TIỂU VÙNG VĂN HOÁ HÀ NỘI
Trong các đô thị của Việt Nam, Thăng Long - Hà Nội là đô thị có lịch sử lâu đời nhất. Ngay từ năm 258 trước Công nguyên, khi An Dương Vương Thục Phán thành lập quốc gia Âu Lạc và cho xây kinh đô tại Làng Chủ ở Cổ Loa, huyện Đông Anh ngày nay, vùng đất Hà Nội đã bắt đầu đóng vai trò trung tâm đầu não về hành chính, chính trị, kinh tế và văn hoá của cả nước. Trong thời Bắc thuộc, mỗi khi đánh đuổi được quân xâm lược, các vì vua cũng thường thiết lập kinh đô tại nơi đây: thời Trưng Vương, ở Mê Linh, thuộc huyện Mê Linh ngày nay; thời Lý Nam Đế, ở cửa sông Tô Lịch, thuộc quận Hoàn Kiếm ngày nay. Vào thế kỷ thứ VII, nhà Đường cũng chọn nơi đây làm trung tâm hành chính của An Nam Đô hộ Phủ, và cho xây thành Đại La để làm lỵ sở. Năm 939, sau khi giành độc lập, Ngô Vương lại tái lập kinh đô ở Làng Chủ (Cổ Loa, huyện Đông Anh). Năm 1010, vua Lý Thái Tổ quyết định dời đô từ Hoa Lư về Đại La và đổi tên thành Đại La ra thành Thăng Long, lại gọi là Nam Kinh. Từ đó, thành Thăng Long, toạ lạc trên địa bàn các quận Ba Đình, Hoàn Kiếm, Đống Đa ngày nay, đóng vai trò kinh đô của cả nước suốt ba triều đại Lý, Trần, Hậu Lê. Đầu niên hiệu Thiệu Bảo (1279-1285) đời vua Trần Nhân Tông, đổi gọi là Trung Kinh. Năm 1397, Hồ Quý Ly bức vua Trần Thuận Tông dời đô vào Tây Đô (Thanh Hoá), đổi gọi là Đông Đô. Năm 1407, giặc Minh gọi là thành Đông Quan. Năm 1430, vua Lê Thái Tổ đổi gọi là thành Đông Kinh, lại gọi là Trung Đô. Đời vua Lê Hiển Tông (1740-1786), lại gọi Đông Đô (còn Tây Đô là Thanh Hoá).
Từ năm 1788 khi vua Quang Trung lên ngôi tại Huế, Thăng Long không còn là kinh đô cả nước. Năm 1805, vua Gia Long cho xây thành mới, lấy lại tên thành Thăng Long, nhưng đổi chữ Long là "rồng" thành Long là "thịnh". Năm 1831, vua Minh Mạng thành lập tỉnh Hà Nội, lấy thành Thăng Long làm lỵ sở, nên từ đó thành Thăng Long thường được gọi là thành Hà Nội. Ngày 25/4/1882, quân Pháp đánh chiếm thành Hà Nội lần thứ hai. Ngày 19/7/1888, Tổng thống Pháp ra sắc lệnh thành lập thành phố Hà Nội (thành phố cấp 1), rồi buộc bù nhìn Đồng Khánh ký đạo dụ ngày 1/10/1888 nhượng hẳn cho Pháp quyền sở hữu hoàn toàn thành phố Hà Nội. Ngày 23/7/1893, Hội đồng Thị chính Hà Nội ra quyết định phá bỏ thành Hà Nội. Còn tỉnh Hà Nội thì đến ngày 3/5/1902, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định đổi tên thành tỉnh Cầu Đơ, rồi đến ngày 6/12/1904 lại ra nghị định đổi thành tỉnh Hà Đông. Đầu thế kỷ XX, thực dân Pháp đặt thành phố Hà Nội làm thủ phủ của Liên bang Đông Dương để thay thế Sài Gòn.
Năm 1945, sau Cách mạng tháng Tám, thành phố Hà Nội lại trở thành thủ đô của Việt Nam. Năm 1961, thành phố Hà Nội đã được mở rộng, sát nhập một phần đất đai các tỉnh Hà Đông (18 xã, 6 thôn, 1 thị trấn), Bắc Ninh (29 xã, 1 thị trấn, bao gồm toàn bộ huyện Gia Lâm), Vĩnh Phúc (17 xã, ½ thôn, bao gồm toàn bộ huyện Đông Anh), Hưng Yên (1 xã). Năm 1978, sát nhập thêm 5 huyện Ba Vì, Phúc Thọ, Thạch Thất, Đan Phượng, Hoài Đức, thị xã Sơn Tây và thị xã Hà Đông của tỉnh Hà Sơn Bình, huyện Sóc Sơn và một phần huyện Mê Linh của tỉnh Vĩnh Phú. Nhưng đến năm 1991, lại cắt trả 5 huyện Ba Vì, Phúc Thọ, Thạch Thất, Đan Phượng, Hoài Đức và thị xã Sơn Tây về tỉnh Hà Tây, trả huyện Mê Linh về tỉnh Vĩnh Phú. Năm 1999, thành phố Hà Nội có diện tích tự nhiên 921km2, dân số 2.684.800 người, gồm 12 đơn vị quận huyện. Từ ngày 1/8/2008, theo Nghị quyết của Quốc hội, thành phố Hà Nội lại tiếp tục được mở rộng, gồm thâu cả tỉnh Hà Tây, huyện Mê Linh tỉnh Vĩnh Phúc, và 4 xã Đông Xuân, Tiến Xuân, Yên Bình, Yên Trung của huyện Lương Sơn tỉnh Hoà Bình. Theo đó, không gian thủ đô Hà Nội đã được mở rộng gấp 3,6 lần, với diện tích tự nhiên 3.344,47km2, dân số 6.232.940 người, gồm 29 đơn vị quận huyện.
Như vậy, kể từ thời khai lập quốc gia Âu Lạc cho đến hôm nay, chỉ có vài lần kinh đô được đưa ra khỏi phạm vi Hà Nội: thời Đinh và Tiền Lê, ở Hoa Lư, Ninh Bình; thời nhà Hồ từ năm 1397 đến năm 1407, ở Tây Đô, Vĩnh Lộc, Thanh Hoá; thời nhà Tây Sơn và nhà Nguyễn từ năm 1788 đến năm 1887, ở Huế. Còn thì trong hầu hết các thời kỳ, thủ đô của cả nước đều được thiết lập tại nơi đây. Và trong đó, cột mốc lớn nhất đánh dấu sự chuyển mình cất cánh của Thăng Long - Hà Nội chính là năm 1010, khi vua Lý Thái Tổ tuyên Chiếu dời đô, quyết định chuyển trung tâm đất nước từ Hoa Lư đến Thăng Long trên châu thổ sông Hồng.
