Từ khi ra đời cho đến ngày nay, nhân loại đã trải qua nhiều hình thức và trình độ tổ chức cộng đồng khác nhau: thị tộc, liên minh thị tộc, bào tộc, bộ lạc, nhà nước, v.v. Hệ quả của quá trình đó là sự ra đời của các dân tộc (ethnic group) khi mà các thành viên của từng cộng đồng người tự ý thức được và đồng lòng bảo vệ những yếu tố chung đã gắn kết họ lại với nhau và bảo đảm cho sự tồn sinh của họ: không gian sinh tồn, hoạt động kinh tế, ngôn ngữ, phong tục tập quán chung. Tuy nhiên, sự phát triển hình thức tổ chức cộng đồng của các dân tộc không đi theo một con đường biệt lập và thẳng tắp mà thường có sự giao thoa, vay mượn, thậm chí là sự áp đặt mô hình từ những dân tộc mạnh hơn hoặc phát triển hơn. Cho nên, hình thức tổ chức cộng đồng của rất nhiều dân tộc ngày nay đã tách rất xa cội nguồn để định dạng lại theo mô hình của những dân tộc không cùng nhân chủng và ngữ hệ. Việc nhà Đông Hán áp đặt hệ thống hành chính từ quận huyện cho đến tận làng xã trong cộng đồng người Việt kể từ thời Mã Viện (43-45 sau công nguyên) nhằm thủ tiêu hệ thống tự trị địa phương cũng như vai trò của các thủ lãnh thị tộc bản xứ, là một thí dụ.
Tình hình đó đã gây không ít khó khăn cho việc nghiên cứu, nhận diện quá trình hình thành và tiến hoá về hình thức tổ chức cộng đồng của các dân tộc ở Việt Nam. Và do quá trình đó chỉ để lại những thông tin mờ nhạt trong lịch sử thành văn, nên để có thể nghiên cứu, bóc tách, nhận diện được nó một cách chân xác, cần phải huy động phương pháp và tư liệu của nhiều chuyên ngành khoa học khác nhau. Trước nay, các ngành dân tộc học, khảo cổ học, sử học đã làm được ít nhiều. Dưới đây chúng tôi sẽ góp thêm tư liệu và thử giải quyết vấn đề vừa nêu từ góc nhìn của ngôn ngữ học nhân học (anthropological linguistics).
1. Trước hết, chúng ta cần thu thập, phân loại và khảo sát các ngữ liệu biểu thị khái niệm "buôn, làng" là một hình thức tổ chức cộng đồng cấp công xã phổ biến ở các dân tộc thuộc đại chi Mon-Khmer, ngữ hệ Nam Á (Austroasiatic).
Bảng 1. Danh từ chỉ "buôn, làng" của các ngôn ngữ Mon-Khmer
Ngôn ngữ |
Danh từ chỉ "buôn, làng" |
||
Tiểu chi Việt-Chứt |
Rục |
kaBêl1 "bản, làng" |
|
Mường |
quêl / quên "làng" |
||
Việt |
quê, kẻ, làng |
||
Tiểu chi Katuic |
Brũ |
vil "buôn, làng" |
|
Ta-oih |
wel / wil "làng" |
||
Katu |
vel / bhươl "làng" |
||
Tiểu chi Bahnaric |
Bắc Bahnaric |
Bahnar |
plây "làng" |
Hrê |
plây "làng" |
||
Sedang |
plơi "làng" |
||
Nam Bahnaric |
M'nông |
bon "làng, quê" |
|
K'ho |
bòn "làng, quê" |
||
Stiêng |
bon / poh / văng / wăng "làng" |
||
Tiểu chi khác |
Xinh Mun |
col "làng" |
Bảng so sánh trên có thể khiến cho chúng ta đặt ra ít nhất ba câu hỏi:
(1) Có thể nói các ngôn ngữ Mon-Khmer như Rục, Mường, Việt, Brũ, Ta-oih, Katu, M'nông, K'ho, Stiêng, Xinh Mun tương đối thống nhất về cách gọi hình thức cư trú cơ sở của mình thông qua sự đối ứng về ngữ âm và sự tương đồng về ngữ nghĩa của các danh từ chỉ "buôn, làng". Nhưng vì sao vẫn có sự khác biệt rõ rệt giữa một bên là các ngôn ngữ ở phía Nam như Brũ, Ta-oih, Katu, M'nông, K'ho, Stiêng chỉ sử dụng những danh từ có thuỷ âm là các phụ âm môi v-, w-, b-, p- (vil, wel / wil, vel / bhươl, bon, bòn, bon / poh / văng / wăng), với một bên là các ngôn ngữ ở phía Bắc như Rục, Mường, Việt, Xinh Mun sử dụng những danh từ có yếu tố đứng trước là phụ âm k- (kaBêl1, quêl / quên, quê, kẻ, col)?
