Cổng miếu mùa Đại lễ làm chay năm 2013
Người Hoa bang Hẹ có mặt tại vùng núi Bửu Long rất sớm với các nghề làm đá, nghề mộc và nghề rèn gia truyền có từ lúc còn ở cố quốc. Theo sách Gia Định Thành Thông Chí của Trịnh Hoài Đức thì ban đầu các bang người Hoa đến Cù lao Phố cùng chung tay hợp nhất thành “Thất phủ” (bao gồm Tuyền Châu, Chương Châu ở Phúc Kiến, Mai Châu, Triệu Khánh, Quảng Châu, Triều Châu ở Quảng Đông, Quỳnh Châu ở Hải Nam), xây Thất phủ cổ miếu (chùa Ông) để đoàn kết toàn cộng đồng. Trong đó, nhóm xuất thân từ Huệ Dương (Quảng Đông) thuộc nhóm Sùng Chính, tức nhóm Hoa bang Hẹ sau đã tách ra, lựa chọn vùng núi đá Bửu Long, nơi có nguồn đá xanh dồi dào, chất lượng tốt, dễ khai thác để có thể tiếp tục nghề làm đá gia truyền. Họ khai thác nguồn đá xanh tại chỗ để đúc thành nhiều sản phẩm khác nhau như (1) vật liệu ngành xây dựng như bậc tam cấp, đá lát sân, đá lát tường, chân cột v.v.; (2) vật trang trí: tứ linh, tượng đá, hoa văn trang trí; (3) đồ thờ cúng như bia mộ, bàn thờ, đèn đá, lư hương, chân đèn; và (4) đồ gia dụng như cối, chày, ly, bàn, ghế, bàn cờ tướng v.v.. Nhiều nhãn hiệu từng nổi tiếng một thời như Tân Phát Hưng, Đặng Hữu Lợi, Bửu Long, Tín Nghĩa, Tân Vĩnh Quang, Nhật Thành, Ôn Sòi v.v.
Tam vị tổ sư thờ ở gian chính
Để đánh dấu quá trình định cư vùng đất mới này, người Hoa bang Hẹ xây dựng miếu Tổ sư vào năm 1684 để thờ ba vị tổ sư của ba nghề là làm đá. Tục thờ này sớm có từ thời ở cố quốc, đã theo bước chân người Hoa truyền vào vùng Biên Hoà từ cuối thế kỷ 17. Tam vị gồm Ngũ Đinh[1] – tổ nghề đá, Lỗ Ban - tổ nghề mộc và Uất Trì[2] – tổ nghề rèn. Người Hoa Hẹ mong muốn thống nhất toàn bang Hẹ và đoàn kết giữa các thành viên cộng đồng thông qua tục thờ này. Trong khi đó, người Hoa gốc Quảng Đông, Hải Nam, Phúc Kiến hay Triều Châu tại Việt Nam có xu hướng tập trung thờ bà Thiên Hậu hay ông Quan Công.
Dần dà, người Hoa bang Hẹ nhận ra rằng hàng hoá họ làm ra khá giới hạn về thị phần do mối quan hệ giữa họ với các bang người Hoa khác và với người Việt còn lỏng lẻo, ít nhất là tục thờ Tam vị tổ sư của họ ít được biết đến. Cuối cùng, để tăng cường quan hệ và mở rộng thị phần, người ta quyết định đổi tên miếu Tổ sư thành miếu Thiên Hậu, phối thờ thêm Thiên Hậu và Quan Đế. Cổng miếu từ đó trở đi đổi thành Thiêu Hậu cổ miếu dù gian trung tâm của chính điện là thờ Tam vị tổ sư.
Việc phối thờ bà Thiên Hậu xuất hiện vào đầu thế kỷ 20. Lúc này vùng Bửu Long có nạn dịch tả ảnh hưởng nhiều người. Có ông Sùng Khoỏng bịt mặt khăn đỏ ứng lên trồng chuối ngược đi từ ngoài cổng vào trong miếu Tổ sư, ông mách người dân trong vùng đi tìm đủ 103 vị thảo mộc về rồi đánh số từ 1 đến 8 để chia vị, sau bảo mọi người đi về bốn hướng đông tây nam bắc để lấy thêm vỏ cây, ngọn cỏ, lấy tóc người v.v. để về bốc thuốc. Người bệnh uống vào thấy hết nên tin rằng hình ảnh ấy là Bà Thiên Hậu linh ứng. Để tạ ơn 3 vị tổ sư và bà Thiên Hậu, người Hoa bang Hẹ tổ chức Lễ hội làm chay mỗi 3 năm một lần vào các năm Dần - Thân - Tỵ - Hợi.
Sân khấu hát bội ngày hội
Nhộn nhịp buổi cơm chay ngày hội
Lễ hội làm chay nhằm vào dịp cúng tế chung của tam vị Tổ sư từ ngày 10 đến 13 tháng 6 hàng năm. Lễ hội làm chay năm nay được tổ chức 4 ngày, tương ứng từ ngày 17 đến ngày 20 tháng bảy dương lịch.
Ngày 10 tháng 6 chủ yếu là khai lễ chiêu thỉnh chư thần, lễ khai đàn – khai quang điểm nhãn, đãi cơm chay, biểu diễn võ thuật và hát bội.
Ngày 11 tháng 6 mở lễ Khai kinh cầu an, lễ Ngọ môn đáp tướng, đại cơm chay và diễn hát bội.
Ngày 12 tháng 6, Chánh lễ làm chay, có lễ Khai bảng, hội thỉnh lồng đèn, lễ phóng thuỷ đăng, lễ lập đàn chay, làm lễ bắc cầu để rước chư thần, đãi cơm chay và hát bội, múa hẩu.
Ngày 13/6, ngày kết thúc Đại lễ Làm chay gồm lễ cúng thí, lễ xô giàn, cúng cả chay lẫn mặn, hát bội, múa hẩu.
Thỉnh thánh vị vào lại cổ miếu đêm kết thúc Đại lễ làm chay
Múa hẩu ngày hội
Qua từng hoạt động của Lễ hội làm chay, người Hoa bang Hẹ đang thực hiện hai sứ mệnh cao cả. Một là gìn giữ bản sắc văn hoá người Hoa bang Hẹ, góp phần làm phong phú hơn văn hoá Việt Nam, hai là nỗ lực hoà đồng vào cộng đồng chung các dân tộc Việt Nam.
Mùa lễ hội làm chay năm 2013 chào đón rất nhiều thiện nam tín nữ tham gia, ai ai nét mặt cũng hân hoan. Dòng người tấp nập trẩy hội Đại lễ làm chay đã làm sống động thêm tình đoàn kết các dân tộc anh em vùng Biên Hoà, Đồng Nai.
[1] Có sách viết là Ngũ Đăng, ông tổ nghề đá, là một lực sĩ nổi tiếng người nước Thục thời Chiến Quốc. Ông được cho là người sinh ra nghề làm đá. Theo lời kể ông Phan Kim Sơn, tương truyền ông Ngũ Đăng “bày kế cho Tần Thuỷ Hoàng” dung đá tảng để kết nối Vạn Lý Trường Thành nên dân gian tôn làm ông tổ nghề đá.