Cùng với quá trình cố kết nội bộ là quá trình giao lưu tiếp biến văn hoá và mối quan hệ văn hoá giữa các tộc người là kết quả tổng hợp của các mối quan hệ khác như quan hệ về ngôn ngữ, quan hệ về chính trị, quan hệ về kinh tế, quan hệ xã hội và quan hệ về lãnh thổ, địa bàn cư trú... đồng thời mối quan hệ văn hoá cũng là hạt nhân trong các mối quan hệ giữa các tộc người [2:93]. Hiểu theo tính chất thao tác luận như Phan Ngọc thì "văn hoá là một quan hệ". Trong cuốn Văn hoá Việt Nam một cách tiếp cận mới, PGS. Phan Ngọc đã nhấn mạnh: "Một công trình văn hoá Việt Nam phải trình bày một bức toàn cảnh về văn hoá ở mọi phương diện, mọi tộc người. Nhưng điều quan trọng hơn là giải thích, tìm ra được quan hệ. Các quan hệ ấy có hai mặt: mặt lịch sử và mặt đồng đại" [10:33]. ý kiến của Phan Ngọc đã gợi cho chúng tôi định hướng tìm hiểu mối quan hệ văn hoá Tày - Việt ở hướng tiếp cận cả mặt tĩnh và mặt động để xác định được vai trò của mỗi tộc người trong tiến trình lịch sử và văn hoá của họ.
1. Vai trò của người Tày trong mối quan hệ văn hoá Tày - Việt
Dựa vào các thành tựu dân tộc học và thành tựu nghiên cứu văn hoá tộc người, chúng tôi có thể khẳng định vai trò lịch sử của người Tày nói riêng và của các tộc người trong nhóm ngôn ngữ Tày - Thái nói chung, có tầm quan trọng đặc biệt trong khu vực Đông Nam á và trong cộng đồng quốc gia dân tộc Việt Nam.
Trong khi phân tích "Quá trình hình thành các nhóm dân tộc Tày - Thái ở Việt Nam mối quan hệ với các nhóm ở nam Trung Quốc và Đông Dương", GS. Đặng Nghiêm Vạn đã đưa ra luận điểm khá thuyết phục: "Từ bốn năm nghìn năm nay hay lâu hơn nữa, các nhóm dân tộc Tày - Thái đã giữ một vai trò trọng yếu trong lịch sử miền Nam Trung Quốc và các nước miền Đông Nam Á. Họ đã sáng tạo nên nền văn hoá của mình và đã truyền bá ảnh hưởng văn hoá đó đến các dân tộc xung quanh... Ngược lại, họ cũng hấp thụ những yếu tố văn hoá của các dân tộc láng giềng" [13:373]. Tổ tiên của họ thuộc thành phần nhân chủng Mông Cổ phương Nam, hình thành và sinh tụ ở phía nam sông Dương Tử và Đông Dương. Họ đã tạo nên nền văn hoá phương Nam, khác hẳn với nền văn hoá phương Bắc của người Hán và nền văn hoá phía tây của người Tạng ở Trung á. Nền văn hoá phương Nam là nền văn hoá nông nghiệp lúa nước với đặc trưng ở nhà sàn, giỏi đi sông vượt biển bằng thuyền chứ không giỏi phi ngựa, ăn trầu, nhuộm răng, mặc áo chui đầu, mặc váy kiểu sà rông, đầy ắp các mô típ huyền thoại chung về cội nguồn, về sự đối lập giữa núi và biển, giữa hồn khí trời và hồn nước... âm vang tiếng trống đồng và thuần thục với các loại rìu đá có vai... [13: 375]. Do sự biến động lâu dài của lịch sử tiến hoá và phân li tộc người, các tộc người thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái đã bị chia thành hai ngành: