1. Đặc trưng bối cảnh
1.1. Bối cảnh lịch sử
Miền Trung Việt Nam và Nam Bộ từng tồn tại những quốc gia cổ chịu ảnh hưởng văn hóa Ấn Độ. Thế kỷ I – VII là giai đoạn phát triển rực rỡ của nền văn hóa Óc Eo thuộc nhà nước Phù Nam. Năm 650, Chân Lạp thôn tính Phù Nam, cư dân cổ vùng đồng bằng sông Cửu Long tiếp tục phát huy nền văn hóa thời kì Hậu Óc Eo trên cơ sở tiếp thu những yếu tố nghệ thuật từ Chân Lạp và Champa nhất là trong nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc. Thế kỷ VIII và IX xuất hiện những cuộc tranh chấp triền miên giữa Thủy và Lục Chân Lạp, tiếp theo là các cuộc tiến công của Đại Việt, Java và Chân Lạp vào Champa. Đến năm 1000, Champa rời bỏ kinh thành Indrapura (Kinh đô của Vùng Ánh Sáng tại Quảng Nam) thiên đô vào Vijaya (thành Chà Bàn tại Bình Định) xây dựng những triều đại mới và phát triển những phong cách nghệ thuật đặc sắc tại đây.
Nhiều thế kỷ xung đột đã tạo nên sự tiếp xúc về văn hóa giữa Champa cổ và vùng đất Nam Bộ thời kỳ Óc Eo và Hậu Óc Eo được phản ánh qua nghệ thuật điêu khắc. Tại một số di tích Champa ở Nam Trung bộ, các nhà nghiên cứu đã tìm thấy những bộ Linga đầu tròn đặt trên bệ Yoni hoặc Linga có ba phần (đầu hình tròn, thân hình bát giác và đế hình khối vuông) vốn phổ biến trong điêu khắc cổ đồng bằng sông Cửu Long. Các mô típ hình “đuôi cá”, “nửa đuôi cá” trên các đầu vạt trước của Sampot, Sarong xuất hiện trong điêu khắc đá Hậu Óc Eo từ thế kỷ IX trở về trước đã hiện diện trên y phục của một vài pho tượng Hộ Pháp (Dravapala) ở Đồng Dương, thần Vishnu (thần Bảo tồn) và Hộ Pháp ở Khương Mỹ hay nhóm tượng người múa khăn ở Khương Mỹ với mô típ đuôi cá ở đầu dải khăn.
1.2. Bối cảnh văn hóa
Văn hóa Champa và Hậu Óc Eo hình thành và phát triển dựa trên các mẫu hình về tôn giáo và văn hóa Ấn Độ mà cư dân bản địa đã bắt đầu tiếp nhận từ những thế kỷ đầu Công Nguyên. Tuy nhiên, qua nhiều giai đoạn thời gian Bà La Môn giáo của Ấn Độ đã chuyển hóa và hòa nhập vào nền văn hóa bản địa của cư dân Champa và Phù Nam. Do đó, những dạng tín ngưỡng nguyên gốc của Bà La Môn giáo đã được bản địa hóa vào tục thờ cúng tổ tiển hoặc tục thờ cúng những vị vua bản địa quá cố bằng hình thức phong thành thần thánh Bà La Môn giáo hay tục thờ thần núi của cư dân bản địa cũng chuyển hóa vào tục thờ sơn thần Shiva của Bà La Môn giáo.
Những pho tượng thần Bà La Môn giáo trong các sưu tập điêu khắc đá tại BTLSVN – TP. HCM đã từng hiện diện cho các văn hóa cổ nổi tiếng ở Đông Nam Á. Chúng là những minh chứng sinh động nhất về sự tiến triển của dòng nghệ thuật tạo hình Bà La Môn giáo với đặc điểm và phong cách điêu khắc đã phần nào phản ảnh về bối cảnh chính trị, xã hội cũng như sự thịnh suy của các vương triều cổ trên đất nước Việt Nam mà người nghệ nhân thông qua tài năng sáng tạo của mình đã thể hiện trên điêu khắc. Bên cạnh đó, hình tượng các vị thần Bà La Môn giáo còn mang nhiều ý nghĩa lớn quan trọng khác trong văn hóa Champa và Hậu Óc Eo, nó thể hiện cho tư duy triết lý của cư dân nông nghiệp về triết lý Âm Dương (nữ thần – nam thần, Linga – Yoni) cũng như khát vọng về một cuộc sống phồn vinh và thịnh vượng của cư dân. Nhiều pho tượng thần linh ẩn chứa trong nó những ước mơ, hoài bảo lớn về tình yêu đối với tôn giáo, cuộc sống thần thánh thoát khỏi mọi khổ đau của thế gian hay sự suy nghiệm về triết lý nhân sinh quan của đời người. Các sưu tập Linga – Yoni là đại diện cho tín ngưỡng phồn thực, miền mong mỏi về sự sinh sôi nảy nở nhanh chóng của cây trồng, vật nuôi, con người và thịnh vượng phát đạt trong công việc làm ăn, buôn bán.
