Để làm rõ văn hóa với mục đích của nó, chúng ta hãy bắt đầu từ nghĩa gốc của văn hóa. Thuật ngữ văn hóa mà hiện nay chúng ta đang dùng không phải xuất phát từ thuật ngữ văn hóa của Trung Hoa cổ xưa, mà xuất phát từ một thuật ngữ La tinh cultura, nghĩa gốc là trồng trọt. Năm 45 trước CN, Cicéron, một chính trị gia nổi tiếng, trong một tác phẩm của mình, ông đã mở rộng nội dung văn hóa theo hai nghĩa: vẫn dùng theo nghĩa đen là trồng trọt cây cối (cultura agri); theo nghĩa bóng là trồng các linh hồn (cultura animi, animi là linh hồn - âme), tức là trồng trọt tinh thần, là giáo dục, bồi dưỡng tâm hồn con người. Nói như Chủ tịch Hồ Chí Minh là trồng người. Xét theo nghĩa gốc, văn hóa gắn liền với giáo dục, đào tạo con người, một tập thể người để cho họ có được những phẩm chất tốt đẹp, cần thiết cho toàn thể cộng đồng. Cách nói: "Kế sách một năm, không gì bằng trồng lúa. Kế sách mười năm, không gì bằng trồng cây. Kế sách lâu dài, không gì bằng trồng người" của Quản Di Ngô (tức Quản Trọng), Tướng quốc nước Tề thời Xuân Thu (771-476 trước CN) chính là theo ngữ nghĩa ấy. Phần nghĩa này rất quan trọng vì nó là nghĩa cơ bản, nghĩa cốt lõi của văn hóa. Nói khác đi, văn hóa trước hết là sự trau dồi nhân cách, tu dưỡng bản thân, theo đúng các nghĩa ban đầu là trồng trọt tinh thần mà người ta đã khái quát lại và gói gọn vào ba từ chân (đúng, thật), thiện (tốt, lành), mỹ (hay, đẹp).
Văn hóa quân sự nói chung, đặc biệt là văn hóa quân sự Việt Nam nói riêng, cũng là một loại hình văn hóa. Nó là một chi lưu của dòng sông văn hóa dân tộc Việt Nam, một nhánh văn hóa con nằm trong nền văn hóa mẹ, và cũng tương tự như các loại hình: văn hóa học đường, văn hóa gia đình, văn hóa thời trang, văn hóa ẩm thực... Ở đây có điều cần nói rõ. Thông thường, khi nói đến quân sự là người ta muốn nói đến nội dung đấu tranh vũ trang, tức nói đến những hành động bạo lực. Thế thì tại sao lại có thể đặt văn hóa và quân sự đứng chung dưới một mái nhà để tạo thành cụm từ văn hóa quân sự.
Đúng là trong chiến tranh, bắn giết, đốt phá là những việc làm tàn bạo, không phải là những hành động mang tính nhân văn nhưng khi xem xét động cơ nào buộc phải tiến hành chiến tranh, chiến tranh tiến hành theo phương pháp nào để ít tổn thương nhất đối với nhân dân, đối với kẻ thù đã hạ vũ khí... thì đấy lại là hành động của văn hóa và trong trường hợp như vậy, văn hóa quân sự không còn thuộc phạm trù quân sự nữa mà đã bước sang phạm trù văn hóa. Từ đó, chúng ta có thể hiểu "văn hóa quân sự là một bộ môn khoa học, ở trong đó, lý luận chung về văn hóa học được sử dụng để nghiên cứu về một loại hình hoạt động của con người là đấu tranh vũ trang" và văn hóa quân sự Việt Nam mang theo một định nghĩa là "mối quan hệ giữa người Việt Nam với thực tiễn đấu tranh vũ trang chống ngoại xâm để từ đó chọn ra những phương pháp hành động thích hợp và hiệu quả nhằm đi tới chiến thắng nhưng lại mang theo một dấu ấn riêng".