ngành phía đông và phía tây. Người Tày thuộc ngành phía đông. Nhiều nhà nghiên cứu trong các cuốn sách: Văn hoá dân gian Tày, Nguồn gốc lịch sử tộc người vùng biên giới phía Bắc Việt Nam và Các dân tộc Tày - Nùng ở Việt Nam đều đã khẳng định rằng: "Trong văn hoá tộc người, bên cạnh những yếu tố mang tính chất đồng đại, bao gồm các yếu tố mang tính chất nhóm lãnh thổ (tức nhóm dân tộc học hay địa phương), thì yếu tố cộng đồng lịch đại còn khá đậm nét" [8:16]. Đây chính là luận điểm dẫn đến sự nhấn mạnh của nhiều nhà nghiên cứu khi gắn nguồn gốc lịch sử của nhóm ngôn ngữ tộc người Tày - Thái với người Việt cổ đại. Căn cứ vào nhiều nguồn tư liệu như dân tộc học, khảo cổ học, nhân chủng học, ngôn ngữ học, với sự khảo cứu thư tịch cổ Trung Quốc và các cứ liệu trong văn hoá dân gian, đặc biệt là trong truyền thuyết dân gian của người Tày, khi phân tích nguồn gốc lịch sử và quá trình tộc người Tày các tác giả cuốn Văn hoá dân gian Tày đã đưa ra khá nhiều luận cứ cho thấy lịch sử nguồn gốc tộc người luôn là một vấn đề phức tạp. Còn chúng tôi nhận thức về tộc người Tày từ những phương diện sau:
1. Tộc người Tày thuộc ngữ hệ Nam Á, xuất hiện vào thời đại đồ đồng thau, ở miền Bắc Việt Nam, được hình thành trên cơ sở những loại hình Anhđônêđiêng bản địa, tổ tiên trực tiếp của người Nam á hiện nay, trong đó có người Kinh, Mường, Tày, Thái... [8:247]. Yếu tố Anhđônêđiêng không phải là yếu tố ngoại lai từ một nơi nào đó ở lục địa châu á bành trướng xuống Đông Nam á mà là một yếu tố bản địa, là loại hình Mônggôlôit phương Nam hình thành trên cơ sở hỗn chủng [3:698].
2. Hầu hết các học giả đều thống nhất rằng, đến đời Tần - Hán, tổ tiên các dân tộc Tày - Thái ở phía đông nằm trong khối cộng đồng Tây Âu và Lạc Việt [13:379]. Sự khẳng định của học giả Đào Duy Anh về tổ tiên của người Tày - Thái là Tây Âu và tổ tiên của người Việt là Lạc Việt, vẫn làm trăn trở nhà nghiên cứu Đặng Nghiêm Vạn. Theo Đặng Nghiêm Vạn, ngoài tổ tiên người Tày - Thái và người Việt còn có tổ tiên của các nhóm dân tộc khác trong nhóm cộng đồng Tây Âu và Lạc Việt. Hơn nữa, đặc điểm lịch sử của miền Nam Trung Quốc và miền núi Bắc Bộ Việt Nam là lịch sử của những đợt di cư của các tộc người thuộc các ngôn ngữ khác nhau. Kết quả của các đợt di cư rộng lớn từ thế kỉ III trước Công nguyên đến đời Tần Hán về sau đã làm cho các tộc người bản địa vùng này bị biến động, phải thiên di xuống phía nam hoặc phải dạt vào các miền rừng núi. Sự hỗn nhập nhân chủng và văn hoá qua các lần di cư đã làm thay đổi cục diện và đã thúc đẩy khối Tày - Thái cổ tách làm hai vào khoảng những thế kỉ trước, sau Công nguyên. Sự phân bố của khối Tày - Thái phía đông về cơ bản được ổn định vào đầu Công nguyên với ranh giới khu vực là miền núi rừng Đông Bắc (Việt Bắc) ngày nay.