2. Đặc trưng kỹ thuật và nghệ thuật
2.1. Kỹ thuật và chất liệu
Trong điêu khắc đá Champa, hầu hết các pho tượng đều được tạo tác từ chất liệu sa thạch hồng có kết cấu chắc bền nên việc thể hiện các đường nét hoa văn cầu kì như tượng cổ Hậu Óc Eo là một điều khó khăn. Các pho tượng Chăm có hình dáng hơi gồ ghề, phần lớn những pho tượng tại BTLSVN – TP. HCM chỉ tập trung thực hiện ở các mặt trước, sau lưng còn nguyên cả khối đá với những nhát đục chưa hoàn thành. Có lẽ chúng được dùng để gắn vào các bờ tường, gốc tháp hay hành lang nên mặt sau không được chú trọng nhiều. Tượng cổ đồng bằng sông Cửu Long giai đoạn Hậu Óc Eo được tạo tác theo các qui chuẩn chính xác về cơ thể học, những đường nét hoa văn được thể hiện một cách cầu kì, tinh xảo ở từng bộ phận trang phục và trang sức. Có lẽ cư dân cổ đồng bằng sông Cửu Long đã may mắn tìm thầy chất liệu sa thạch tốt hơn loại sa thạch ở miền Trung Việt Nam mà người Chăm dùng tạc tượng.
2.2. Phong cách nghệ thuật
Ở mỗi vùng đất, trong mỗi giai đoạn lịch sử, tượng cổ Champa đều mang những phong cách riêng. Tuy nhiên, các pho tượng có một đặc điểm chung là đầu đội kiểu mũ Kirita – Mukuta hoặc Jata – Mukuta đôi khi cách điệu, những con linh thú chỉ được thể hiện tượng trưng dưới phần bệ tượng, hiếm thấy vị thần nào cưỡi trực tiếp lên mình thú như trong điêu khắc đá cổ Hậu Óc Eo ở vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Phần lớn các pho tượng cổ Hậu Óc Eo đều đội mũ trụ tròn theo phong cách Ba Tư hoặc kiểu mũ chóp nhọn theo phong cách Amaravati (Nam Ấn), sau lưng các pho tượng đôi khi có khung đỡ vừa tăng giá trị thẩm mỹ, vừa tạo độ vững bền cho pho tượng. Một điều đặc sắc nữa là các vị thần được thể hiện trong tư thế cưỡi trực tiếp lên mình các linh vật, các vật cầm tay của thần cũng được thể hiện rõ ràng theo đúng quy chuẩn của thần thoại Bà La Môn giáo.
3. Đặc trưng nhận dạng
3. 1. Tượng thần Bà La Môn Champa
3.1.1. Đầu thần Shiva
- Loại hình: tượng tròn
- Ký hiệu: BTLS.5884 và BTLS.5866
- Niên đại: thế kỷ thứ X
- Nguồn gốc: Trà Kiệu - Quảng Nam
Đầu tượng ký hiệu BTLS. 5884 có đặc điểm đội mũ Kirita – Mukuta, kiểu mũ có ba tầng trang trí mô típ lá đề trên mỗi tầng (mô típ phổ biến trong loại hình điêu khắc Trà Kiệu). Con mắt thứ ba của thần nằm giữa trán, lông mày nối liền nhau tạo thành hình cánh cung, mắt mở bình thường, tai đeo trang sức dạng miếng tròn mỏng xâu lại.
Đầu tượng ký hiệu BTLS. 5866 đội mũ Jata – Mukuta (những lọn tóc bới lại có đính đồ trang sức trông giống như một chiếc mũ), con mắt thứ ba nằm giữa trán, lông mày liền nhau, mắt có con ngươi hơi lồi, cánh mũi rộng, cặp môi dày, ria mép rậm, hai tai có xâu lỗ để đeo đồ trang sức.
