi khác. Trò đánh bài thai là một ví dụ.
III. Bài thai và thai đố
Ở xứ ta đâu đâu cũng có trò đố nhau: kẻ đưa ra câu đố, người kia giải đáp. Loại trò chơi này là thử tài ức đoán (từ Hán Việt gọi là XAI). Câu đố gọi là thai/câu thai; và xướng câu đố lên theo một điệu nhất định gọi là “hô thai”. Trương Vĩnh Ký (trong Thủ bút Trương Vĩnh Ký)(5) có đề cập đến trò chơi Thai đố: “Nhơn ngày nguyên, trăng thanh gió mát, tạnh ráo, chủ bày ra, kêu anh em tới chơi. Chọn một người văn hay chữ giỏi làm thầy thai ra đề, cầm trống cho người ta nói thai. Người ta phất một cái lồng đèn vuông bằng giấy trắng. Bốn phía có viết đề thai dán lên trên đó. Đề thai hoặc “xuất danh”, “xuất vật dụng, khí dụng”, “hay xuất mộc”, “xuất thú”, hoặc “xuất tục diêu”, “bình Tuý Kiều”, hay “xuất điển”, “chiết tự”… Ai nói trúng được, trúng ý đề thai nêu ra thì được thưởng vật gì như quạt, khăn vuông, hầu bao, giấy, mực v.v… Nói trúng thì đánh một hồi trống, nói trật thì gõ tang trống”. Qua điều tra thực tế, chúng tôi biết được trò chơi này rất phổ biến trong các dịp Tết, lễ cúng Kỳ yên ở đình làng người Việt và người Minh Hương ở Nam Bộ và còn tồn tại trong những thập niên đầu thế kỷ XX.
Đánh bài thai là sự tích hợp trò thai đố vào bộ bài tới/ bài chòi. Người ta đánh tất cả 30 con bài lên một tấm bìa cứng. Người cầm cái “bí mật” đặt con bài thai mình định đố vào cái đĩa và lấy bát úp kín lại (như trò xóc đĩa) rồi bắt đầu hô thai. Câu thai cốt gợi ra một cách mông lung nào đó về tên con bài thai cốt để đánh đố người chơi. Ở Bình Trị Thiên - cái nôi của trò chơi này - câu hô thai mang âm điệu rất…hò mái nhì: réo rắt, du dương. Nghe xong câu hò, người tham dự đặt tiền vào chỗ con bài mà mình đoán định. Các con chơi đặt tiền đâu vào đó thì cái mở bát ra, trình con bài thai và cắt nghĩa: đưa ra lý sự để lý giải sự ứng hợp của “nội dung” câu thai và con bài thai đó. Công việc kết thúc: cái lùa tiền của các cửa đặt sai và chung tiền cho người đánh trúng (lệ 1 ăn 8 và 1 ăn 9). Xong thì giấu con bài thai khác và cất giọng hô câu thai mới.
Nói chung, câu thai, tuỳ theo “tài năng” của người cái, mà có câu thai có độ khó dễ đoán định khác nhau. Ví dụ:
- Chồng chết
Gặp ba ngày Tết
Mượn cuốc mà chẳng ai cho
Hai tay bốc cát tra mồ
Tình chàng nghĩa thiếp: Hán, Hồ biệt ly
(con Nhì nghèo)
- Con xa mẹ thèm ăn khát bú,
Vợ xa chồng đi thú biệt ly.
Đêm nằm ấp lấy hài nhi,
Con hời, con hỡi: cha con đi phương nào?
(con Gối)
- Thiếp thương chàng đừng cho ai biết,
Chàng thương thiếp đừng tỏ ai hay
Thế gian nhiều kẻ lá lay,
Cực chàng chín rưỡi, cực em đây mười phần
(con Đỏ mỏ) (6)
Đó là những câu thai… rẻ. Còn câu thai mắc mỏ thì lý sự coi ra hết sức có tài mồm mép. Ví dụ con Trường ba được hô rằng:
Chàng nghe thiếp phân mấy lời sau trước,
Trở lui về mượn người mai chuốt mối dong
Qua thưa thầy, thầy không đẹp dạ,
Thưa mẹ mẹ chẳng vừa lòng.
Mẹ với thầy chê chàng ở xứ quê mùa thôn dã
Nên chi đôi đứa mình chịu chìm nổi long đong với rứa hoài!(7)
Lời giải thích của cái: Con Trường ba vì thầy với mẹ không vừa lòng nên duyên đôi ta ba chìm bảy nổi.
Trời ạ, thai kiểu đó thì có trời mà đoán ra cái con bài gì. Ấy thế nên bài thai quả là trò đấu trí gay cấn, nó có sự lôi cuốn riêng.
Nói chung, trò chơi bài tới trên nền của từng bối cảnh văn hóa - nghệ thuật dân gian đã hoá thân thành bài chòi sôi nổi, quy mô hoặc tích hợp với trò chơi thai đố và xóc đĩa/ chẵn lẻ để thành trò chơi bài thai đặc sắc. Lề luật sinh thành của các dạng thức văn hóa - nghệ thuật là thích ứng với cuộc sống, thích ứng với thế nhân trong từng không gian và thời gian nhất định. Ngày nay, khi đời sống cộng đồng bị thu hẹp lại, bài chòi tuồng như quay về với các nhóm nhỏ bằng hình thức “bài chòi ghế”, tổ chức ở các quán cà-phê, tiệm ăn hay tư gia. Giờ đây anh hiệu cũng ít hô hát đi, người chơi cũng muốn kết thúc ván bài cho lẹ. Chơi bài coi ra… sắp thành đánh bài.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
(1) Trương Vĩnh Ký: Miscellanées. Imprimerie Commercial Rey & Curiol, Sai Gon,1888, No 4, tr.11.
(2) Xem - Huỳnh Ngọc Trảng: Vè Nam Bộ, NXB Đồng Nai, 1998, tr.166-267.- Trọng Toàn: Hương hoa đất nước, QI, Nxb Bốn Phương, Sài Gòn, 1956, tr.58.
- Tôn Thất Bình: Lễ hội dân gian, Sở VH-TT Bình Trị Thiên xb, 1998, tr.59-60.
(3) Huỳnh Tịnh Của: Đại Nam quấc âm tự vị. Impr. Rey & Curiol & Cie, Sai Gon, 1895, T.I, tr.24.
(4) Các câu hò bài chòi dẫn lại từ Địa chí Đại Lộc (Quảng Nam), NXB Đà Nẵng, 2000.
(5) Tài liệu ở Thư viện Khoa học xã hội (TP.HCM). Hộp II, tập 25.
(6) Dẫn theo Trần Việt Ngữ và Thành Duy: Dân ca Bình Trị Thiên, NXB Văn học, H, 1967, tr.141-146.
(7) Theo Tôn Thất Bình, sđd, tr.64.
Nguồn: www.chuyenphapluan.com