(2) Trong tiếng Việt, trong khi quê và kẻ vẫn tồn tại thì lại xuất hiện thêm một danh từ nữa là làng. Theo Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên (1998), quê là "nơi gia đình, dòng họ đã qua nhiều đời làm ăn sinh sống, thường đối với mình có sự gắn bó tự nhiên về tình cảm"; và kẻ là "(cũ; thường dùng trước một địa danh). Đơn vị dân cư, thường là nơi có chợ búa". Còn làng là "khối dân cư ở nông thôn làm thành một đơn vị có đời sống riêng về nhiều mặt, và là đơn vị hành chính thấp nhất thời phong kiến". Như vậy, tuy ý nghĩa biểu thị hình thức cư trú của thị tộc vẫn còn dấu vết trong quê và kẻ, nhưng ngày nay quê và kẻ hầu như không còn được dùng để chỉ hình thức cư trú cơ sở của người Việt nữa. Vai trò đó đã bị làng thay thế. Vậy làng ở đâu ra?
(3) Tương tự, vì sao các ngôn ngữ thuộc tiểu chi Bắc Bahnaric như Bahnar, Hrê, Sedang lại sử dụng một danh từ hoàn toàn khác với các ngôn ngữ Mon-Khmer là plây / plơi để chỉ "buôn, làng", danh từ này do đâu mà có?
2. Để trả lời câu hỏi thứ nhất, chúng ta cần phải lập một bảng so sánh từ vựng lớn hơn, bao gồm tất cả những từ có quan hệ về ý nghĩa và về hình thái với các danh từ chỉ "buôn, làng" trong các ngôn ngữ Mon-Khmer, từ đó mới có thể làm sáng tỏ lai nguyên và ý nghĩa của các từ này.
Bảng 2. Những từ có quan hệ về ý nghĩa và hình thái với các danh từ chỉ "buôn, làng" trong các ngôn ngữ Mon-Khmer
Ngôn ngữ |
Tính từ |
Động từ |
Danh từ |
|
Tiểu chi Việt-Chứt |
Rục |
|
kaBa4 "khuấy"
|
KaBêl1 "bản, làng", Bẹnh2 "vành (tai)", khwang1 "vằn", rơBaj3 "khoáy", saBạj3 / swạj3 "xoáy nước" |
Mường |
|
|
quêl / quên "làng" |
|
Việt |
vạnh, vành vạnh, vạy, vẩn, (tròn) vìn, vòng, oằn, quanh, quăn, quằn, quắn, quặn, quẩn, cong, còng,
xoăn |
vanh, vành, váy, văn, vằn, vặn, vần, vấn, viên, vòng, oằn, uốn,
quanh, quành, quay, quày, quặn, quẩn, quấn, quây, quấy, quậy, còng, khoanh, khoắng, khuấy, xoay, xoáy, xoắn |
vành, vằn, vân, vầng, viên, vòng, vừng,
quanh, quay, quầng, quê, kẻ, còng, khoanh, khoáy,
xoáy |
|
Tiểu chi Katuic |
Brũ
|
vứl "tròn" |
aviêl "quay, xoay", ván "vặn, bện", viêl "đi quanh", kavang "vòng lại, vây", kuvang "quấn, cuộn, vây thành vòng", kuvár "khuấy, quậy" |
vil "buôn, làng", vứl "vòng tròn"
|
Ta-oih |
|
|
wel / wil "làng" |
|
Katu |
vil / tavil "tròn", vạng "cong" |
kavương "xoay quanh", val "quay lại", vạng "vây quanh", vợ? "khuấy" |
vel / bhươl "làng", avịl "khoáy", kAng "vòng tay", vương "vòng tròn" |
|
Tiểu chi Nam Bahnaric |
M'nông |
vil "tròn"
|
vănh "xoắn", văr "quấn", vâr "khuấy, quấy", vel "cuộn tròn", vên "cuộn, quấn" |
bon "làng, quê"
|
K'ho |
wil "tròn", wơl / gơwơl "quẩn" |
wềl "vây", wơr "khuấy" |
bòn "làng, quê", rơwềng "vòng", kong "vòng (đeo tay)" |
|
Stiêng |
wil / rơwal "tròn" |
wâr "quậy" |
bon / poh / văng / wăng "làng", kong "còng, kiềng" |
|
Tiểu chi khác |
Xinh Mun Mon Khmer Khasi Nicobar |
wen "cong"
envin "tròn" |
wiêng "đi vòng" wan "cuốn quanh" hawin "cuốn quanh" |
col "làng" win "vòng tròn" wan / wun "vòng tròn" |