Trên phương diện kinh tế, ngay từ thời Lý, Trần, vai trò trung tâm hành chính và chính trị của đất nước đã giúp cho Thăng Long - Hà Nội mau chóng trở thành một trung tâm kinh tế, với các phố chợ được hình thành xung quanh thành Thăng Long. Và từ thế kỷ XV, khu vực "Hà Nội ba mươi sáu phố phường" đã được định hình, biến Thăng Long - Hà Nội thành một "thành thị" đúng nghĩa, một thành thị hầu như duy nhất của nước Đại Việt trước khi các cảng thị ra đời vào thời Trịnh - Nguyễn. Chính vì vậy mà cho dù trải qua cả ngàn năm lịch sử với bao lần dời đổi, nhưng tên gọi Kinh Kỳ, Kẻ Chợ vẫn chỉ được dành riêng để gọi Thăng Long - Hà Nội. Không chỉ thế, người Mường, người Tày, người Thái, người Nùng còn dùng tên gọi người Kinh, người Keo để gọi người Việt nói chung.
Trên phương diện văn hoá, vai trò trung tâm hành chính và chính trị của đất nước cũng giúp cho Thăng Long - Hà Nội có điều kiện thuận lợi không nơi nào sánh được trong việc tiếp nhận và nâng cao các thành tựu văn hoá của toàn quốc, mà trực tiếp là của vùng văn hoá đồng bằng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ. Ngày nay, vùng đất Hà Nội, bao gồm tỉnh Hà Tây cũ, là nơi các di tích văn hoá vật thể bao gồm hệ thống đê điều, các di tích lịch sử, văn hoá, kiến trúc, nghệ thuật... phân bố dày đặc nhất, số lượng lớn nhất trong các tỉnh thành. Các di sản văn hoá phi vật thể của vùng đất Hà Nội, bao gồm nền giáo dục Nho giáo, nền văn hoá bác học, các khoa học, các danh nhân văn hoá, các làng nghề, các lễ hội, nghệ thuật ca trù, tranh dân gian, văn hoá ẩm thực... cũng phong phú nhất trong các tỉnh thành. Từ tháng 12/2002, Viện Khảo cổ học đã tiến hành khai quật một phần di tích Hoàng Thành Thăng Long, phát hiện vô số di chỉ và di vật có niên đại liên tục từ thế kỷ thứ VII đến thế kỷ XIX. Ngày 1/10/2004, thành phố Hà Nội đã long trọng tổ chức lễ đón bằng công nhận khu phố cổ Hà Nội là di tích lịch sử - văn hoá quốc gia. Và từ tháng 4/2009, sau hơn 20 năm được nỗ lực phục dựng, nghệ thuật ca trù Hà Nội đã được tổ chức UNESCO đưa vào danh sách xem xét công nhận là di sản văn hoá phi vật thể của thế giới. Đó quả là những sự kiện có ý nghĩa trọng đại và sâu sắc, góp phần làm tăng độ dày văn hoá cho vùng đất kinh đô, và góp phần làm sáng tỏ ba vai trò lớn của Thăng Long - Hà Nội trong lịch sử Việt Nam: trung tâm chính trị - trung tâm kinh tế - trung tâm văn hoá. Điều đáng buồn lá quá trình bồi đắp đó lại đang diễn ra song song với quá trình xâm thực: trong vài thập niên gần đây, tình trạng xâm phạm các di tích trong vùng đã ngày càng nghiêm trọng, trong đó Hà Nội là nơi có nhiều di tích bị xâm phạm nhất. Việc xâm phạm một phần là do nạn trộm cắp cổ vật, một phần là do phong trào tu bổ tôn tạo các di tích nhằm mục tiêu lợi nhuận.
Tóm lại, con đường hình thành phát triển trong lịch sử của Thăng Long - Hà Nội là từ vai trò trung tâm hành chính và chính trị, trở thành trung tâm kinh tế và trung tâm văn hoá của vùng văn hoá Bắc Bộ - Bắc Trung Bộ và cả nước. Sự hình thành, phát triển của tiểu vùng văn hoá đô thị Hà Nội là một trường hợp điển hình của quá trình hình thành, phát triển các đô thị ở Việt Nam. Đồng thời, quá trình ấy, với tất cả những biến thiên, thăng trầm của nó, cũng tiêu biểu cho lịch sử thăng trầm của đất nước Âu Lạc - Vạn Xuân - Đại Việt - Việt Nam từ thế kỷ thứ III trước Công nguyên cho đến hôm nay.
TIỂU VÙNG VĂN HOÁ HUẾ
Vùng đất Phú Xuân - Huế bắt đầu trở thành nơi giao lưu tiếp biến văn hoá Việt - Chăm kể từ năm 1306, khi vua Champa Chế Mân dâng tặng Đại Việt hai châu Ô, Rí (Nam Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế) để làm sính lễ. Nhưng phải gần bốn thế kỷ sau, trải qua nhiều biến cố, Phú Xuân - Huế mới trở thành trung tâm chính trị, trung tâm văn hoá của Đàng Trong và cả nước. Năm 1558, khi Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận Hoá thì chưa có Huế; lỵ sở đầu tiên được đặt tại làng Ái Tử, về sau gọi là Cựu Dinh, nay thuộc thị trấn Ái Tử, huyện Triệu Phong, Quảng Trị, cách Huế khoảng 60km về phía Nam. Năm 1600, Nguyễn Hoàng dời lỵ sở đến dinh Trà Bát, nay thuộc làng Trà Liên, xã Triệu Giang, huyện Triệu Phong, Quảng Trị. Năm 1613, chúa Nguyễn Phúc Nguyên lên ngôi, đoạn tuyệt quan hệ với chúa Trịnh, hình thành vương quốc Đàng Trong. Năm 1626, chúa Nguyễn Phúc Nguyên dời đô vào Phước Yên, nay thuộc huyện Quảng Điền, Thừa Thiên - Huế. Đến năm 1687, chúa Nguyễn Phúc Trăn lên ngôi, mới chọn Phú Xuân làm kinh đô và bắt đầu cho xây dựng kinh thành Huế. Từ đó cho đến năm 1788, Huế là kinh đô của Đàng Trong. Và từ năm 1788 đến năm 1887, trải qua hai triều đại nhà Tây Sơn và nhà Nguyễn, Huế là kinh đô của cả nước. Thời Pháp thuộc, từ khi Pháp thành lập Liên bang Đông Dương năm 1887 và đặt thủ phủ tại Sài Gòn rồi Hà Nội, Huế chỉ còn là kinh đô của xứ "Annam" tức Trung Kỳ. Và đến Cách mạng tháng Tám năm 1945 thì vai trò này cũng kết thúc khi nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà thành lập, chọn thủ đô là Hà Nội. Hiện nay, thành phố Huế có diện tích 71km2, dân số 292.800 người (1/4/1999).