Theo sử sách ghi chép, từ rất lâu đời, đến mấy ngàn năm, Việt Nam đã là một dân tộc có nền kinh tế nông nghiệp lúa nước, vốn ưa chuộng hòa bình để làm ăn sinh sống nhưng vì ở vào một vị trí quan trọng về địa lý, chính trị, quân sự, bị nhiều thế lực thù địch dòm ngó nên phải thường xuyên tiến hành các cuộc chiến tranh chống ngoại xâm. Do đó, trong quá trình dựng nước và giữ nước, dòng đấu tranh vũ trang để bảo vệ độc lập, tự do của người Việt là dòng đấu tranh chủ yếu. Từ cuối thời đại các vua Hùng dựng nước đến nay, suốt trong 22 thế kỷ, dân tộc ta đã phải tiến hành 19 cuộc chiến tranh chống ngoại xâm, bao gồm 16 cuộc chiến tranh bảo vệ tổ quốc và 3 cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc. Ngoài ra, còn có hàng trăm cuộc khởi nghĩa lớn nhỏ khác.
Như vậy, việc phải cầm vũ khí chiến đấu đối với người Việt là chuyện vạn bất đắc dĩ nhưng lại hết sức cần thiết, và đó là một hành động văn hóa. Bởi lẽ, văn hóa không phải là sự cưỡng bức mà là sự thôi thúc của tâm thức con người. Không những thế, mục đích của văn hóa luôn luôn nhằm đáp ứng nhu cầu của cuộc sống. Cụ thể ở đây là nhu cầu chiến đấu bảo vệ độc lập cho tổ quốc, giải phóng cho con người, một hành động nhân văn cao cả. Nó khác hẳn hành động đấu tranh vũ trang, tiến hành các cuộc chiến tranh chinh phục, thảo phạt từng diễn ra trên hành tinh này. Trong những cuộc chiến tranh phi nghĩa ấy, các thế lực xâm lược hung bạo bao giờ cũng sử dụng đến sức mạnh của trí tuệ, mà trí tuệ là thành tựu, là phương pháp của văn hóa, nhưng lại nhằm mục đích xâm chiếm lãnh thổ, tước đoạt của cải, nô dịch con người. Nếu nói rằng đó là sức mạnh của trí tuệ thì cũng đồng nghĩa với sức mạnh của văn hóa nhưng là văn hóa thứ cấp, văn hóa bậc dưới, rẻ tiền, một loại văn hóa đen, như văn hóa dâm ô, văn hóa đồi trụy ngày nay. Chính vì thế, trong lịch sử quân sự thế giới kim cổ đông tây, những thành quả của các cuộc chiến tranh kiểu loại ấy chỉ đóng góp thuần túy vào phần lý luận, khoa học quân sự, vào những hành động vũ trang của phương pháp tác chiến như tị thực, kích hư (tránh mạnh, đánh yếu), dĩ tồi kỳ phong (bẻ gãy mũi nhọn tiến công), binh giả, ngụy đạo dã (chiến tranh là việc dối trá)... mà chưa thấy ai nói đến sự đóng góp của các thành tựu từ các cuộc chiến tranh ấy cho văn hóa quân sự. Và những nhà chỉ huy quân sự như Khương Thượng, Tôn Vũ, Ngô Khởi, Khổng Minh... ở phương Đông, Alếchxăng Maxêđoan, Giuliút Xêda, Sáclơmanhơ, Napôlêông... ở phương Tây, có thể là những thiên tài quân sự nhưng chưa bao giờ được xếp vào hàng ngũ những danh nhân văn hóa cũng như danh nhân văn hóa quân sự. Bởi lẽ những việc làm của họ không khi nào phục vụ cho quảng đại quần chúng mà chỉ hoàn toàn vì quyền lợi ích kỷ của các tầng lớp thống trị bóc lột. Rõ ràng đó là những hành động sai trái, ác độc, xấu xa, làm sao có thể được xếp ngang hàng với những mục tiêu trong sáng, lành mạnh của văn hóa.
Như đã nói, hoạt động đấu tranh vũ trang chống ngoại xâm ở Việt Nam mang tính nhân văn rõ rệt vì nó luôn luôn hướng tới mục đích chân, thiện, mỹ. Nội dung đó được thể hiện rõ rệt nhất trong nghệ thuật quân sự, bộ mặt rực rỡ nhất của văn hóa quân sự Việt Nam và cũng là nơi tập trung mọi sáng tạo cao nhất về trí tuệ của con người trong chiến tranh chống ngoại xâm.