Nhìn vào bảng so sánh này, có thể thấy rõ nguyên nhân dẫn tới sự khác biệt giữa các ngôn ngữ ở phía Nam như Brũ, Ta-oih, Katu, M'nông, K'ho, Stiêng chỉ sử dụng những danh từ chỉ "buôn, làng" có thuỷ âm là các phụ âm môi v-, w-, b-, p- (vil, wel / wil, vel / bhươl, bon, bòn, bon / poh / văng / wăng), với các ngôn ngữ ở phía Bắc như Rục, Mường, Việt, Xinh Mun sử dụng những danh từ chỉ "buôn, làng" có yếu tố đứng trước là phụ âm k- (kaBêl1, quêl / quên, quê, kẻ, col). Theo chúng tôi, yếu tố k- này nguyên thuỷ có thể là một danh từ chỉ sự vật (như ke4 "cái (loại từ)" của Rục, cái "sự vật nói chung" của Việt, v.v.), được chắp vào phần còn lại của từ, và về sau bị hư hoá để biến thành phụ tố. Như chúng ta đã biết, nguồn gốc của các phụ tố trong các ngôn ngữ nguyên thuỷ thường là các từ độc lập để cấu tạo các từ ghép. Trải qua thời gian, các từ độc lập ấy được rút gọn và gắn chặt với các từ gốc mà trở thành phụ tố. Đó là tình hình có thể đã diễn ra đối với phụ tố *k-, *ka- trong các danh từ chỉ "buôn, làng" (kaBêl1, quêl / quên, quê, kẻ, col) của Rục, Mường, Việt, Xinh Mun. Nguyên do phải chắp thêm phụ tố chỉ sự vật *k-, *ka- là vì phần còn lại của từ vốn chỉ có nghĩa là "tròn". Để biến "tròn" thành danh từ chỉ hình thức cư trú thì hoặc là phải biến âm, biến nghĩa, chuyển loại nó như các ngôn ngữ Mon-Khmer phía Nam đã làm, hoặc phải dùng phụ tố để danh hoá nó như chọn lựa của các ngôn ngữ Mon-Khmer phía Bắc. Tương tự, để biến "tròn" thành một động từ chỉ hành động, chuyển động hình tròn thì phải chắp thêm cho nó một phụ tố khiên động (a-, pa-, ta-, ka-, ku-, sa-, ...), như lựa chọn của phần lớn các ngôn ngữ Mon-Khmer trong bảng.
Trên thực địa, theo các tài liệu dân tộc học, buôn làng truyền thống của người Brũ, Ta-oih và Katu, cư trú ở Trung - Nam Lào và Trung Bộ Việt Nam, đều có hình tròn hoặc bầu dục; các gia cư, phần lớn là gia đình nhỏ phụ quyền, được bố trí xoay quanh một bãi đất rộng, chính giữa là ngôi nhà công cộng (roong, khoan, rông, gươl). Xung quanh buôn có hàng rào bảo vệ. Đây là kiểu buôn phòng thủ điển hình của các dân tộc Mon-Khmer Bắc Trường Sơn. Chỉ ở những nơi địa hình không thích hợp hoặc đối với một số buôn mới dựng trong thời gian gần đây, hình thức quần cư này mới bị bỏ qua để bố trí nhà dọc theo trục giao thông, sông, suối, sườn đồi. Riêng đối với người Brũ thì theo các tài liệu dân tộc học và theo khảo sát điền dã của chúng tôi, vil "buôn, làng" nguyên thuỷ chính là hình thức cư trú của các muôi tăng "dòng họ". Mỗi vil có trên dưới vài chục gia đình đồng tộc, sống quần tụ bên nhau. Về sau, do các muôi tăng ngày càng mở rộng và sống xen kẽ với nhau, nên mỗi vil thường có nhiều muôi tăng, quan hệ huyết thống trong vil mờ nhạt hơn quan hệ láng giềng, và các vil thường không còn theo hình tròn nữa. Tuy nhiên, mỗi muôi tăng vẫn có một dống chống "nhà-của chung" do cả họ cùng xây hoặc là nhà của người tộc trưởng (ariêih tăng, yống asĩauq, suôt). Chính vì vil thực chất là hình thức cư trú của thị tộc hoặc thị tộc mở rộng nên ở một số vùng, người tộc trưởng cũng kiêm luôn các chức vụ chính trong bộ máy tự quản của vil: chủ buôn (suôt vil), chủ đất (suôt kutễq), người xử kiện (ariêih sữq parnai). Có lẽ cũng vì vậy mà các chức vụ này đều theo chế độ cha truyền con nối, anh chết em thay. Trên địa bàn các tỉnh Tây Nguyên, do ảnh hưởng rất mạnh của các dân tộc thuộc ngữ hệ Malayo-Polynesian, nên hình thức cư trú hình tròn của các dân tộc Mon-Khmer nơi đây hầu như không còn dấu vết. Nhưng tại các tỉnh Kompong Cham (Campuchia), Bình Phước, Tây Ninh (Việt Nam) là địa bàn của các dân tộc M'nông, Stiêng, Mạ, cho đến ngày nay vẫn còn tồn tại không dưới 24 di chỉ thành đắp đất hình tròn, đã được các nhà khảo cổ thuộc Trường Viễn Đông Bác cổ và Viện Khoa học Xã hội vùng Nam Bộ khảo sát và thông báo (L. Malleret 1930; Nguyễn Trung Đỗ 1997, 2004; Phạm Đức Mạnh 1997; Nguyễn Văn Long 2004; Nguyễn Khải Quỳnh 2007; v.v.).