Văn hoá Huế gồm hai bộ phận hợp thành là văn hoá cung đình bác học và văn hoá dân gian. Cả hai đều là kết quả của sự giao lưu tiếp biến văn hoá Việt - Chăm, và cả giao lưu tiếp biến văn hoá Đông - Tây. Năm 1805, dưới triều vua Gia Long nhà Nguyễn, kinh đô Huế đã được xây dựng lại, và tiếp tục hoàn thành vào năm 1832 dưới triều vua Minh Mạng. Với hệ thống Kinh thành, Hoàng thành và Tử cấm thành còn nguyên vẹn cho đến ngày nay, kinh đô Huế là đỉnh cao của nền kiến trúc Việt Nam thế kỷ XIX, trong đó có sự kết hợp với lối kiến trúc Vauban từ phương Tây. Lăng tẩm Huế với các lăng Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, Đồng Khánh, Khải Định, là những không gian mà trong đó cái tự nhiên và cái văn hoá, phương Đông và phương Tây hoà quyện với nhau. Mạng lưới chùa chiền, bắt đầu từ chùa Thiên Mụ, ngôi chùa ra đời sớm nhất ở Đàng Trong, cùng với một quần thể tự viện dày đặc, tạo thành một trung tâm Phật giáo lớn nhất trong cả nước. Bên cạnh đó là các di tích đền tháp Champa ở Thừa Thiên - Huế như tháp Linh Thái, tháp Phú Diên, thành Lồi. Ca nhạc Huế tiếp biến dân ca, âm nhạc Champa, tạo thành các điệu Nam, điệu Bắc phong phú, và tạo nên bản sắc riêng cho các thể loại hò Huế, ca Huế, tuồng Huế. Ẩm thực Huế phong phú, cầu kỳ, kết hợp giữa tính dân dã và tính cung đình, thiên về khía cạnh thưởng thức và tổng hoà sự dinh dưỡng, với những món ăn độc đáo như bún bò Huế, cơm hến và những kiểu ăn riêng như cơm vua... Năm 1993 và năm 2003, quần thể di tích cố đô Huế và nhã nhạc cung đình Huế đã được UNESCO công nhận là di sản văn hoá thế giới. Điều đáng mừng là các di sản văn hoá vật thể và phi vật thể của Huế, đặc biệt là các di sản văn hoá thế giới, cho đến nay vẫn được bảo tồn hoặc được phục hồi tương đối tốt. Điều đó đã và sẽ tiếp tục đem lại cho ngành du lịch Huế ngày càng nhiều sản phẩm du lịch độc đáo, và đem lại cho cư dân địa phương một nguồn thu nhập đáng kể để khuyến khích họ bảo tồn di sản.
Tóm lại, tính đến nay thành phố Huế đã có hơn ba thế kỷ hình thành, phát triển trên một vùng đất lưu giữ nhiều di sản của văn hoá Champa. Và trong quá trình đó, Huế đã có một thời gian dài là trung tâm chính trị, là nơi hội tụ tinh hoa của Đàng Trong và cả nước. Vì vậy, văn hoá Huế là kết quả của sự dung hợp và thâu hoá, vừa tiêu biểu cho quá trình tiếp biến văn hoá Việt - Chăm, vừa tiêu biểu cho chặng đầu của quá trình tiếp biến văn hoá Đông - Tây ở Việt Nam. Tất cả đã đem lại cho văn hoá của vùng đất cố đô một "phong cách Huế" đặc thù và có sức lan toả sâu rộng đến các vùng đất còn lại ở phương Nam.
TIỂU VÙNG VĂN HOÁ SÀI GÒN
Trong các tiểu vùng văn hoá đô thị của Việt Nam, Hà Nội và Huế được quan tâm hơn cả. Như Phạm Đức Dương trong công trình Việt Nam - Đông Nam Á ngôn ngữ và văn hoá (2007) đã dành hai bài chuyên khảo về Hà Nội và Huế như những tiểu vùng văn hoá đặc sắc ở miền Bắc, miền Trung. Thậm chí Đinh Gia Khánh & Cù Huy Cận trong công trình Các vùng văn hoá Việt Nam (cb, 1995) còn xem Thuận Hoá - Phú Xuân (xứ Huế) và Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội là hai trong số chín vùng văn hoá của Việt Nam, ngang cấp với những vùng văn hoá có phạm vi rộng lớn hơn nhiều như đồng bằng miền Bắc, Việt Bắc, Tây Bắc, Nghệ Tĩnh, Nam Trung Bộ, Tây Nguyên, đồng bằng miền Nam. Đó là chưa kể những thông tin liên quan đến vai trò của Hà Nội và Huế trong các công trình của Ngô Đức Thịnh (1993), Huỳnh Khái Vinh & Nguyễn Thanh Tuấn (1995), Trần Quốc Vượng (cb, 1998), Chu Xuân Diên (1999, 2008), Huỳnh Công Bá (2008)... Thế nhưng, đối với Sài Gòn - thành phố Hồ Chí Minh thì hầu như chưa có công trình nghiên cứu nào nhận diện và mô tả nó với tư cách một vùng văn hoá hoặc tiểu vùng văn hoá của Việt Nam. Đó là một điều đáng ngạc nhiên và cần phải được bổ khuyết để có thể phác hoạ một bức tranh chung đúng đắn về các tiểu vùng văn hoá đô thị Việt Nam. Để làm điều đó, trước hết cần phải cung cấp những thông tin quan yếu về lịch sử hình thành, đặc trưng văn hoá và vai trò trung tâm của vùng đô thị này trong lịch sử vùng đất phương Nam. Chúng tôi cho rằng những thông tin này chính là những chứng lý chứng minh việc đưa Sài Gòn - thành phố Hồ Chí Minh vào danh sách các tiểu vùng văn hoá Việt Nam là cần thiết và đúng đắn.
1. Lịch sử hình thành và những cái nhất trong lịch sử
Quá trình thành lập Sài Gòn được ghi nhận lần đầu tiên trong lịch sử là vào năm 1623 khi chúa Nguyễn cử phái bộ tới yêu cầu vua Chân Lạp Chey Chettha II cho lập đồn thu thuế tại Prei Nokor (Sài Gòn, tức khu vực Chợ Lớn ngày nay) và Kas Krobei (Bến Nghé, tức khu vực Sài Gòn ngày nay), để thu thuế các thương nhân Đàng Trong qua lại Chân Lạp và Xiêm. Khi ấy, ở Sài Gòn, Đồng Nai đã có người Khmer, người Việt định cư từ thế kỷ XVI.
Năm 1679, chúa Nguyễn Phúc Tần cho các tướng "phản Thanh phục Minh" Dương Ngạn Địch, Trần Thượng Xuyên và 3.000 người tuỳ tùng tới Mỹ Tho, Biên Hoà và Sài Gòn để khai khẩn, định cư. Từ giữa thế kỷ XIX, sau cuộc chiến tranh Nha phiến và cuộc khởi nghĩa Thái Bình Thiên quốc, đông đảo người Hoa từ các địa phương Trung Quốc lại tiếp tục di dân sang Việt Nam mà một trong những điểm đến chính là Bến Nghé - Sài Gòn.