Đây cũng chính là thời kì diễn ra quá trình hình thành nhà nước Văn Lang ở miền đất cổ Phong Châu. Theo sử cũ và truyền thuyết thì lúc bấy giờ có khoảng 15 bộ lạc đã liên kết lại để dựng nên nhà nước Văn Lang, mở đầu thời đại đầu tiên của lịch sử Việt Nam - thời đại các vua Hùng. Các bộ lạc Tày - Thái cổ được coi như là một thành phần quan trọng trong sự liên minh bộ lạc lần thứ nhất. Sau thời Chiến Quốc (481 - 221 trước Công nguyên), nhà Tần thống nhất Trung Quốc và bành trướng xuống phương Nam. Nhà nước Văn Lang không thể đủ sức để chống lại sức mạnh của tư tưởng "bình thiên hạ" của nhà Tần. Một tình hình thực tế lúc bấy giờ là các bộ phận khác của Bách Việt đã bị Tần thôn tính đều ra nhập cộng đồng Hán tộc. Nhu cầu cấp bách chống ngoại xâm đã thúc đẩy sự liên minh lần thứ hai giữa các bộ tộc Tày - Thái cổ với các bộ tộc Lạc Việt để dựng lên nhà nước Âu Lạc trên cơ sở kế thừa và phát triển nhà nước Văn Lang. Cơ sở hình thành nhà nước Âu Lạc đã được GS. Đinh Gia Khánh phân tích khá cụ thể với ba luận điểm:
- Đó là sự mở rộng liên minh bộ lạc vốn có từ thời các vua Hùng.
- Nâng cao chất lượng của liên minh bộ lạc nhằm làm chủ con đường giao thương quốc tế trên lục địa và ven biển.
- Củng cố liên minh giữa bộ lạc Âu Việt và Lạc Việt để chuẩn bị đối phó với nguy cơ xâm lược từ phương Bắc [7:72].
Sự ra đời của nhà nước Âu Lạc được phản ánh trong nhiều truyền thuyết của người Tày và người Việt, xoay quanh nhân vật Thục Phán - An Dương Vương, vua nước Âu Lạc. Thực, hư thế nào chưa rõ, chỉ biết rằng nước Âu Lạc ra đời là một tất yếu khách quan của lịch sử, minh chứng cho sự liên kết của những bộ tộc có cùng trình độ phát triển kinh tế và văn hoá, có cùng vận mệnh lịch sử là chống kẻ thù từ bên ngoài tới. Sự liên minh của hai khối cộng đồng cư dân Lạc Việt và Âu Việt này có vai trò không nhỏ của mối quan hệ tộc người Tày - Việt.
Trong trường kì lịch sử chống giặc ngoại xâm dưới thời Bắc thuộc, liên minh bộ lạc giữa các tộc người chủ yếu sinh sống ở miền xuôi, miền trung du và đồng bằng châu thổ (Lạc Việt), với các tộc người chủ yếu sống ở miền rừng núi (Âu Việt) càng trở nên vững chắc. Sự thực lịch sử với nhiều sự kiện từ Hai Bà Trưng cho đến Nùng Trí Cao đã khẳng định một bước phát triển mới của các bộ tộc Tày - Thái cổ qua sự củng cố ý thức tộc người để vươn lên thành một cộng đồng lãnh thổ tộc người tự cường ở vùng phía bắc Việt Nam. Sau cuộc nổi dậy của Nùng Trí Cao thì lịch sử chung của tổ tiên các nhóm dân tộc Tày - Thái phía đông đã chấm dứt với sự hình thành dân tộc Choang ở Trung Quốc và sự hình thành dân tộc Tày ở Việt Nam. Chính vì thế mà học giả Đào Duy Anh đã nhận định "người Tày ở Việt Bắc nước ta ngày nay cũng cùng một tổ tiên với người Choang", "người Choang là thành phần quan trọng nhất của tỉnh Quảng Tây của Trung Quốc ngày nay và người Tày là thành phần quan trọng nhất ở khu Việt Bắc nước ta ngày nay... người Choang, tức là người Tây Âu (một nhóm Bách Việt) vào miền Bắc Việt Nam thì thành các bộ lạc mà di huệ ngày nay là người Tày" [1: 35].