Đó là lý do vì sao các ngôn ngữ Mon-Khmer từ Xinh Mun, Việt, Mường, Rục cho đến Brũ, Ta-oih, Katu, M'nông, K'ho, Stiêng đều sử dụng tính từ "tròn" để cấu tạo danh từ chỉ "buôn, làng".
Một vấn đề thứ yếu nhưng cũng cần giải quyết nốt, đó là vì sao trong tiếng Việt lại có một số lượng rất lớn những tính từ, động từ và danh từ có chung nghĩa tố là "tròn"? Đó là vì, như các nhà ngôn ngữ học và dân tộc học đã chỉ ra, bên cạnh gốc từ vựng Mon-Khmer, tiếng Việt cổ còn tiếp nhận nguồn từ vựng Tày-Thái ngay từ khi nhánh phía Bắc của khối Proto Việt-Chứt tiếp xúc với dòng Tày-Thái ở trung du và đồng bằng Bắc Bộ để bắt đầu hình thành nên nhóm Việt-Mường từ khoảng 2000 năm trước công nguyên. Trong các ngôn ngữ Tày-Thái có một số lượng rất lớn những tính từ, động từ và danh từ có chung nghĩa tố là "tròn", hoàn toàn đồng nghĩa và đồng dạng với các ngôn ngữ Mon-Khmer, với các phụ âm đầu đối ứng lần lượt là V, W, B, P, Ph, M, Kw, Khw, K. Chẳng hạn tiếng Tày-Nùng: V, W: vẻn "vòng (đeo tay)", vẹn "vây (kẻ trộm)", vện "(đi) vòng, quanh (qua), (đường) quanh", vỉn "(trái đất) xoay", vín "quay (đầu)", voỏng "vòng (tròn)", uổn "vặn (mình)"; B, P, Ph, M: bản "làng", bủn "cong (môi)", bỉn "cong (môi)", pắn "vặn (kim đồng hồ), quay, vần (hòn đá), (chong chóng) xoay, (nước) xoáy", phẳn "vặn, xoắn (thừng)", mần "tròn", mồn "tròn"; Kw, Khw, K: quằng "vòng (tay ôm cổ), khoanh (lại), (nói) quanh", quằng "vành (nón)", quẩy "quấy (bột), khoắng", quấy "khuấy", queng "quây, (đi) vòng, (đường) quanh", quển "vấn (khăn)", khoảng "quẩn (chân)", khoảy "khoáy, xoáy (đầu)", coóng "oằn (xuống)", cuổn "quấn, vấn (khăn)". Điều đó cho thấy nhóm từ chỉ các khái niệm liên quan đến "tròn, cong" có thể là nhóm từ chung từ thời xa xưa của hai ngành Mon-Khmer và Tày-Thái chứ không đơn thuần chỉ là kết quả vay mượn giữa đôi bên.
Ngoài ra, vì sao bên cạnh một loạt tính từ có nghĩa chung là "tròn" như vành vạnh, vạy, vẩn, (tròn) vìn, vòng, oằn, quanh, quăn, quằn, quắn, quặn, quẩn, cong, còng, xoăn, trong tiếng Việt lại xuất hiện thêm tính từ tròn? Hình thức tiền thân của tròn trong tiếng Việt hiện đại có thể tìm thấy dễ dàng trong tiếng Việt trung đại như tlòn (An Nam dịch ngữ, thế kỷ 15-16; Dictionarium Annamiticum - Lusitanum - Latinum của Alexandre de Rhodes, 1651), và trong các ngôn ngữ Việt-Chứt khác như tiếng Arem: tlon, tiếng Rục: pulông3 / klon2, tiếng Mường Khói: tlon1, tất cả đều có nghĩa là "tròn". Các hình thức này hoàn toàn không thấy có trong các ngôn ngữ Mon-Khmer khác. Vậy chỉ có một cách giải thích duy nhất: tlon, pulông3 / klon2, tlon1, tlòn và tròn là hình thức riêng có, đặc thù của Việt-Chứt, chứ không phải của Mon-Khmer nói chung.