Năm 1698, chúa Nguyễn Phúc Chu sai Thống suất Chưởng cơ Nguyễn Hữu Kính vào kinh lý miền Nam. Trên cơ sở những lưu dân Việt đã tới khu vực Đồng Nai - Gia Định (Đông Nam Bộ), gồm khoảng 40.000 hộ với 200.000 khẩu, Nguyễn Hữu Kính cho lập phủ Gia Định, gồm hai dinh Trấn Biên, Phiên Trấn, với hai huyện Phước Long, Tân Bình.
Đến năm 1779, khi cương vực của phủ Gia Định đã bao trùm toàn vùng Nam Bộ hiện nay, thì Bến Nghé - Sài Gòn đã trở thành những khu đô thị tập trung hàng vạn dân cư, gồm ba thành phần tộc người chính là Việt, Hoa, Khmer.
Là một đô thị hình thành sớm nhất trên vùng đất Nam Bộ, kể từ đó Sài Gòn đã tiếp tục đạt được nhiều cái nhất khác trong lịch sử Nam Bộ và lịch sử Việt Nam. Năm 1859, Sài Gòn là đô thị đầu tiên ở Việt Nam và Đông Dương bị thực dân Pháp chiếm đóng. Từ thập niên 1860, Sài Gòn là nơi ra đời giai cấp công nhân sớm nhất Việt Nam. Năm 1877, Sài Gòn là thành phố cấp 1 đầu tiên ở Việt Nam và Đông Dương được thành lập và điều hành theo quy chế của nước Pháp, đến năm 1887 thì trở thành thủ phủ đầu tiên của Liên bang Đông Dương. Sài Gòn là nơi đầu tiên trong cả nước hình thành Công hội bí mật vào cuối năm 1920, và cũng là nơi mở đầu cuộc kháng chiến chống Pháp vào ngày 23/9/1945 khi chúng tái xâm lược Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám. Đây là nơi đầu tiên ở Việt Nam được đế quốc Mỹ chọn để đưa tàu chiến đến dương oai diễu võ, mà cũng là nơi diễn ra cuộc biểu tình chống Mỹ đầu tiên của nhân dân Việt Nam vào ngày 19/3/1950.
Ngày nay, trong quá trình phát triển và hội nhập, thành phố Hồ Chí Minh là một trung tâm kinh tế, tài chính, thương mại và dịch vụ lớn nhất của cả nước, đóng góp 1/5 GDP toàn quốc và 1/3 ngân sách quốc gia. Thành phố cũng là đầu mối giao thông lớn nhất của Nam Bộ và là một trong những cửa ngỏ quốc tế lớn nhất của nước ta. Về văn hoá và khoa học, thành phố Hồ Chí Minh cũng là trung tâm lớn nhất của toàn Nam Bộ. Về dân cư, hiện thành phố Hồ Chí Minh vẫn là đô thị đông dân nhất nước, với lực lượng lao động cũng đông nhất nước, đến từ khắp các vùng miền. Năm 1999, thành phố có dân số 5.073.800 người, diện tích 2.093km2, chia thành 22 đơn vị quận huyện. Đến năm 2004, thành phố có 6.062.993 người, bao gồm 24 đơn vị quận huyện.
2. Vị trí trung tâm về tự nhiên, kinh tế, chính trị, văn hoá
Những cái nhất ấy của Sài Gòn - thành phố Hồ Chí Minh trong lịch sử, mà trong đó có cả những cái nhất không may, trước hết là do vị trí trung tâm của nó. Đây là một vùng đô thị mà, xét trên các phương diện từ tự nhiên, kinh tế cho đến chính trị, văn hoá, đều nằm ở vị trí trung tâm của cả vùng Nam Bộ và trong một chừng mực nào đó, là trung tâm của cả phía Nam.
Về điều kiện tự nhiên, thành phố nằm ở trung điểm tiếp giáp giữa miền Đông với miền Tây, giữa vùng cao và vùng thấp, giữa nội địa và duyên hải của vùng đất Nam Bộ. Về phía Đông Nam Bộ, thành phố tiếp giáp với các tỉnh Tây Ninh, Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu; về phía Tây Nam Bộ, thành phố tiếp giáp các tỉnh Long An, Tiền Giang; và về phía Đông Nam, thành phố tiếp giáp với biển Đông. Địa hình của thành phố nằm trong vùng chuyển tiếp giữa miền Đông với miền Tây, và được chia làm 3 tiểu vùng: vùng cao ở phía Bắc với độ cao trung bình 10-25m; vùng thấp ở phía Nam với độ cao trung bình trên dưới 1m; và vùng trung tâm có độ cao trung bình 5-10m. Về sông ngòi cũng thế. Trong khi hệ thống sông Đồng Nai ở phía Đông thành phố có lượng phù sa khá thấp và có lòng sông sâu nên là nơi tập trung các cảng chính của khu vực hiện nay như cảng Sài Gòn, cảng Cát Lái, cảng Hiệp Phước, cảng Phú Mỹ..., thì các sông rạch kết nối với hệ thống sông Vàm Cỏ ở phía Tây là những thuỷ lộ cạn hẹp. Chế độ thuỷ triều là bán nhật triều. Khí hậu của thành phố là khí hậu nhiệt đới gió mùa cận xích đạo, nóng, ẩm, nhiều mưa, với hai mùa mưa nắng trong năm: mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11, mùa nắng từ tháng 12 tới tháng 4.
Về kinh tế, từ khi ra đời, đặc biệt là từ thời kỳ Pháp thuộc đến nay, Sài Gòn luôn đóng vai trò trung tâm kinh tế - thương mại của vùng đất Nam Bộ. Thời chúa Nguyễn và nhà Nguyễn, vì các mục đích quân sự và chính trị, vùng Bến Nghé - Sài Gòn đã có hai con kinh được đào nắn từ những dòng sông cũ là kinh Ruột Ngựa nối vùng Sài Gòn (Chợ Lớn) với sông Bến Lức, sông Vàm Cỏ Đông (1772), và kinh An Thông (nay là kinh Tàu Hủ) nối vùng Bến Nghé (Sài Gòn) với vùng Sài Gòn (Chợ Lớn) và với miền Tây (1819). Sau khi đánh chiếm thành phố, để chuẩn bị khai thác tài nguyên thuộc địa, ngay từ năm 1860 thực dân Pháp đã thiết lập cảng Sài Gòn, sau đó lần lượt tổ chức đào vét 6 tuyến kinh rạch để mở rộng giao thông đường thuỷ từ Sài Gòn - Chợ Lớn đến các tỉnh miền Tây: nạo vét sông Bến Lức (1875-1876), đào kinh Chợ Gạo (1877), nạo vét kinh Tàu Hủ (1887, 1895), đào kinh Lò Gốm, kinh Tẽ (1905), kinh Đôi (1906-1908). Các tuyến giao thông này đã tạo điều kiện cho việc hình thành một loạt bến bãi, kho hàng, nhà máy dọc theo các dòng kinh để tàng trữ, chế biến nông sản, ngũ cốc từ các tỉnh miền Tây đưa về. Năm 1869, ở Chợ Lớn đã có nhà máy xay lúa đầu tiên của công ty Renard et Gie. Đến năm 1927, ở Chợ Lớn đã có 70 nhà máy, tổng cộng 13.000 sức ngựa, công suất mỗi năm 2.900.000 tấn gạo, trong khi mức xuất cảng tối đa chỉ 1.300.000 tấn. Với sự hậu thuẫn của người Pháp, doanh nhân người Hoa đã vươn lên nắm độc quyền thu mua xay xát lúa gạo dành cho xuất khẩu, độc quyền vận chuyển hàng hoá từ miền Tây về Sài Gòn - Chợ Lớn, từ Sài Gòn - Chợ Lớn lên cao nguyên, độc quyền mua bán hàng hoá với Miên và Lào. Kể từ thời kỳ đó, Sài Gòn - Chợ Lớn đã trở thành trung tâm sản xuất công nghiệp, thương nghiệp, xuất nhập khẩu của toàn vùng.