Trên đất Ấn Độ, Bà La Môn giáo tôn sùng ba vị thần chính: Brahma (thần Sáng Tạo), Vishnu (thần Bảo Tồn), Shiva (thần Hủy Diệt). Song ở Champa, Shiva giáo chiếm vị trí độc tôn. Minh văn trên bia ký do vua Bhadravarma dựng tại Mỹ Sơn vào thế kỷ thứ IV CN cho thấy hình tượng thần Shiva được hòa nhập vào trong văn hóa bản địa thể hiện qua danh hiệu của đấng thần-vương được kết hợp bằng danh xưng của nhà vua Champa với Ðấng sáng tạo toàn năng tức là Thần Isvara (tên khác của thần Shiva). Ví dụ như nhà vua có tên là Bhadravarman[1] khi kết hợp với thần Isvara sẽ thành danh xưng là Bhadresvara (Trần Kỳ Phương 2009: 158, G. Maperso 2008: 56). Điều này cho thấy có sự kết hợp giữa vương quyền và thần quyền trong thể chế chính trị Champa và nhà vua vừa là chúa tể của con người vừa là Đấng tối cao (Isvara/Shiva) cai quản chư thần.
Các văn bia cổ khắc chữ Phạn (Sanskrit) trong thung lũng Mỹ Sơn đã tôn Shiva là “chúa tể của muôn loài”, “là cội rễ của nước Champa” và “Đáng kính trọng hơn Brahma, Vishnu, Indra, Surya, Asura. Hơn những vị Bà La Môn và hơn những Rsi (tu sĩ) và các vua chúa” (Karl Hein Golzio 2004: 12, 20). Một bia kí khác cũng cho biết “Vua sau khi đã làm một Kosa Isanesvara, còn làm một mukuta cho Bhadresvara và cặp kosa-mukuta này có thể sánh với hai trụ chiến thắng tồn tại trơ trơ trên thế gian này như mặt trời và mặt trăng” (Karl Hein Golzio 2004: 18, G. Maperso 2008: 201). Có thể dẫn ra đây nhiều bằng chứng về tục sùng bái thần Shiva trong văn hóa Champa. Ví dụ, trong 128 bia kí quan trọng nhất hiện nay được biết, có 92 thuộc Shiva giáo, 5 nói về Brahma, 7 nói về Phật, 3 nói về Vishnu, 24 không rõ (P. Mus 1933: 33, ). Còn các hiện vật thể hiện Shiva dưới hình thức Linga, Linga – Yoni, Mukhalinga (Linga có hình mặt thần Shiva), Linga – Kosa (vỏ bọc đầu Linga bằng vàng, bạc có hình mặt thần Shiva)…được tìm thấy rất nhiều ở các di tích đền tháp cổ Champa (Ngô Văn Doanh 2009: 59). Cho đến nay đã có hai đầu tượng Shiva bằng vàng được phát hiện tại Quảng Nam cùng rất nhiều Linga - Kosa[2] bằng vàng mạng ngọc được tìm thấy rải rác tại nhiều nơi trên vùng Trung Bộ Việt Nam nhưng giới nghiên cứu vẫn chưa tìm thấy tượng của các vị thần khác làm bằng chất liệu quí như vậy. Như các nhà nghiên cứu đã nhận định, hiếm có nơi nào ở Đông Nam Á tục thờ thần Shiva lại phổ biến rộng khắp và lâu dài như ở Champa. Hai đầu tượng thần Shiva nói trên là tiêu biểu cho dòng Shiva giáo được tìm thấy tại Trà Kiệu, kinh đô đầu tiên của vương quốc Champa vốn có tên gọi theo Phạn ngữ là Simhapura (Kinh thành Sư tử). Điều này cho thấy Shiva giáo có ảnh hưởng đến văn hóa Champa từ rất sớm.
3. 1.2. Tượng thần Ganesa
- Loại hình: tượng tròn
- Ký hiệu: BTLS.5929
- Niên đại: thế kỷ thứ X
- Nguồn gốc: Cẩm Lệ - Quảng Nam
Thần đội mũ miện, phía dưới hình vuông, bên trên có ba tầng, hai tầng phía dưới trang trí những cánh hoa giống như kiểu trang trí trên đồ đội của các tượng tìm thấy tại di chỉ Đồng Dương. Tầng trên cùng hình trụ đỉnh bằng, phía sau có một chiếc tán (dạng hào quang). Con mắt thứ ba nằm giữa trán, hai tay thần bị gãy sát nách, đầu vòi cũng bị gãy, đặc biệt trên đùi phải còn dính một bàn tay cầm cây đinh ba. Ngực thần đeo sợi dây Bà La Môn choàng từ vai trái xuống hông, y phục thể hiện theo kiểu Sampot. Từ vị trí của khóa dây nịt có hai dải nơ, dải trên và dải dưới mỗi dải đều có năm nếp xếp, dải trước che kín bàn chân phải chỉ còn hở ngón chân cái.