Nếu như, trong lịch sử xa xưa, có một bộ phận người Tày cổ đã cùng với các tộc người khác qua quá trình giao thoa, dung hợp văn hoá, nhân chủng đã hoà nhập với người Việt cổ để hình thành người Việt hiện đại, thì ngược lại, vào các giai đoạn lịch sử sau này, nhất là từ thế kỉ XIII – XVIII, người Việt lại trở thành một trong những nhân tố quan trọng góp phần tạo nên diện mạo tộc người Tày hiện đại. Trong nhiều thời điểm khác nhau của lịch sử, có một bộ phận người Tày được Việt hoá thì cũng không ít người Việt được Tày hoá [12: 10]. Trong suốt gần mười thế kỉ của quốc gia phong kiến tự chủ đã có khoảng nửa triệu người Kinh lên Việt Bắc, đã bị Tày - Nùng hoá. Nếu nghiên cứu một số gia phả của dòng họ người Tày ở Việt Bắc, chúng ta nhận thấy, có vùng người Kinh bị Tày hoá khá đậm. ở xã Thạch Đam, huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn có 89 gia đình thì trong đó có tới 63 gia đình Việt được Tày hoá; ở huyện Hoà An, tỉnh Cao Bằng nhân dân nhiều xã là con cháu của quan quân nhà Mạc hay nhà Lê ở lại, như ở thôn Phương Tiên, xã Dân Chủ có 40 gia đình trong số 149 gia đình đã Tày hoá đến 8 - 9 đời [6:100]. Vào những năm 80, ở Lạng Sơn - nơi có nhiều người Tày sinh sống - người ta đã tìm thấy tài liệu "Thất tộc Thổ ti" tức bảy dòng họ Thổ ti của người Tày ở đây có nguồn gốc từ người Việt ở Bắc Bộ và Trung Bộ [12:10]. Những cứ liệu đó từ các nghiên cứu liên ngành đã giúp chúng ta khẳng định: từ hàng ngàn năm trước, cùng với các bộ lạc Việt - Mường cổ, các nhóm Tày - Thái cổ đã thật sự tham gia vào quá trình tạo dựng nên lịch sử dân tộc cũng như văn hoá dân tộc. Đặc biệt là dưới góc độ quan hệ văn hoá tộc người thì giữa người Tày và người Việt đã hình thành mối quan hệ khăng khít trên cơ sở khách quan của lịch sử và do nhu cầu nội tại của hai tộc người Tày và Việt.
3. Tộc người Tày không chỉ đóng góp trong việc xây dựng nền văn minh, văn hoá Việt Nam mà còn có công lao bảo vệ nền văn minh, văn hoá Việt trước âm mưu thôn tính, đồng hoá của các thế lực ngoại bang.
Các tác giả cuốn Văn hoá dân gian Tày, sau khi dẫn chứng các cứ liệu một cách khá tổng quát, đã đi đến nhận định: các cứ liệu khảo cổ học (văn hoá Phùng Nguyên), các tài liệu dân tộc học (ngọc phả đền Hùng, thần tích địa phương, địa danh...), các yếu tố văn hoá Tày - Thái trong nền văn hoá Đông Sơn, các truyền thuyết lịch sử của người Tày ở Cao Bằng (Cẩu chúa Cheng vua) và các cứ liệu dân tộc học khác trong cấu trúc thành Cổ Loa đều góp phần khẳng định sự có mặt của người Tày cổ, một tộc người bản địa trong không gian văn hoá truyền thống Việt Nam [8: 247-248] với nguồn gốc bản địa lâu đời ở vùng Việt Bắc.
Trong cấu trúc cư dân và văn hoá Tày cổ, với các tên gọi là Âu Việt (trước Công nguyên), Ô Hử, Di Lão (thời Bắc thuộc), Tây Nguyên Man (thời Đường)... và với các nhóm địa phương Thổ, Ngạn, Phén, Thu Lao, Pa Dí,... tất cả đã hoà hợp trong cộng đồng dân tộc trong suốt trường kì lịch sử.