Về chính trị, trong hầu hết chiều dài lịch sử của nó, Sài Gòn luôn luôn giữ vai trò trung tâm hành chính - chính trị của vùng đất Nam Bộ, và có một số giai đoạn còn trở thành thủ phủ của cả miền Nam hoặc cả nước: kinh đô của chúa Nguyễn thời Tây Sơn tức Gia Định Kinh (1787-1802), thủ phủ Liên bang Đông Dương thời Pháp thuộc (1887), thủ đô Quốc gia Việt Nam của chính quyền Bảo Đại (1949-1955), đô thành Việt Nam Cộng hoà của chính quyền Sài Gòn (1956-1975).
Về văn hoá, nơi đây hội tụ hầu hết các luồng ảnh hưởng văn hoá lớn của Việt Nam và thế giới, từ Bắc Bộ, Trung Bộ, Nam Bộ, Đông Nam Á, Trung Hoa, Ấn Độ, Pháp, Mỹ, v.v., ở một mức độ cao hơn các thành phố lớn khác của nước ta. Trong thời kỳ cận đại, Sài Gòn có nhiều nhà thơ, nhà văn, nhà báo, nhà nghiên cứu nổi tiếng, như Nguyễn Đình Chiểu, Phan Văn Trị, Trần Chánh Chiếu, Sương Nguyệt Anh, Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của, v.v. Các sản phẩm văn hoá gốc phương Tây như chữ Quốc ngữ, nhà in, báo chí, tiểu thuyết, thơ mới, trường học kiểu phương Tây, Âu phục... đều được phổ biến ở Sài Gòn trước tiên rồi mới lan đến các vùng miền còn lại.
3. Đặc trưng văn hoá
3.1. Tính chất đô thị trong văn hoá
Vị trí trung tâm của toàn vùng và trung tâm kinh tế lớn nhất nước đã đem lại cho văn hoá của Sài Gòn - thành phố Hồ Chí Minh một đặc trưng nổi bật: tính chất đô thị trong văn hoá. Ngay từ năm 1698 khi Nguyễn Hữu Kính vào Nam kinh lược, thiết lập phủ Gia Định và hai dinh Trấn Biên, Phiên Trấn, ở hai khu vực Bến Nghé (Sài Gòn) và Sài Gòn (Chợ Lớn) đã hình thành những phố thị chuyên về thương mại và dịch vụ. Dưới thời Pháp thuộc, năm 1877, trên địa bàn Bến Nghé, thành phố Sài Gòn, thành phố cấp 1 đầu tiên ở Việt Nam và Đông Dương, đã được thành lập và điều hành theo quy chế của nước Pháp. Năm 1879, trên địa bàn phố chợ Sài Gòn cũ và vùng tiếp giáp ở phía Nam kinh Tàu Hủ, thành phố Chợ Lớn cũng được khai sinh. Trước đó, vào năm 1871, trên địa bàn hai huyện Tân Long và Phước Lộc, thực dân Pháp đã thành lập hạt Chợ Lớn, đến năm 1889 thì đổi thành tỉnh Chợ Lớn. Vì vậy mà bắt đầu từ thập niên 1870, vùng Bến Nghé mới được đổi gọi là Sài Gòn, còn vùng Sài Gòn được đổi gọi là Chợ Lớn. Đến năm 1931, hai thành phố Sài Gòn, Chợ Lớn đã được hợp nhất và sát nhập thêm một phần tỉnh Chợ Lớn để thành lập khu Sài Gòn - Chợ Lớn, bao gồm 5 quận cảnh sát, và chia thành 18 hộ.
Tháng 2/1976, tên gọi thành phố Hồ Chí Minh đã xuất hiện trong một Nghị định của Chính phủ Lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam về việc giải thể khu, hợp nhất tỉnh ở miền Nam Việt Nam. Và ngày 2/7/1976, việc đặt tên thành phố Sài Gòn - Gia Định là thành phố Hồ Chí Minh đã được Quốc hội chính thức thông qua. Lúc này, địa phận thành phố đã bao gồm cả bốn vùng Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định - Củ Chi, chia làm 12 quận, 5 huyện; và đến năm 1978 thì sát nhập thêm huyện Duyên Hải của tỉnh Đồng Nai (nay là huyện Cần Giờ). Hiện nay, thành phố Hồ Chí Minh có 19 quận, 5 huyện, với số lượng thị dân đông nhất nước.
Tất cả những sự kiện ấy đều nói lên một điều: từ thuở sơ sinh cho đến bây giờ, Sài Gòn - thành phố Hồ Chí Minh luôn là một đô thị chuyên về thương mại, dịch vụ, có nội lực riêng để tồn tại chứ không phụ thuộc vào vị thế hành chính của nó do chính quyền quy định. Ngược lại, chính vị thế trung tâm kinh tế của nó đã trở thành chỗ dựa để nhà cầm quyền quyết định chọn đặt lỵ sở hành chính nơi đây. Điều này căn bản khác với Thăng Long - Hà Nội và Phú Xuân - Huế là những khu đô thị do nhà nước thiết lập và quản lý, để thực hiện chức năng hành chính, nên bộ phận quản lý hành chính hình thành trước, bộ phận kinh tế dân sinh hình thành sau và phụ thuộc vào vị thế chính trị lúc thăng lúc trầm của khu đô thị.