Theo thần thoại Ấn Độ, Ganesa là con trai của thần Shiva và nữ thần Pavarti (hay còn có tên khác là nữ thần Uma). Theo quan niệm của người Ấn Độ, thần Genesa tượng trưng cho trí tuệ của thần Shiva và là vị phúc thần chuyên ban phước lành cho người nghèo và giúp đỡ giới thương buôn. Ngày nay, thần được thờ trong phạm vi của nhiều quốc gia, trong các hệ phái của Ấn Độ giáo và Phật giáo.
Tại Champa, Ganesa được thờ trong ngôi đền Shiva giáo. Các tượng thần Ganesa của Champa thường có một khối U trên trán giống như “nhục kháo” (Unisa) trên đầu của các tượng Phật Thích Ca, có lẽ chúng được tạo tác trong thời kỳ mà Phật giáo đã thịnh hành ở Champa tức thời kỳ Đồng Dương (thế kỷ IX –X) nên mang những yếu tố ảnh hưởng của Phật giáo Đại thửa (Mahayana). Một số tượng Ganesa của người Khmer cũng có dấu hiệu tương tự như vậy. Ở Bảo tàng Munich có một pho tượng Khmer bằng đồng lại thể hiện thần Ganesa với một “luân xa” trên lòng bàn chân. Tại Miến Điện, người ta cũng tìm thấy một pho tượng Ganesa với tư thế tay chỉ lên trời tay trỏ xuống đất giống như tư thế của tượng Phật Thích Ca sơ sinh. Có thể nói những yếu tố này đã chứng tỏ có sự giao thoa văn hóa giữa Phật giáo và Bà La Môn giáo tại nhiều quốc gia cổ đại ở Đông Nam Á trong đó có Champa.
Dấu hiệu của thần Shiva cũng được tìm thấy trên pho tượng Ganesa tại BTLSVN – TP. HCM và các pho tượng Ganesa khác như con mắt thứ ba nằm giữa trán, vầng trăng lưỡi liềm khắc trên mũ đội, con rắn Naga quấn quanh cổ, tay cầm đinh ba lửa và ngực đeo sợi dây Bà La Môn.
3. 1.3. Tượng thần Vishnu
- Loại hình: tượng tròn
- Ký hiệu: BTLS.5926
- Niên đại: thế kỷ thứ X
- Nguồn gốc: Khương Mỹ - Quảng Nam
Tượng Vishnu đứng trên bệ trong tư thế chân trái thẳng, chân phải nhón gót. Thần đội mũ Kirita – Mukuta ba tầng to nặng trang trí mô típ hình lá đề, khuôn mặt hơi gồ ghề, mắt mở to có con ngươi, môi hơi dày, ria mép ngắn, cổ đeo vòng trang sức, ngực để trần. Sampot có vạt ngoài hình chữ nhật xõa dài xuống chân, vạt trong ngắn bay lệch về phía đùi phải. Thần có bốn tay, hai tay trước, gồm tay phải chống lên đùi, tay trái cầm một vật giơ lên ngang ngực, hai tay sau cầm giơ cao hai vật gì không rõ. Các cổ tay đều đeo vòng trang sức.
Vishnu là một những thần linh vĩ đại của Bà La Môn giáo. Trong kinh Vệ Đà (Veda), Vishnu được suy tôn là thần Thái vương, Đấng sáng tạo thế giới và là thần Bảo Tồn. Thần đã 10 lần giáng thế để giành lại công bằng cho cuộc đời, những lần giáng thế đó gọi là những kiếp hóa thân (Avatar).