Thật vậy, thứ nhất,văn hóa quân sự Việt Nam luôn luôn thực hiện những cuộc chiến tranh chính nghĩa để giữ nước, không xâm phạm lãnh thổ của bất cứ quốc gia nào và trên thực tế, hầu hết các thế hệ người Việt ở mọi thời đại đều hoàn thành sứ mệnh cao cả đó. Một trong hai nét đặc sắc của văn hóa quân sự Việt Nam được ứng dụng trong mọi cuộc chiến tranh chống xâm lược một cách chính xác nhất và luôn luôn đi tới thắng lợi là toàn dân đánh giặc. Chính vì thế, dân tộc ta đã khắc phục được mối tương quan lực lượng phải lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh. Không những thế, trong mối tương quan đó, văn hóa quân sự Việt Nam còn biết khoét sâu những chỗ yếu của địch, củng cố những chỗ mạnh của ta, chuyển hóa dần lực lượng hai bên để cuối cùng ta có đủ thực lực, giành thắng lợi.
Thứ hai, văn hóa quân sự Việt Nam luôn luôn hướng tới điều lành, né tránh điều dữ, cố gắng hạn chế tới mức thấp nhất, không cho chiến tranh xảy ra. Nếu không được, chiến tranh cứ bùng nổ thì tìm mọi cách, không cho địch tác chiến theo phương pháp tàn bạo của những cuộc chiến tranh thảo phạt mà buộc phải tác chiến theo phương pháp của ta. Mặt khác ở trong chiến tranh, văn hóa quân sự Việt Nam cũng tìm mọi cách đè bẹp ý chí xâm lược của đối phương thay vì hình thức tiêu diệt sinh lực của chúng, thông qua những hình thức đấu tranh phi vũ trang. Chẳng hạn như trong cuộc chiến tranh bảo vệ tổ quốc ở TK XI, khi thấy phía bên kia tinh thần chiến đấu đã nao núng sau những thiệt hại nặng, các nhà lãnh đạo chiến tranh của chúng ta đã đề xuất ra biện pháp thương lượng để chấm dứt chiến tranh, tạo điều kiện thuận lợi cho quân xâm lược an toàn rút về nước nếu chúng tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Đại Việt. Hay như để góp phần đè bẹp ý chí xâm lược, cùng với đòn tiến công quân sự, đánh vào thể xác quân địch, trong cuộc chiến tranh giải phóng ở TK XV, văn hóa quân sự Việt Nam còn chú ý thực hiện đòn đánh vào lòng người, nghĩa là dùng các hình thức vận động, giáo dục, thuyết phục để cho những người lầm đường, lạc lối ở trong hàng ngũ địch nhận ra tính chất phi nghĩa của cuộc chiến tranh xâm lược mà tìm cách đấu tranh chống lại.
Thứ ba, văn hóa quân sự Việt Nam luôn luôn hướng tới cái đẹp bằng cách đấu tranh kiên cường, quyết giành cho được thắng lợi trong mọi cuộc chiến tranh xâm lược, mở đường, đi tới tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Ai cũng thấy rõ nền văn minh Đại Việt chỉ có thể phát triển rực rỡ sau khi nền thống trị Bắc thuộc - kéo dài hơn một ngàn năm - bị đập tan và 5 cuộc chiến tranh xâm lược của hai đế quốc Tống, Nguyên bị đánh bại. Hay như một đất nước luôn luôn bị nạn can qua dày xéo như nước ta nhưng sau khi tiến hành thắng lợi cuộc chiến tranh giải phóng ở TK XV, một nền hòa bình lâu dài đã được duy trì tới 360 năm. Đặc biệt là dưới thời hiện đại, nếu những đạo quân xâm lược của hai đế quốc to không bị chiến bại sau 30 năm chiến tranh giải phóng, làm sao đất nước ta được thống nhất và công cuộc đổi mới của dân tộc ta lại thu được những thành tựu huy hoàng như bây giờ.
Nguồn: Tạp chí VHNT số 330, tháng 12-2011