Người Việt cổ cùng với các tộc người khác đã sáng tạo ra một nền văn hoá của chính mình trước khi tiếp xúc với văn hoá, văn minh ấn Độ và Trung Hoa. Đó là nền văn hoá thấm đượm tri thức bản địa hay còn gọi là tri thức dân gian của các tộc người vốn đã định cư lâu đời trên vùng lãnh thổ phía bắc Việt Nam. Tính bản địa trong văn hoá Tày khá đậm nét. Dù có ảnh hưởng về nhân chủng, văn hoá của người Việt, người Hán và các tộc người khác ở mức nào đi chăng nữa thì bản sắc văn hoá Tày vẫn giữ được nét đặc sắc riêng của văn hoá thung lũng, có những nét tương đồng với tộc người Nùng song lại giữ những điểm ưu thế của một tộc người chiếm số đông và giữ vai trò chủ thể của một vùng văn hoá. Theo số liệu điều tra dân số công bố năm 2001 của Tổng cục thống kê thì dân tộc Tày có 1.477.514 người, tộc người có số dân đông nhất, sau người Kinh, cư trú trên một địa bàn rộng lớn từ miền thượng du Việt Bắc đến vùng đông bắc, gồm các tỉnh: Lào Cai, Yên Bái, Hà Giang, Tuyên Quang, Cao Bằng, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Quảng Ninh và Lâm Đồng [5: 284].
Trong quá trình cộng cư lâu đời, cùng chung lưng đấu cật khai khẩn đất hoang, xây dựng bản làng để bảo vệ tổ quốc Việt Nam, giữa người Tày và người Việt đã hình thành mối quan hệ giao lưu một cách tự nhiên diễn ra trên các mặt: tộc người, văn hoá, truyền thống chống giặc ngoại xâm.
2. Vai trò chủ thể của người Việt trong mối quan hệ văn hoá tộc người và quan hệ văn hoá Tày - Việt
Xác định vai trò lịch sử của tộc người trong tiến trình các mối quan hệ lịch sử tộc người và văn hoá tộc người, PGS. Chu Xuân Diên viết: “Tộc người Việt là chủ nhân của nền văn minh nông nghiệp lúa nước, cư trú chủ yếu ở trung du và đồng bằng châu thổ các con sông lớn,... là dân tộc đa số đóng vai trò chủ thể quy tụ các dân tộc ít người khác thành quốc gia đa dân tộc" [4: 139]. Từ thời tiền sử, nước ta đã là nơi cư trú của nhiều tộc người. Nước Văn Lang ra đời trên cơ sở liên minh 15 bộ lạc. Nhà nước Âu Lạc lại được thiết lập trên cơ sở thống nhất hai cộng đồng cư dân Âu Việt và Lạc Việt, một cộng đồng ở núi và một cộng đồng ở đồng bằng liên kết để tiếp nối sự nghiệp của "Lạc Long Quân và Âu Cơ”.