Ở nước Champa cổ, Vishnu không được sùng bái như thần Shiva. Hình tượng Vishnu chỉ đồng nghĩa với các vị thần Bảo vệ (Dravapala) trong các đền tháp Champa. Cũng có một số ít tượng Vihsnu được tìm thấy tại các di tích Champa nhưng đặc biệt là các kỳ tích của Vishnu trong sử thi Ramayana lại được thể hiện khá sâu sắc qua những bức chạm tại thánh địa Mỹ Sơn - Quảng Nam hay trên đài thờ Trà Kiệu hiện được trưng bày tại Bảo tàng điêu khắc Chăm. Tuy vậy, khi bàn đến các tuyệt tác về Vishnu phải kể đến những công trình điêu khắc của người Khmer trên khu đền Angkor Wat (thế kỷ X – XII).
3.1.4. Tượng nữ thần Laskmi
- Loại hình: tượng tròn nửa phù điêu
- Ký hiệu: BTLS.5928 và BTLS.5929
- Niên đại: thế kỷ thứ X
- Nguồn gốc: Trà Kiệu - Quảng Nam
Gồm hai pho tượng (một lớn, một nhỏ) trong tư thế ngồi theo kiểu Ấn Độ được thể hiện trên hai bức diềm cửa hình lá nhĩ (Tympan). Tượng lớn có bốn tay, hai tay trước cầm gậy (hay cây chùy Gada) và búp sen đặt trên đùi, hai tay sau cầm giơ cao một con ốc gai (Sankha) và một vật hình tròn (Charkra) tượng trưng cho vầng thái dương.
Cả hai pho tượng đều mang những đặc điểm chung của phong cách Trà Kiệu muộn (thế kỷ thứ X) như: mũ đội là loại Kirita – Mukuta có nhiều tầng hoa, chóp mũ cao trang trí nhiều cung tròn đồng tâm. Mắt nữ thần hình khuy áo không có con ngươi, lông mày thanh thoát và tách rời nhau, mũi thon nhỏ, miệng tươi cười, cổ đeo đồ trang sức hạt nhỏ, ngực nở đầy đặn.
Theo thần thoại Bà La Môn giáo, Laskmi là nữ thần Sắc đẹp và Thịnh vượng, vợ của thần Vishnu. Nữ thần xuất hiện trong cuộc “Khuấy Biển Sữa” để tìm thuốc trường sinh. Trong điêu khắc đá Champa, tượng Laskmi phổ biến với nhiều tiêu bản tượng tròn và phù điêu.
3.1.5. Tượng thần Indra
- Loại hình: tượng tròn
- Niên đại: thế kỷ thứ X
- Nguồn gốc: Mỹ Sơn - Quảng Nam
Thần được thể hiện trong tư thế ngồi theo kiểu Ấn Độ trên một cái bệ, phần đầu đã bị vỡ, bàn tay trái đặt úp lên gối trái, tay phải đặt ngửa lên đầu gối phải và cầm lưỡi tầm sét (Vijra). Trên bệ tượng chạm hình voi thần Airavata nằm phủ phục.
Bà La Môn giáo mô tả Indra là vị thần Sấm sét hùng mạnh trên thiên giới. Thần sử dụng lưỡi tầm sét làm khí giới, cưỡi voi thần Airavata và là thần trấn trị phương Đông. Trong điêu khắc đá Champa, tượng Indra thể hiện khá phổ biến dưới dạng tượng tròn và phù điêu.
3. 1.6. Bệ thờ chín vị thần
- Loại hình: phù điêu
- Ký hiệu: BTLS.5976
- Niên đại: thế kỷ thứ X
- Nguồn gốc: Trà Kiệu - Quảng Nam
Bệ thờ chín vị thần thường phổ biến trong nghệ thuật điêu khắc đá Khmer thời kỳ Angkor (thế kỷ XII), rất hiếm khi xuất hiện trong điêu khắc Champa. Trên bệ thờ này, các vị thần được thể hiện trong tư thế ngồi theo kiểu Ấn Độ, hai tay đặt trên gối, phần đầu đã vỡ chỉ còn lại dấu vết của những chiếc tán tượng trưng cho vầng hào quang. Đồ trang sức hạt nhỏ đeo trên cổ và tay chân, ngực để trần, thắt lưng có khóa hình lá đề đeo cao trên hông. Y phục là kiểu Sampot có vạt ngắn. Dưới phần bệ của một số tượng có chạm nổi những con vật dùng làm biểu tượng của các thần vì vậy có thể phân biệt được các vị thần như sau:
- Surya: thần Mặt trời, biểu tượng là cỗ xe do ngựa kéo.
- Kubera: thần Tài lộc, tọa thiền theo kiểu Ấn Độ, tay cầm quả chùy Jumba, phía sau lưng là một tòa tháp.