3.2. Tính chất đa tộc người trong văn hoá
Vị trí trung tâm của toàn vùng và trung tâm kinh tế lớn nhất nước còn đem lại cho văn hoá của Sài Gòn - thành phố Hồ Chí Minh đặc trưng nổi bật thứ hai: tính chất đa tộc người trong văn hoá. Ngay từ năm 1698, trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh ngày nay đã có các cộng đồng người Việt, người Hoa, người Khmer cư trú. Từ thập niên 1940 thì có thêm cộng đồng Chăm, di cư từ Châu Đốc (An Giang). Còn ngày nay, trong dân cư của thành phố đã có đầy đủ đại diện đến từ 63 tỉnh thành toàn quốc, bên cạnh người Việt còn có đông đảo người Hoa (428.576 người, 1/4/1999), người Chăm (5.192 người), người Khmer (4.684 người), các tộc người khác, và hàng vạn ngoại kiều. Tình trạng đó khiến cho văn hoá của Sài Gòn - thành phố Hồ Chí Minh là một nền văn hoá đa sắc. Các hoạt động văn hoá và quản lý văn hoá trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh thường thường phải tính tới đặc trưng này.
3.3. Giao thoa, tiếp biến văn hoá và sự tái tạo các giá trị văn hoá gốc
Đặc trưng đô thị và đặc trưng đa tộc người tất yếu kéo theo đặc trưng quan trọng thứ ba: sự giao thoa, tiếp biến văn hoá giữa các tộc người, các nền văn hoá. Sài Gòn - thành phố Hồ Chí Minh nằm trong không gian văn hoá Nam Bộ là một vùng đất mới mà ở đó, chung tay khai phá với người Việt còn có các tộc người bản địa và các tộc người di dân. Vì vậy, trên vùng đất này cũng như trên toàn Nam Bộ, ngay từ đầu văn hoá của cư dân Việt, mà trong đó đã có sẵn yếu tố Chăm, đã giao lưu mật thiết với văn hoá của các cư dân Khmer, Hoa... Trong thời cận đại và hiện đại, trong suốt một thời gian dài vùng đất này lại chịu ảnh hưởng của văn hoá Pháp rồi tiếp đó là văn hoá Mỹ. Và từ năm 1975, đây là một địa bàn biến động mạnh mẽ về thành phần tộc người cũng như giao lưu quốc tế. Vì vậy, Sài Gòn - thành phố Hồ Chí Minh đã trở thành nơi diễn ra quá trình giao thoa, tiếp biến văn hoá sôi động nhất trong tất cả các tỉnh thành của Việt Nam. Hệ quả là hầu như không có hiện tượng văn hoá nào ở nơi đây còn nguyên chất thuần Việt mà luôn có bóng dáng của những nền văn hoá khác, đã hội tụ nơi đây trong hơn ba thế kỷ qua. Nó khiến cho văn hoá Sài Gòn cũng như văn hoá Nam Bộ vừa tương đồng, lại vừa khác biệt với cội nguồn của nó là văn hoá Việt ở đồng bằng Bắc Bộ và Trung Bộ.
Sự giao thoa, tiếp biến văn hoá đó đã giúp nâng cao sức sống của các nền văn hoá thành phần, đồng thời đem lại giá trị mới cho văn hoá Sài Gòn - thành phố Hồ Chí Minh. Đó là vì, để có thể thích ứng với môi trường đô thị, và thích ứng với các nền văn hoá khác, đặc biệt là văn hoá Việt của dân tộc chủ thể, các tộc người, các nền văn hoá của Việt Nam và thế giới khi hội tụ ở đây đều phải tiếp tục vận động và chuyển hoá. Nhờ đó, khả năng đổi mới và dung hợp của các các tộc người, các nền văn hoá đó tăng lên đáng kể, kể cả bộ phận văn hoá Việt do di dân nhiều vùng góp lại trong hơn ba thế kỷ qua. Về mặt giá trị, sản phẩm của sự đổi mới và dung hợp văn hoá đó dĩ nhiên không phải là một con số cộng, mà là sự tái tạo, nâng cấp, nâng cao sức sống, sức cạnh tranh, sức lan toả của các nền văn hoá thành phần, qua đó đem lại cho văn hoá Sài Gòn - thành phố Hồ Chí Minh một giá trị riêng, khác với giá trị gốc của các nền văn hoá thành phần. Tương tự với quy luật sinh học mà theo đó, sự chọn lọc nhân tạo có thể tạo ra những giống lai có năng suất cao hơn, thích ứng tốt hơn, sức sống mạnh mẽ hơn giống gốc, trong văn hoá cũng có một quy luật: những nền văn hoá có khả năng đổi mới và dung hợp cao hơn, sẽ có sức sống vững bền hơn và có sức lan toả mạnh mẽ hơn, mà không cần phải tấn công, tiêu diệt nền văn hoá khác.
Cho nên, lấy thí dụ trong văn hoá lễ hội: Tương ứng với với sự đa dạng về cách thức hoạt động sản xuất và văn hoá tộc người, lễ hội của người Việt nơi đây cũng rất đa dạng, bao gồm bốn loại: lễ hội tín ngưỡng - tôn giáo, lễ hội nông nghiệp, lễ hội ngư nghiệp, lễ hội văn hoá - lịch sử. Tất cả đều mang sắc thái Nam Bộ mặc dù nhiều lễ hội bắt nguồn từ Trung Bộ. Lễ hội tín ngưỡng - tôn giáo bao gồm các lễ hội thường niên của đạo Phật, đạo Cao Đài, đạo Hoà Hảo, đạo Thiên Chúa, đạo Tin Lành... Ở các đình làng, thường xuyên có các lễ hội Kỳ yên tiến hành vào đầu năm và cuối năm, để tạ ơn Thành hoàng Bổn cảnh, thần linh và các bậc tiền hiền, hậu hiền có công khai khẩn, khai cơ, giúp dân an cư lạc nghiệp. Ở vùng ven biển Cần Giờ, lễ hội Nghinh Ông tổ chức hằng năm là sự kiện quan trọng bậc nhất trong đời sống văn hoá và tâm linh của cư dân. Lễ hội văn hoá - lịch sử bao gồm các lễ tết cổ truyền như tết Nguyên đán, tết Đoan ngọ...; các lễ hội tưởng niệm các danh nhân có công mở đất và các anh hùng dân tộc như Nguyễn Hữu Kính, Lê Văn Duyệt, Trần Thượng Xuyên, Trần Hưng Đạo, Phan Công Hớn...