3. Câu hỏi thứ hai là vì sao trong tiếng Việt, trong khi quê và kẻ vẫn tồn tại thì lại xuất hiện thêm một danh từ nữa là làng? Làng ở đâu ra? Hiện nay, trong số ngữ liệu chúng tôi thu thập được qua khảo sát điền dã, dấu vết tiền thân của làng trong tiếng Việt đã được tìm thấy trong tiếng Brũ và tiếng Bahnar.
Cho đến nay, người Brũ vẫn còn bảo lưu danh từ kruang mà xưa kia dùng để chỉ một hình thức tổ chức cộng đồng gồm nhiều vil hợp lại, đứng đầu là một vị ariêih kruang hoặc tăng pữ tức "tù trưởng", do các chủ buôn trong kruang bầu lên. Nếu như danh từ vil "buôn" bắt nguồn từ tính từ vứl "tròn", nói lên hình thức quần cư nhằm mục tiêu phòng thủ của các muôi tăng "dòng họ" Brũ ngày trước, thì danh từ kruang lại bắt nguồn từ động từ kruang "rào", cho thấy kruang thực chất là một "liên minh thị tộc", một hình thức liên kết các vil "buôn" nhằm tạo ra sức mạnh phòng thủ lớn hơn. Về sau, chức vụ ariêih kruang hoặc tăng pữ tức "tù trưởng" của người Brũ đã được nhà nước phong kiến Việt Nam thay thế bằng chức vụ lý trưởng (cấp xã) để quản lý các đầu mục (chủ buôn); còn ở Lào, nó được thay thế bằng chức vụ phò bản, quản lý các ariêih vil (chủ buôn). Ngày nay, mặc dù tổ chức kruang không còn tồn tại, nhưng danh từ kruang vẫn tiếp tục được người Brũ sử dụng để chỉ "xứ, xứ sở, vùng, nước, thiên nhiên", và để cấu tạo những danh từ chỉ các hình thức tổ chức cộng đồng cao hơn như kruang kutễq "đất nước", dống kruang "nước non, đất nước, sông núi, quốc gia".
Trong tiếng Bahnar, bên cạnh các từ ngữ lơm hnam "gia đình", pơlei "buôn"..., còn có danh từ pơlang để chỉ một cấp độ tổ chức cộng đồng gồm nhiều buôn hợp lại. Ngày nay, các buôn Bahnar đã trở thành những công xã láng giềng bao gồm nhiều gia đình nhỏ thuộc về những họ tộc khác nhau. Nhưng xưa kia, khi các kơtum "họ tộc" của người Bahnar còn tồn tại thì các buôn cũng là những công xã thị tộc, nên đơn vị pơlang thực chất cũng là "liên minh thị tộc", một hình thức tổ chức cộng đồng nhằm liên kết các pơlei "buôn". Hiện nay, người Bahnar cũng sử dụng pơlang như từ tố để cấu tạo một danh từ có nghĩa khái quát hơn là pơlei pơlang "làng xóm".
Ý nghĩa thực tế nói trên của kruang Brũ và pơlang Bahnar hoàn toàn tương ứng với ý nghĩa đích thực của làng Việt trong lịch sử.
Theo nhà sử học Phan Huy Lê (1983) trong Lịch sử Việt Nam, tập I, một đặc điểm quan trọng của công xã nông thôn Việt Nam vào thời Hùng Vương (khoảng 2000 năm trước công nguyên cho đến thế kỷ 3 trước công nguyên) là "bên cạnh quan hệ láng giềng, địa lý, quan hệ huyết thống vẫn được bảo tồn bên trong công xã. Trong làng có họ và có nhiều làng mang tên họ như Hoàng Xá, Cao Xá, Lê Xá, Đặng Xá... Quê hương của Mai Thúc Loan (thế kỷ VIII) là làng Mai Phụ (Thạch Hà, Nghệ Tĩnh) có nghĩa là gò đất họ Mai. Quê hương của Dương Đình Nghệ (thế kỷ X) là Kẻ Dàng, có tên là làng Dương Xá (Đông Sơn, Thanh Hoá). Cách gọi họ như trên chắc chắn xuất hiện sau thời Hùng Vương, nhưng kết cấu ‘vừa làng vừa họ' hay ‘làng-họ' thì có từ thời xa xưa. Đó là một loại công xã nông thôn kết hợp lâu dài với công xã gia đình (hay công xã thị tộc), trên cơ sở quan hệ địa lý vẫn bảo tồn quan hệ huyết thống. Đặc điểm này làm cho sự gắn bó bên trong công xã càng trở nên bền chặt".
Như vậy, làng Việt trong lịch sử là một hình thức tổ chức cộng đồng tương tự kruang của Brũ và pơlang của Bahnar. Và về mặt ngôn ngữ, kruang, pơlang và làng có thể có cùng nguồn gốc, trong đó làng là kết quả biến âm của một danh từ chỉ hình thức liên minh thị tộc của các cư dân Mon-Khmer tương tự như kruang và pơlang. Nói cách khác, làng là một hình thức liên minh thị tộc có nguồn gốc Mon-Khmer mà tổ tiên người Việt đã mang theo và biến đổi nó cho phù hợp với điều kiện cư trú ở trung du và đồng bằng sau khi tách khỏi khối Proto Viet-Katu.