Trong sâu thẳm của huyền thoại bọc trứng nở một trăm người con: năm mươi con theo cha về thuỷ phủ chia trị các xứ, năm mươi con theo mẹ về ở trên đất, chia nước mà trị [11: 23] là ý nghĩa tư tưởng sâu sắc về ý thức xây dựng khối đoàn kết hoà hợp, dân tộc. Nhìn từ góc độ văn hoá thì truyện “Họ Hồng Bàng” phản ánh ý thức trách nhiệm trong sự đoàn kết gắn bó được hoà nhập vào ý thức về tổ tiên của các tộc người cùng chung sống lâu đời trên một địa bàn từ miền núi đến đồng bằng, từ vùng biển đến đất liền. Các cư dân của mọi vùng, miền đều là con cháu của một tổ tiên, có chung cội nguồn văn hoá Đông Sơn hay văn minh sông Hồng. Trong sự nảy sinh ý thức dân tộc thời đại Hùng Vương có nhân tố ý thức của các tộc anh em miền núi [6:256]. Đó chính là tiền đề tốt đẹp, có ý nghĩa định hướng cho sự phát triển của ý thức cộng đồng trong lịch sử tư tưởng văn hoá Việt Nam. Đến khi người Việt cổ, trong sự liên minh bộ lạc với các tộc người khác, đặc biệt với tộc người Tày cổ, hình thành cộng đồng quốc gia và hình thành một hình thái nhà nước sơ khai Âu Lạc thì ý thức liên minh cộng đồng đã phát triển thành ý thức bảo tồn nòi giống, giành quyền độc lập tự chủ, chống các thế lực phương Bắc dưới thời kì Bắc thuộc. ý thức bảo tồn tộc người và cộng đồng từ thời Âu Lạc đã được phát triển mạnh hơn trong thời Đại Việt, khi cả cộng đồng kiên quyết bảo vệ nền độc lập tự chủ toàn vẹn lãnh thổ. Theo tiến trình của lịch sử thì tư tưởng tự cường, tự chủ của cả dân tộc ngày càng được khẳng định thêm về chất và đạt tới đỉnh cao của chân lí "Không có gì quý hơn độc lập tự do" trong thời đại Hồ Chí Minh. Người Việt luôn giữ vai trò quy tụ mọi tộc người khác trong lịch sử phát triển của cả dân tộc để vừa hoàn thành sứ mệnh lịch sử, vừa xây dựng nền văn hoá quốc gia. Cộng đồng người Việt là một khối cư dân hùng hậu bao gồm nhiều tộc người từ xa xưa đã có tên chung là người Bách Việt. Do điều kiện cư trú, trình độ phát triển kinh tế, văn hoá và thời gian cư trú của mỗi tộc người trên lãnh thổ Việt Nam không giống nhau nên mối quan hệ về mặt văn hoá với người Việt của mỗi tộc người diễn ra ở từng thời điểm, từng cấp độ và từng mức độ sâu đậm khác nhau. Trong quan hệ văn hoá Tày - Việt có sự tác động qua lại khá sâu sắc theo cả hai chiều Tày - Việt và Việt - Tày vì cả hai tộc người đều có thời gian hình thành tộc người tương đương nhau và trình độ kết cấu tộc người cũng như trình độ kinh tế, văn hoá - xã hội không quá chênh lệch. Khi nghiên cứu văn hoá của người Việt, nhiều nhà nghiên cứu đều có ý kiến tương đối thống nhất: văn hoá của người Tày có dấu ấn và chiếm vị trí khá quan trọng trong văn hoá của người Việt, đặc biệt ngôn ngữ Tày [9:192] đã có những ảnh hưởng qua lại nhất định với tiếng Việt.
Quá trình giao lưu văn hoá giữa các tộc người đã được phản ánh khá rõ qua sự tiếp xúc ngôn ngữ giữa các cộng đồng nói chung và giữa tộc người Tày - Việt nói riêng. Tiếng Tày - Thái đã ảnh hưởng khá đậm nét đến tiếng Việt cả về thanh điệu, từ vị cơ bản và một số từ chỉ địa danh. Sự tiếp xúc ngôn ngữ đã làm cho ngôn ngữ tiếng Việt xa dần với ngôn ngữ Môn - Khơme về mặt cấu tạo và lại càng xích lại gần tiếng Tày - Thái về mặt thanh điệu và từ vựng. Hiện tượng song ngữ từ cặp đôi khá phổ biến giữa tiếng Việt và tiếng Tày - Thái.