Hoặc, lấy thí dụ trong văn hoá ẩm thực: Sài Gòn là một trong số ít những đô thị ở Việt Nam mà người ta có thể dễ dàng tìm ăn hầu hết các đặc sản trong và ngoài nước, được chế biến đúng kiểu của địa phương: bún riêu, phở Bắc, bún bò, cơm hến Huế, mì Quảng, cao lầu Hội An, bánh canh Trảng Bàng, bún mắm Đồng Tháp, cháo cá rau đắng, cá lóc hấp bầu Nam Bộ, hủ tíu Nam Vang, hủ tíu Tàu, lẩu Thái Lan, bún xào Singapore, cà ri Ấn Độ, vịt quay Bắc Kinh, trứng cá Nga, kim chi Hàn, sushi Nhật, mì ống Ý, gà rán Mỹ, v.v. Thế nhưng, phổ biến nhất trong những món trên vẫn là món phở. Và trong các kiểu chế biến phở thì phổ biến hơn, được người Sài Gòn chuộng dùng hơn, vẫn là phở Bắc có điều chỉnh theo tập quán ẩm thực của người Sài Gòn, người Nam Bộ. Đó là giảm thịt, cho thật nhiều rau, giá và gia vị. Sự điều chỉnh đó không hề làm mất danh tiếng của phở Bắc ở Sài Gòn mà chỉ làm cho món phở có sức sống mạnh hơn, sức lan toả lớn hơn trong môi trường cạnh tranh khốc liệt của thành phố lớn này. Còn những nơi ở Sài Gòn bán phở thuần Hà Nội, hay phở Bát Đàn, mà thành phần nhiều nhất là thịt, rồi mới đến bánh phở, nước dùng và ít cọng hành, thì vẫn có "phân khúc thị trường" của riêng mình là những thực khách trung thành với hương vị gốc.
Tóm lại, Sài Gòn là một tiểu vùng văn hoá đô thị hình thành do hấp thu, tái tạo các luồng ảnh hưởng văn hoá lớn của Việt Nam và thế giới, có những đặc trưng tiêu biểu cho văn hoá Nam Bộ nói chung. Nhờ khả năng hấp thu, tái tạo, nâng cao các nguồn lực nội sinh lẫn ngoại sinh, Sài Gòn đã trở thành một tiểu vùng văn hoá có ảnh hưởng lớn nhất đối với văn hoá của toàn vùng Nam Bộ.
TP. Hồ Chí Minh, ngày 12/5/2009.
Nguồn: Tác giả.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bùi Khánh Thế (2005), "Lý thuyết tiếp xúc ngôn ngữ và vấn đề tiếp xúc ngôn ngữ ở Việt Nam (trường hợp TP. Hồ Chí Minh)", Tiếp xúc ngôn ngữ ở Việt Nam, NXB Khoa học Xã hội.
2. Chu Xuân Diên (2008), Cơ sở văn hóa Việt Nam, in lần đầu năm 1999, tái bản lần thứ hai năm 2008, TP. Hồ Chí Minh: NXB Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh.
3. Dương Kinh Quốc (2002), Việt Nam những sự kiện lịch sử (1858-1918), tái bản lần 2, NXB Giáo dục.
4. Dương Trung Quốc (2002), Việt Nam những sự kiện lịch sử (1919-1945), tái bản lần 2, NXB Giáo dục.
5. Đinh Gia Khánh & Cù Huy Cận chủ biên (1995), Các vùng văn hoá Việt Nam, Hà Nội: NXB Văn học.
6. Đinh Xuân Vịnh (1996), Sổ tay địa danh Việt Nam, NXB Lao động.
7. Đỗ Đức Hùng & Nguyễn Đức Nhuệ & Trần Thị Vinh & Trương Thị Yến (2001), Việt Nam những sự kiện lịch sử (Từ khởi thuỷ đến 1858), NXB Giáo dục.
8. Huỳnh Công Bá (2008), Cơ sở văn hoá Việt Nam, Huế: NXB Thuận Hoá.
9. Huỳnh Khái Vinh & Nguyễn Thanh Tuấn (1995), Chấn hưng các vùng và tiểu vùng văn hoá ở nước ta hiện nay, Hà Nội: NXB Chính trị Quốc gia.
10. Huỳnh Lứa chủ biên & Lê Quang Minh & Lê Văn Năm & Nguyễn Nghị & Đỗ Hữu Nghiễm (1987), Lịch sử khai phá vùng đất Nam Bộ, TP. Hồ chí Minh: NXB Thành phố Hồ Chí Minh.
11. Huỳnh Ngọc Trảng & Nguyễn Đại Phúc & Trương Ngọc Tường & Lý Lược Tam... (2006), Văn hoá & nghệ thuật người Hoa thành phố Hồ Chí Minh, Trung tâm Văn hoá TP. Hồ Chí Minh.
12. Huỳnh Ngọc Trảng & Nguyễn Đại Phúc (1995), Từ Sài Gòn đến thành phố Hồ Chí Minh. Sài Gòn - Gia Định xưa. Ký hoạ đầu thế kỷ XX, NXB Thành phố Hồ Chí Minh.
13. Lê Bá Thảo (2008), Thiên nhiên Việt Nam, tái bản lần thứ năm, NXB Giáo dục.
14. Lê Quang Định (2005), Hoàng Việt nhất thống dư địa chí, nguyên tác chữ Hán hoàn tất năm 1806, Phan Đăng dịch, chú giải và giới thiệu, NXB Thuận Hoá & Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây.
15. Lê Thông chủ biên (2001), Địa lí các tỉnh và thành phố Việt Nam. Phần một: Các tỉnh và thành phố đồng bằng sông Hồng, tái bản lần thứ nhất, NXB Giáo dục.
16. Lê Trung Hoa (2003), Văn hoá Nam Bộ, bài giảng cao học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TP. Hồ Chí Minh.
17. Lê Trung Hoa chủ biên (2003), Từ điển địa danh thành phố Sài Gòn - Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh: NXB Trẻ.
18. Li Tana (1999), Xứ Đàng Trong: Lịch sử kinh tế - xã hội Việt Nam thế kỷ 17 và 18, Luận án tiến sĩ tại Đại học Quốc gia Australia tháng 9/1992, nguyên bản tiếng Anh, bản dịch tiếng Việt của Nguyễn Nghị, TP. Hồ Chí Minh: NXB Trẻ.
19. Lý Tùng Hiếu & Phú Văn Hẳn (2000), "Đời sống văn hoá của người Chăm TP. Hồ Chí Minh hiện trạng và vấn đề", Sài Gòn - TP. Hồ Chí Minh thế kỷ XX: Những vấn đề lịch sử - văn hoá, TP. Hồ Chí Minh: NXB Trẻ.
20. Lý Tùng Hiếu (2005), Lương Văn Can và phong trào Duy Tân - Đông Du, NXB Văn hoá Sài Gòn.
21. Lý Tùng Hiếu (2009), Vùng văn hoá Nam Bộ: Định vị và đặc trưng văn hoá, www.vanhoahoc.edu.vn, 15/5/2009.
22. Ngô Đạt Tam & Nguyễn Quý Thao chủ biên (2008), Atlat địa lí Việt Nam. Dùng trong nhà trường phổ thông, tái bản lần thứ 12, NXB Giáo dục & Công ty Cổ phần Bản đồ và Tranh ảnh Giáo dục.