- Soma: thần Mặt trăng, biểu tượng là con báo.
- Brahma: thần Sáng tạo, biểu tượng là ngỗng thần Hamsa.
- Yama: thần Diêm vương, biểu tượng là con chó.
- Vayu: thần Gió, biểu tượng là con ngựa
- Indra: thần Sấm sét, biểu tượng là voi thần Airavata.
- Shiva: thần Hủy diệt, biểu tượng là bò thần Nandin.
- Vị thần cuối cùng trên bệ thờ có thể là một vị vua Champa được phong thần vì có vật biểu tượng là con sư tử (Singha) nhưng theo ý kiến của chúng tôi đây cũng có thể là thần Isana (Đấng tự tại thiên), một hóa thân của thần Shiva. Ở Champa có sự kết hợp giữa vương quyền và thần quyền. Hình tượng con sư tử tượng trưng cho uy quyền của nhà vua, đồng thời cũng là một trong những kiếp hóa thân của thần Vishnu. Song trong thần thoại Ấn Độ cũng có mô tả là thần Isana cưỡi trên mình con sư tử.
Có thể nói bệ thờ chín vị thần tìm thấy tại Trà Kiệu là một tập hợp các vị thần Bà La Môn giáo được thờ phổ biến trong hệ phái Shiva giáo. Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng đây là bệ thờ “Cửu tú” hay “Cửu diệu”, tức chín vị thần cai quản vũ trụ theo thiên văn học Ấn Độ.
3. 2. Tượng thần Bà La Môn giáo Hậu Óc Eo
3.2.1. Nhóm tượng thần Vishnu
- Loại hình: tượng tròn
- Ký hiệu: BTLS.5551, BTLS.5525, BTLS.5528…
- Niên đại: từ thế kỷ thứ VIII đến thế kỷ thứ X
Cho đến nay đã có một số lượng lớn tượng thần Vishnu được phát hiện trên vùng đồng bằng sông Cửu Long. Qua đó có thể thấy rằng vào thời cổ đại, Vishnu giáo vốn được sùng bái ở đây. Trên các pho tượng Vishnu này còn phảng phất dấu ấn của điêu khắc Ấn Độ với khuôn mặt trầm tưởng, tư thế đứng thẳng, đầu đội mũ trụ tròn mang phong cách Ba Tư hay mũ có chóp nhọn mang phong cách Amaravati (Nam Ấn). Thần không đeo đồ trang sức, trang phục là kiểu Sarong dài đến ống chân. Các tượng Vishnu đều có bốn tay, mỗi tay cầm một bảo vật đặc trưng.
- Tay trước bên trái: cầm con ốc gai (Sankha) tượng trưng cho ngũ hành.
- Tay trước bên phải: cầm cái đĩa tròn (Chakra) tượng trưng cho mặt trời, thần trí của đạo Bà La Môn.
- Tay sau bên trái: cầm cây cung, tượng trưng cho ảo giác hoặc cầm nụ sen biểu tượng cho sự vận hành của vũ trụ.
- Tay sau bên phải: nắm cây gậy hoặc chùy (Gada) tượng trưng cho bản ngã, tri thức nguyên thủy.
Hình tượng các kiếp hóa thân của thần Vishnu cũng được tìm thấy khá phổ biến trong điêu khắc đá Hậu Óc Eo ở vùng đồng bằng sông Cửu Long. Tại BTLSVN – TP. HCM có trưng bày một đầu ngựa đá đội mũ Kirita – Mukuta năm tầng chạm trổ tinh xảo, tìm thấy tại chùa Vạn Đức – Gò Vấp. Pho nói về kiếp hóa thân cuối cùng của thần Vishnu dưới hình dạng của một người khổng lồ đầu ngựa mà thần thoại Ấn Độ gọi là Kalki. Lời tiên đoán trong thần thoại cho rằng: vào thời kỳ Mạt thế của thề gian, thần Vishnu sẽ giáng thế dưới hình hài của một Kalki để phá tan thế giới đầy bất công trụy lạc nhằm tạo lập một cuộc đời hoan hỉ và hạnh phúc. Trong sưu tập điêu khắc đá Khmer tại BTLSVN – TP. HCM cũng có một pho tượng Vishnu trong kiếp mục đồng Krishna. Pho tượng thể hiện một chàng trai đội mũ trùm kính đầu, mình mặc Sampot, đang cưỡi trên mình trâu. Cùng với câu chuyện hoàng tử Rama trong truyền thuyết Ramayana, câu chuyện dũng sĩ Krishna trong sử thi Mahabharata đã trở thành những bản trường ca vĩ đại trong văn học cổ điển Ấn Độ, chúng là nguồn cảm hứng sáng tác nghệ thuật cho các nghệ sĩ thời cổ xưa ở Đông Nam Á.