Do kết quả phát triển của lịch sử, với số dân đông hơn, với trình độ kinh tế, xã hội, văn hoá phát triển cao hơn, tộc người Việt trong tiến trình lịch sử đã tỏ rõ vai trò chủ thể đối với toàn thể cộng đồng, đã tạo nên ảnh hưởng tích cực, đã góp phần hiệu quả thúc đẩy sự tiến bộ xã hội, văn hoá của các tộc người anh em khác. Chính tính chủ thể trong quan hệ tộc người và quan hệ văn hoá tộc người của tộc người Việt đã chi phối nền văn hoá của các tộc người khác phát triển theo quỹ đạo chung của một nền văn hoá có sự thống nhất trong đa dạng - nền văn hoá mang tính quốc gia. Nếu cộng đồng quốc gia Việt Nam hình thành theo hướng quy tụ thuận chiều và ngày càng ổn định vững chắc, do kết quả của sự hoà hợp các tộc người anh em chứ không phải do kết quả của sự thôn tính [6:237], thì nền văn hoá Việt Nam được cấu thành trên cơ sở của những cái riêng, cụ thể, mang sắc thái tộc người, với cái chung, phổ quát mang tính toàn dân tộc của nền văn hoá đậm chất dân gian, giàu bản sắc dân tộc. Trong lịch sử văn hoá tộc người, tộc người Việt cũng đã không ngừng tiếp thu có chọn lọc những yếu tố văn hoá, yếu tố ngôn ngữ của các tộc người khác để làm giàu văn hoá và làm phong phú ngôn ngữ tiếng Việt vốn là tiếng nói chung của toàn cộng đồng.
Mối quan hệ văn hoá Tày - Việt trên bình diện địa lí lịch sử tộc người đã được khẳng định là mối quan hệ theo cả hai chiều Tày - Việt và Việt - Tày.
Nguồn: Tạp chí Văn hóa dân gian (Số 3/2006)
__________________________
Tài liệu tham khảo
1. Đào Duy Anh, Đất nước Việt Nam qua các đời, Nxb. Văn hoá - Thông tin, Hà Nội, 2005.
2. Nông Quốc Chấn, Huỳnh Khái Vinh (đồng Chủ biên), Văn hoá các dân tộc Việt Nam thống nhất mà đa dạng, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002.
3. Phan Hữu Dật, Một số vấn đề về dân tộc học Việt Nam, Nxb. Đại học quốc gia Hà Nội, 1998.
4. Chu Xuân Diên, Mấy vấn đề về văn hoá và văn học dân gian, Nxb. Văn nghệ Tp. Hồ Chí Minh, 2004.
5. Nguyễn Đăng Duy, Nhận diện văn hoá các dân tộc thiểu số Việt Nam, Nxb. Văn hoá dân tộc, Hà Nội, 2004.
6. Nguyễn Chí Huyên (Chủ biên), Nguồn gốc lịch sử tộc người vùng biên giới phía Bắc Việt Nam, Nxb. Văn hoá dân tộc, Hà Nội, 2000.
7. Đinh Gia Khánh, Văn hoá dân gian Việt Nam trong bối cảnh văn hoá Đông Nam á, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1993.
8.Hoàng Ngọc La, Hoàng Ngọc Toàn, Vũ Anh Tuấn, Văn hoá dân gian Tày, Sở Văn hoá Thái Nguyên xuất bản, 2002.
9. Nhiều tác giả, Kỉ yếu hội thảo “Một số vấn đề lịch sử văn hoá các dân tộc ở Việt Bắc”, Bảo tàng Việt Bắc xuất bản, 1981.
10.Phan Ngọc, Văn hoá Việt Nam và cách tiếp cận mới, Nxb. Văn hoá - Thông tin, Hà Nội, 2005.
11. Vũ Quỳnh, Kiều Phú, Lĩnh Nam chích quái, Nxb. Văn hoá Viện Văn học, Hà Nội, 1960.
12.Hà Đình Thành, Báo cáo tóm tắt đề tài nghiên cứu cấp bộ "Văn hoá dân gian Tày Nùng ở Việt Nam", Thư viện Viện Nghiên cứu văn hoá, Hà Nội, 2003.
13. Đặng Nghiêm Vạn, Dân tộc văn hoá và tôn giáo, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2001.