23. Ngô Đức Thịnh (1993), Văn hoá vùng và phân vùng văn hoá ở Việt Nam, Hà Nội: NXB Khoa học Xã hội.
24. Ngô Đức Thịnh (2003), Văn hoá vùng và phân vùng văn hoá ở Việt Nam, TP. Hồ Chí Minh: NXB Trẻ.
25. Ngô Đức Thọ chủ biên (1993), Tự điển di tích văn hoá Việt Nam, NXB Khoa học Xã hội & NXB Mũi Cà Mau.
26. Nguyễn Cẩm Thuý chủ biên (2000), Định cư của người Hoa trên đất Nam Bộ (từ thế kỷ XVII đến năm 1945), Hà Nội: NXB Khoa học Xã hội.
27. Nguyễn Hữu Danh (1987), Địa lý thành phố Hồ Chí Minh, Sở Giáo dục TP. Hồ Chí Minh.
28. Nguyễn Quang Ân (2003), Việt Nam: Những thay đổi địa danh và địa giới hành chính 1945-2002, Hà Nội: NXB Thông tấn.
29. Nguyễn Thế Nghĩa & Lê Hồng Liêm chủ biên (2000), Sài Gòn - TP. Hồ Chí Minh thế kỷ XX: Những vấn đề lịch sử - văn hoá, TP. Hồ Chí Minh: NXB Trẻ.
30. Nhà Xuất bản Bản đồ (2002), Tập bản đồ hành chính Việt Nam (Administrative Atlas), NXB Bản đồ.
31. Nhiều tác giả (2000), Văn hoá Nam Bộ trong không gian xã hội Đông Nam Á, TP. Hồ Chí Minh: NXB Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh.
32. Nhiều tác giả (2001), Nam Bộ xưa & nay, NXB Thành phố Hồ Chí Minh & Tạp chí Xưa & Nay.
33. Nhiều tác giả (2006), Văn hoá & nghệ thuật người Hoa thành phố Hồ Chí Minh, Trung tâm Văn hoá TP. Hồ Chí Minh.
34. Nhiều tác giả (2007), Hà Nội - Huế - Sài Gòn đầu thế kỷ 20, Tạp chí Xưa & Nay & NXB Văn hoá Sài Gòn.
35. Nhiều tác giả (2007), Hoàng thành Thăng Long. Phát hiện khảo cổ học, Đặc san Tạp chí Xưa & Nay.
36. Phạm Đức Dương (2007), Việt Nam - Đông Nam Á ngôn ngữ và văn hoá, NXB Giáo dục.
37. Phú Văn Hẳn (2000), "Người Chăm và sự hoà nhập văn hoá", Những thành tựu nghiên cứu khoa học, Viện Khoa học Xã hội tại TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội: NXB Khoa học Xã hội.
38. Phú Văn Hẳn chủ biên & Lý Tùng Hiếu hiệu đính (2005), Đời sống văn hoá và xã hội người Chăm thành phố Hồ Chí Minh, NXB Văn hoá Dân tộc.
39. Quách Thu Nguyệt chủ biên (2006, 2007), Hỏi đáp về Sài Gòn - thành phố Hồ Chí Minh, 6 tập, TP. Hồ Chí Minh: NXB Trẻ.
40. Quốc sử quán triều Nguyễn (1992), Đại Nam nhất thống chí, nguyên tác chữ Hán hoàn tất năm 1882, bản dịch tiếng Việt của Phạm Trọng Điềm, Huế: NXB Thuận Hoá.
41. Quốc sử quán triều Nguyễn (2002), Đại Nam thực lục, Tập Một, bản dịch tiếng Việt của Nguyễn Ngọc Tỉnh, Đào Duy Anh hiệu đính, NXB Giáo dục.
42. Sơn Nam (2007), Đất Gia Định - Bến Nghé xưa & Người Sài Gòn, tái bản lần thứ 2, TP. Hồ Chí Minh: NXB Trẻ.
43. Thạch Phương & Lê Trung Hoa chủ biên (2001), Từ điển thành phố Sài Gòn - Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh: NXB Trẻ.
44. Trần Ngọc Thêm (1999), Cơ sở văn hoá Việt Nam, tái bản lần thứ 2, NXB Giáo dục.
45. Trần Ngọc Thêm (2001), Tìm về bản sắc văn hoá Việt Nam. Cái nhìn hệ thống - loại hình, in lần thứ 3, sửa chữa và bổ sung, NXB Thành phố Hồ Chí Minh.
46. Trần Quốc Vượng (1998), Việt Nam cái nhìn địa văn hoá, Hà Nội: NXB Văn hoá Dân tộc & Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật.
47. Trần Quốc Vượng (2003), Văn hoá Việt Nam tìm tòi và suy ngẫm, NXB Văn học.
48. Trần Quốc Vượng chủ biên (1998), Cơ sở văn hoá Việt Nam, NXB Giáo dục.
49. Trần Quỳnh Cư & Nguyễn Hữu Đạo & Đỗ Thị Nguyệt Quang & Nguyễn Tố Quyên & Lưu Thị Tuyết Vân (2002), Việt Nam những sự kiện lịch sử (1945-1975), NXB Giáo dục.
50. Trần Văn Giàu & Trần Bạch Đằng & Nguyễn Công Bình chủ biên (1987), Địa chí văn hoá thành phố Hồ Chí Minh, Tập I. Lịch sử, NXB Thành phố Hồ Chí Minh.
51. Trần Văn Giàu & Trần Bạch Đằng & Nguyễn Công Bình chủ biên (1988), Địa chí văn hoá thành phố Hồ Chí Minh, Tập II. Văn học, NXB Thành phố Hồ Chí Minh.
52. Trịnh Hoài Đức (1999), Gia Định Thành thông chí, nguyên tác chữ Hán hoàn tất năm 1820, Đỗ Mộng Khương & Nguyễn Ngọc Tỉnh dịch, Đào Duy Anh hiệu đính và chú thích, NXB Giáo dục.
53. Trịnh Thuý Quỳnh (2009), Con đường di sản thế giới ở miền Trung Việt Nam từ góc nhìn văn hoá học, Luận văn thạc sĩ văn hoá học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TP. Hồ Chí Minh.
54. Viện Dân tộc học (1984), Các dân tộc ít người ở Việt Nam (các tỉnh phía Nam), Hà Nội: NXB Khoa học Xã hội.
55. Võ Thị Mỹ (2008), Văn hoá tổ chức cộng đồng của người Chăm ở Nam Bộ, Luận văn thạc sĩ văn hoá học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TP. Hồ Chí Minh.
56. Vũ Thế Bình chủ biên (2000), Non nước Việt Nam. Sách hướng dẫn du lịch, in lần thứ 3, Trung tâm Công nghệ Thông tin Du lịch, Hà Nội.
57. Vũ Thế Bình chủ biên (2001), Vietnam Travel Atlas - Bản đồ du lịch, in lần thứ 2, Trung tâm Công nghệ Thông tin Du lịch, Hà Nội.
58. Vương Hồng Sển (1997), Sài Gòn năm xưa, tái bản lần thứ 2, NXB Thành phố Hồ Chí Minh.