Từ đó, chúng ta nên lưu ý: việc dùng danh từ "làng" trong tiếng Việt để dịch thuật các danh từ kaBêl1, quêl / quên, vil, wel / wil, vel / bhươl, bon, bòn, bon / poh / văng / wăng, col trong các ngôn ngữ Rục, Mường, Brũ, Ta-oih, Katu, M'nông, K'ho, Stiêng, Xinh Mun, v.v. chỉ là do tập quán chung, chứ cả nội hàm lẫn ngoại diên của khái niệm làng đều không thật sự đồng nhất với các danh từ ấy. Phù hợp nhất là dịch các danh từ ấy bằng một thuật ngữ gốc Mon-Khmer hay Tày-Thái đã đi vào tiếng Việt là "buôn" hoặc "bản".
4. Câu hỏi thứ ba không khó trả lời: Sở dĩ các ngôn ngữ Bahnar, Hrê, Sedang thuộc tiểu chi Bắc Bahnaric sử dụng một danh từ hoàn toàn khác với các ngôn ngữ Mon-Khmer là pơlei, plây, plơi để chỉ "buôn, làng", là do các dân tộc này đã vay mượn nó từ các ngôn ngữ Malayo-Polynesian: plơi của Jrai và palay của Chăm. Ngay từ trước công nguyên, các dân tộc nói tiếng Malayo-Polynesian đã có mặt ở Tây Nguyên và gây ra những ảnh hưởng rất sâu đậm trong phong tục tập quán và ngôn ngữ của các dân tộc nói tiếng Mon-Khmer ở vùng này, trong đó sự du nhập hình thức tổ chức cộng đồng plơi, palay vào các dân tộc Bahnar, Hrê, Sedang chỉ là một trong vô vàn thí dụ. Ngược lại, hình thức tổ chức cộng đồng bon của các ngôn ngữ Bahnaric cũng có ảnh hưởng đối với các ngôn ngữ Malayo-Polynesian, để tạo ra danh từ bôn tồn tại song hành với danh từ plơi trong tiếng Jrai, và tạo ra danh từ buôn để thay thế hẳn danh từ chỉ "buôn, làng" vốn có trong tiếng Êđê.
5. Ngày nay, các dân tộc nói tiếng Mon-Khmer đều có rất nhiều thuật ngữ biểu thị các hình thức tổ chức cộng đồng và tổ chức hành chính khác nhau, đặc biệt là ở cấp cao hơn "buôn" hoặc "liên buôn". Nhưng ngoại trừ các danh từ chỉ "buôn" hoặc "liên buôn" như vừa nói, hầu hết các thuật ngữ này đều có nguồn gốc vay mượn hoặc sao phỏng từ những dân tộc mà họ chịu nhiều ảnh hưởng trong lịch sử:
- Mường và Việt mượn Tày-Thái: chiềng (<= chiềng, xiềng), vùng (<= búng "vùng"), mường (<= mường "xứ").
- Việt mượn Hán: thôn, xã, huyện, quận, tỉnh, quốc gia, v.v
- Rục mượn Việt: som3 "xóm", thôn1 "thôn", tinh4 "tỉnh", v.v.
- Brũ mượn Việt: sáq "xã", kốn "quận, huyện", tớn "tỉnh", v.v.
Điều đó chứng tỏ rằng, trước khi tiếp xúc văn hoá, tiếp xúc ngôn ngữ diễn ra giữa Proto Việt-Chứt với Tày-Thái, giữa Rục với Việt, giữa Brũ với Việt, v.v., các dân tộc này, và nói chung là các dân tộc nói tiếng Mon-Khmer, chỉ đạt tới hình thức tổ chức cộng đồng ở cấp "buôn" hoặc "liên buôn". "Nước", "nhà nước", "quốc gia" cùng với hệ thống hành chính trực thuộc của nó, đều là những sản phẩm của quá trình tiến hoá và tiếp xúc văn hoá về sau của các dân tộc nói tiếng Mon-Khmer ở Đông Dương [1].