3.2.2. Tượng nữ thần Uma
- Loại hình: tượng tròn
- Ký hiệu: BTLS.5552
- Niên đại: thế kỷ thứ VII
- Nguồn gốc: An Thành – Tây Ninh
Uma là vợ của thần Shiva, đồng thời cũng là hiện thân nữ tính của Shiva (Sakti). Vị nữ thần này có lẽ xưa kia được thờ phổ biến tại vùng đồng bằng sông Cửu Long vì có nhiều tượng Uma được tìm thấy ở đây. Niên đại của chúng vào khoảng giai đoạn Hậu Óc Eo - Tiền Angkor (khoảng thế kỷ thứ VII – VIII). Pho tượng Uma tại BTLSVN – TP. HCM được thể hiện trong tư thế đứng trên bệ, đầu đội mũ trụ hình tròn, khuôn mặt thanh thoát. Nữ thần có bốn tay tựa vào một cái khung đỡ, hai tay trước đặt song song ngang hông, hai tay sau cầm giơ cao một vật hình chữ nhật và một vật hình tròn. Sở dĩ cho rằng đây là tượng Uma vì giữa bệ tượng có chạm nổi một cái đầu trâu. Trong truyền thuyết Bà La Môn giáo, Uma là vị nữ thần đã chiến thắng con quỉ trâu Mahita vốn là vật cưỡi của thần Diêm vương Yama.
3.2.3. Tượng thần Surya
- Loại hình: tượng tròn
- Ký hiệu: BTLS.5499 và BTLS.5527
- Niên đại: thế kỷ thứ VII
- Nguồn gốc: An Giang
Surya là thần Mặt trời, trong điêu khắc đá cổ đồng bằng sông Cửu Long giai đoạn Hậu Óc Eo, thần được thể hiện trong tư thế đầu đội mũ kiểu Ba Tư (Persia), phía sau có vầng hào quang tượng trưng cho mặt trời. Mình thần khoát một chiếc áo choàng dài phủ đùi hoặc để mình trần vận Sarong. Hai tay cầm hai nụ sen giơ ngang vai, biểu tượng của bình minh.
Tất cả các tượng Surya phát hiện trên vùng đồng bằng sông Cửu Long đều có vầng hào quang phía sau mũ. Trên vầng hào quang đôi khi có những đường kẻ như tia nắng mặt trời. Còn chiếc xe do ngựa kéo của thần hầu như không thấy thể hiện trong nghệ thuật tạc tượng vùng đồng bằng sông Cửu Long. Hình như chúng chỉ phổ biến trên các đồ án điêu khắc đá Khmer thế kỷ X – XI mà thôi.
3.2.4. Tượng thần Ganesa
- Loại hình: tượng tròn
- Ký hiệu: BTLS.5512 và BTLS.5573
- Niên đại: thế kỷ thứ VII
- Nguồn gốc: An Giang
Gồm hai pho tượng Ganesa: một pho tượng bán thân, đầu đội mũ chóp nhọn, vòi vễnh về phía tay trái, hai tay đã gãy. Pho tượng còn lại được thể hiện trong tư thế đứng, đầu trần, tai rộng, có một “khối u hay nhục kháo” (Unisa) trên trán. thần có bốn tay, hai tay trước cầm vật gì không rõ, hai tay sau cầm giơ cao một con ốc gai (Sankha) và một vật hình tròn tượng trưng cho vầng thái dương (dấu hiệu thường thấy trên các pho tượng Vishnu đồng bằng sông Cửu Long). Ngoài pho tượng này, chưa thấy một pho tượng nào có những vật cầm tay giống như vậy. Phải chăng pho tượng được tạo tác trong giai đoạn mà Vishnu giáo thịnh hành tại vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Kết luận
Do hoàn cảnh lịch sử, Champa và các vương quốc cổ ở vùng đồng sông Cửu Long từ lâu đã không còn tồn tại nữa. Thế nhưng những di sản của nghệ thuật điêu khắc của họ để lại cho đất nước Việt Nam nói riêng và cũng như cho nhân loại nói chung là vô giá. Những tác phẩm điêu khắc trên đã thể hiện tài năng, trí tuệ, sự sáng tạo mang bản sắc của cư dân bản địa Champa và Hậu Óc Eo. Đó là những tác phẩm nghệ thuật giàu sức sống tạo cho người xem những trăn trở, suy tư về một dòng nghệ thuật mang đầy tính nhân văn và khát vọng của những nền văn minh đã tàn lụi.