[1] Việc chứng minh sự hình thành phụ tố *k-, *ka- trong các danh từ chỉ "buôn, làng" của Rục, Mường, Việt, Xinh Mun có thể khiến người đọc liên tưởng đến vấn đề dấu vết tiền tố cổ chỉ thị sự vật *k-, *ka- trong các ngôn ngữ Đông Nam Á mà một số nhà nghiên cứu đã đề cập rải rác trong hơn nửa thế kỷ qua: Henri Maspéro (1952: 612-615), Hoàng Văn Ma (1985: 58-59), Nguyễn Văn Lợi (1993: 85-87)... Tuy nhiên, sự hình thành phụ tố *k-, *ka- trong các danh từ chỉ "buôn, làng" của các ngôn ngữ Mon-Khmer phía Bắc, nếu quả quá trình đó đã thật sự diễn ra như giả thuyết của chúng tôi, chỉ là một hiện tượng hậu kỳ và riêng lẻ; trong khi tiền tố cổ chỉ thị sự vật *k-, *ka- được các nhà nghiên cứu trên cho là một hiện tượng cổ xưa hơn và phổ biến ở các ngôn ngữ Mon-Khmer, Nam Á hoặc Đông Nam Á. Cách làm của các nhà nghiên cứu trên là thu thập, liệt kê một số danh từ chỉ sự vật mang thuỷ âm k-, ka- và các thuỷ âm tương cận của các ngôn ngữ Mon-Khmer, Nam Á hoặc Đông Nam Á nói chung, từ đó đi đến giả thuyết rằng các ngôn ngữ đó đang hoặc đã từng sử dụng tiền tố cấu tạo danh từ sự vật *k-, *ka-. Cách làm đó hoàn toàn không thuyết phục. Bởi vì: (1) Các danh từ chỉ sự vật mang thuỷ âm k-, ka- và các thuỷ âm tương cận không chỉ tồn tại trong các ngôn ngữ Đông Nam Á mà còn phổ biến ở vô số các ngôn ngữ khác trên thế giới, và ngoài thuỷ âm k-, ka-, danh từ chỉ sự vật trong các ngôn ngữ còn mang nhiều thuỷ âm khác nữa; không có lý nào tất cả các thuỷ âm k-, l-, m-, n-, v.v. trong các danh từ chỉ sự vật của tất cả các ngôn ngữ đó đều là tiền tố. (2) Kế đó, nếu xem thuỷ âm k-, ka- là tiền tố hoặc dấu vết của tiền tố, thì phải chứng minh được phần còn lại của từ có hoặc đã từng có một ý nghĩa và tư cách độc lập nào đó, một việc không thể làm được nếu nhìn vào các danh sách danh từ được các tác giả trên cho là có chứa đựng tiền tố chỉ thị sự vật *k-, *ka-. (3) Và cuối cùng, một khi các ngôn ngữ Nam Á vốn đã có một phụ tố danh hoá có sức sản sinh rất mạnh và vẫn còn hoạt động trong nhiều ngôn ngữ thuộc ngữ hệ này là trung tố -n- (biến thể n-, -ant-, -r-, r-, ar, ra, -rn-, rn-, arn, ran, rna, -mp-, -amp-, ...), thì một câu hỏi được đặt ra mà các nhà nghiên cứu trên khó lòng giải đáp, là cớ gì những người bản ngữ phải tạo ra thêm tiền tố *k-, *ka- mà chức năng cũng chỉ là danh hoá? Vì vậy, chúng tôi hy vọng các tư liệu và giả thuyết được nêu trong bài có thể là những đóng góp, gợi ý để giúp giải quyết vấn đề này một cách thuyết phục hơn.
Nguồn: Tác giả
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bùi Khánh Thế & Đinh Lê Thư chủ biên (1994), Từ điển M'nông - Việt, Sở Giáo dục - Đào tạo Đăk Lăk.
2. Bùi Khánh Thế chủ biên (1995), Tiếng M'nông ngữ pháp ứng dụng, Sở GD - ĐT Đăk Lăk và Trường Đại học Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh.
3. Hoàng Phê chủ biên (1998), Từ điển tiếng Việt, in lần thứ 6, đợt 2, NXB Đà Nẵng - Trung tâm Từ điển học, Hà Nội - Đà Nẵng.
4. Hoàng Văn Hành & Vũ Bá Hùng & Đoàn Văn Phúc & Tạ Văn Thông... (1983), Từ điển Việt - Kơho, Sở Văn hoá và Thông tin Lâm Đồng.
5. Hoàng Văn Ma & Lục Văn Pảo (1984), Từ điển Việt - Tày-Nùng, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
6. Hoàng Văn Ma (1985), "Vấn đề tộc danh La Ha - Kha-phlạu", TC Ngôn ngữ, số 1/1985.
7. Khổng Diễn (1978), "Dân tộc Bru", Các dân tộc ít người ở Việt Nam (các tỉnh phía Bắc), NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
8. Lê Khắc Cường (2000), Cơ cấu ngữ âm tiếng Stiêng (có so sánh với một vài ngôn ngữ trong nhóm Nam Bahnar), luận án tiến sĩ ngữ văn chuyên ngành ngôn ngữ học so sánh, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh.