Trong các di sản điêu khắc đó hình tượng các vị thần Bà La Môn giáo đã đóng một vai trò quan trọng trong các lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật và tôn giáo. Vì vậy nghiên cứu tác phẩm điêu khắc này sẽ góp thêm tư liệu cho việc tìm hiểu đặc điểm văn hóa, tôn giáo, chính trị và lịch sử hưng vong của các vương quốc cổ ở Việt Nam mà ngày vẫn chúng còn chứa đựng nhiều bí ẩn, thách thức tri thức hạn hẹp của con người.
Tóm tắt
VỀ MỘT SỐ ĐẶC TRƯNG CỦA CÁC TƯỢNG THẦN BÀ LA MÔN GIÁO TRONG SƯU TẬP ĐIÊU KHẮC ĐÁ CHAMPA VÀ HẬU ÓC EO Ở BẢO TÀNG LỊCH SỬ VIỆT NAM - TP. HCM
Những pho tượng thần Bà La Môn giáo thuộc hai nền văn hóa Champa và hậu Óc Eo ở Bảo tàng lịch sử Việt Nam thành phố Hồ Chí Minh đã phần nào phản ánh cho sự giao lưu tiếp biến văn hóa giữa Đông Nam Á cổ đại và Ấn Độ. Chúng từng đại diện cho dòng nghệ thuật Bà La Môn giáo một thời thịnh trị trên bán đảo Đông Dương, ngày nay chúng là nguồn tư liệu quý giá cho việc nghiên cứu văn hóa và lịch sử nghệ thuật.
SOME FEATURES OF BRAHMANISM STATUES IN THE COLLECTIONS OF CHAMPA SCULPTURE AND POST – OC EO PERIOD IN HCMC MUSEUM OF VIETNAMESE HISTORY
The statues of the Brahmanism divinities belonging to Champa culture and the Post-Oc Eo period in Ho Chi Minh City Museum of Vietnamese History was partly reflects aculturational process of the ancient Southeast Asia and India. They represented the art of Brahmanism which was flourished in the Indochinese peninsula, today they are valuable resources for the study of culture and art history.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- 1.Louis Malleret 1963: Tìm hiểu nghệ thuât điêu khắc Phật giáo và Bà La Môn giáo ở Đông Dương (Bản dịch đánh máy lưu trữ tại BTLSVN – TP. HCM).
- 2.Phạm Hữu Mí 1995: Điêu khắc đá Champa. Luận án phó Tiến sĩ KHLS.
- 3.Philip Rawson 1976: The art of Southeast Asia (Nghệ thuật Đông Nam Á). Published in USA.
- 4.Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng 1998: Địa chí văn hóa TP. Hồ Chí Minh tập 1. - NXB TP. HCM.
- 5.Briggs. L.P 1951. The ancient Khmer empire. – Philadenphia
- 6.Golzio Karl – Heinz (ed) 2004. Incriptions of Champa. Shake Verlay Aachen
- 7.Groslier B.D 1962. The art of Indochina. - New York: Crown Publisher.
- 8.Southworth Aelred William 2001. The origins of Campa in Central Vietnam. A Preliminary Review. Thesis submitted for the degree of Ph.D in Archaeology, College of Linguitics, University of London.
- 9.Trần Kỳ Phương 2009. “The architecture of the temple – tower of ancient Champa (Central Vietnam)”. Champa and the archaeology of Mỹ Sơn (Việt Nam): Singapore. - NUS Press, pp. 155-197.
- 10.Vickery Michael 2005. “Revised Champa”. The ARI Working Paper no 37, published electronically by the Asia Research Institute of the National University of Singapore.
- 11.Vickery Michael 2009. “A short history of Champa”. Champa and the archaeology of Mỹ Sơn (Việt Nam): Singapore. - NUS Press, pp. 43-61.
Bài đã đăng trên Tập san KHXHNV, ĐH KHXHNV số 52 tháng 09 năm 2011, Tr: 20-26
Nguồn: Tác giả