9. Lý Tùng Hiếu (1997), Từ vựng và đặc trưng từ vựng tiếng Bru (Vân Kiều), luận án thạc sĩ chuyên ngành ngôn ngữ học so sánh, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh.
10. Lý Tùng Hiếu (2000, 2002a), "Vấn đề ý thức họ tộc, họ-thị tộc danh và họ-nhân danh ở các dân tộc Sedang, Bahnar, Brũ, Việt - tiếp cận từ nhân loại-ngôn ngữ học", Kỷ yếu Hội nghị quốc tế lần thứ năm về các ngôn ngữ châu Á Pan-Asiatic Linguistics, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, 16-17/11/2000 (tóm tắt); Tiếng Việt trong nhà trường phổ thông và các ngôn ngữ dân tộc, NXB Khoa học Xã hội, 2002 (toàn văn).
11. Lý Tùng Hiếu (2002b), "Hệ thống phụ tố cổ trong tiếng Việt hiện đại - một cách tiếp cận bổ sung để luận giải cấu trúc từ ngữ tiếng Việt", Kỷ yếu Hội nghị khoa học Những vấn đề cơ sở lý luận của ngữ pháp tiếng Việt, do Viện Ngôn ngữ học tổ chức, Hà Nội - TP. Hồ Chí Minh, 27/8/2002.
12. Lý Tùng Hiếu (2007), Đặc điểm về cấu tạo từ và về văn hoá Brũ và Việt qua sự so sánh từ vựng của hai ngôn ngữ này, luận án tiến sĩ ngữ văn chuyên ngành ngôn ngữ học so sánh - đối chiếu, Viện Khoa học Xã hội vùng Nam Bộ.
13. Maspéro, Henri (1952), "Les langues Mon-Khmer", Les langues du Monde, 2ed., Paris, pp. 612-615.
14. Nguyễn Hữu Hoành & Nguyễn Văn Lợi (1998), Tiếng Katu, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
15. Nguyễn Khải Quỳnh (2007), "Thành đắp đất hình tròn ở Bình Phước - những phát hiện mới trong đợt khảo sát năm 2006", Kỷ yếu Hội nghị thông báo kết quả nghiên cứu 2006 Viện Khoa học Xã hội vùng Nam Bộ, Vũng Tàu, 8-10/1/2007.
16. Nguyễn Kim Thản (1983), Tiếng Việt của chúng ta, NXB TP. Hồ Chí Minh.
17. Nguyễn Trung Đỗ (1997), "Suy nghĩ về việc nghiên cứu những công trình đất đắp cổ hình tròn ở Bình Phước", Một số vấn đề khảo cổ học ở miền Nam Việt Nam, NXB Khoa học Xã hội.
18. Nguyễn Trung Đỗ (2004), "Những phát hiện mới về di tích đất đắp cổ hình tròn ở Bình Phước", Một số vấn đề khảo cổ học ở miền Nam Việt Nam, NXB Khoa học Xã hội.
19. Nguyễn Văn Long (2004), "Một vài suy nghĩ về những vòng đất đắp hình tròn (Bình Phước)", Một số vấn đề khảo cổ học ở miền Nam Việt Nam, NXB Khoa học Xã hội.
20. Nguyễn Văn Lợi (1993), Tiếng Rục, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
21. Phạm Đức Dương & Hà Văn Tấn (1978), Về ngôn ngữ Tiền-Việt Mường, TC Dân tộc học số 1, 1978.
22. Phạm Đức Mạnh (1997), "Tiền sử - sơ sử Đông Nam Bộ (Việt Nam) - những nhận thức quá khứ và hiện đại", Một số vấn đề khảo cổ học ở miền Nam Việt Nam, NXB Khoa học Xã hội.
23. Phan Huy Lê & Trần Quốc Vượng & Hà Văn Tấn & Lương Ninh (1983), Lịch sử Việt Nam, tập I, NXB Đại học và Trung học Chuyên nghiệp, Hà Nội.
24. Rhodes, Alexandre de (1651), Từ điển Annam - Lusitan - Latinh, Thanh Lãng, Hoàng Xuân Việt, Đỗ Quang Chính phiên dịch, NXB Khoa học Xã hội, 1991.
25. Thái Văn Chải (1997), Tiếng Khmer (ngữ âm - từ vựng - ngữ pháp), NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
26. Viện Dân tộc học (1978), Các dân tộc ít người ở Việt Nam (các tỉnh phía Bắc), NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
27. Viện Dân tộc học (1984), Các dân tộc ít người ở Việt Nam (các tỉnh phía Nam), NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
28. Vương Hữu Lễ (1997), Từ điển Bru - Việt - Anh, NXB Thuận Hoá, Huế.
29. Vương Lộc giới thiệu và chú giải (1995), An Nam dịch ngữ, NXB Đà Nẵng - Trung tâm Từ điển học, Hà Nội - Đà Nẵng.