Mới đây, nhiều tờ báo đưa tin về một thanh niên mới 18 tuổi vì thích ăn chơi đua đòi và có mâu thuẫn với gia đình đã dùng xà beng đập vào đầu em trai mình đến chết, sau đó tiếp tục hành hung hai em gái rồi rút dao đâm đến cả cha mình vào cổ... Những chuyện tương tự như vậy không phải hiếm thấy vào thời buổi này. Ở những mức độ khác hơn, hành vi tội ác trong xã hội chúng ta là một hiện tượng nhan nhản, ngày nào cũng xuất hiện nhiều và thâm nhập sâu rộng ở các thành thị trước rồi xuống dần đến các vùng nông thôn xa xôi hẻo lánh - nơi mà trước đây người ta quen nghĩ là có đời sống hiền hòa, phong tục thuần hậu.
Việc loại trừ tội ác là một vấn nạn chung của mọi xã hội thuộc phạm vi của nhiều ngành hoạt động khác nhau trong đó luật pháp và các cơ quan chức năng bảo vệ luật pháp tuy đóng một vai trò bề ngoài có vẻ quan trọng nhưng không phải là tất cả. Bởi một lẽ đơn giản nhưng rất khắc nghiệt: tội ác ở khắp mọi nơi và có thê tồn tại ít nhiều trong mỗi con người bằng xương bằng thịt vốn có sẵn nhiều dục vọng và thói ích kỷ. Do vậy việc hạn chế tội ác hẳn phải là một vấn đề triết lý sâu xa chứ không chỉ giới hạn trong phạm vi của chính trị học hay đạo đức học hoặc tôn giáo thuần túy.
Quan niệm về hành vi tội ác có phạm vi khá rộng và tùy theo từng người, từng cộng đồng và các nhóm tôn giáo, xã hội. Hành hạ một con vật đê nó chịu sự đau đớn có khi đã được coi là tội ác rồi chứ không phải đợi đến cướp của giết người. Nhưng tội ác từ mức độ giết người trở xuống thì thời nào nơi nào cũng có, tồn tại bên cạnh những hành vi lương thiện và nghĩa cử cao đẹp khác của con người.
(Cảnh trong phim Bên lề tội ác. Nguồn: www. vipphim.net)
Thực tế cuộc sống xác nhận rằng đời sống kinh tế càng khó khăn thì cường độ đấu tranh xã hội càng lớn, sự cọ xát tranh chấp giữa con người càng nhiều và do đó tội ác càng có chiều hướng gia tăng. Quy luật này có thê được chứng tỏ qua cuộc sống thường có tính chất gay go hơn ở các đô thị lớn, nơi có nhiều người khôn của khó mà cuộc đấu tranh sinh tồn quyết liệt dê làm con người bị tha hóa hơn so với các vùng nông thôn hoặc miền núi. Sự suy đồi của đạo đức cũng có thể từ đó mà ra nhưng trong bối cảnh của xã hội thời nay thì không có gì kìm hãm bớt, trái lại càng có sức lan tỏa mạnh vì con người sau khi bị đánh mất niềm tin vào những giá trị truyền thống, lại còn bị kích động bởi lối sống bạo lực ngày càng được cổ võ và phổ biến khắp nơi trên một số phương tiện thông tin và phim ảnh, hậu quả của nền văn minh thiên trọng vào những giá trị kinh tế, vật chất và của chủ nghĩa thực dụng-duy vật-duy kinh tế tầm thường. Sự dốt nát và nạn thất học, bạn đồng hành của tình trạng nghèo thiếu, cũng như mức sống còn chênh lệch quá lớn giữa các bộ phận dân cư tạo nên những đố kỵ và mâu thuẫn về tâm lý có thê là những nguyên nhân quan trọng khác làm gia tăng sự lệch chuẩn hành vi xã hội, khiến cho mối tương quan ứng xử giữa con người khó bề giữ được sự thăng bằng cần thiết.
Nhưng thật khó giải thích thế nào cho ổn mọi động cơ hành vi con người, bởi không phải kẻ nào bần cùng cũng sinh làm đạo tặc, và không phải xã hội nào giàu có no đủ cũng tránh được tội ác, cũng như ta không hiếm thấy nhiều trường hợp người được học hành đầy đủ song vẫn phạm vào những tội ác tày trời với những thủ đoạn tinh vi mà kẻ bị hại khó lòng tránh đỡ được. Trong mỗi con người đều có tính thiện lẫn tính ác, và trong xã hội cũng có kẻ ác người thiện, cả hai phạm trù đạo đức này luôn đi đôi với nhau trong suốt tiến trình của lịch sử nhân loại nhưng xã hội sở dĩ giữ được một phần trật tự là nhờ có luân lý và luật pháp thể hiện trong những bộ luật thành văn và bất thành văn.
Nhờ sự ràng buộc của luật pháp con người có thể điều chỉnh hành vi của mình để sống hài hòa tương đối với tha nhân, nhưng trước hết và chủ yếu nhờ vào niềm tin ở các giá trị đã được công nhận như phong tục, đạo đức, văn hóa... tạo thành lối sống xác định mối quan hệ giữa các thành viên trong cộng đồng. Chẳng hạn, niềm tin vào luật “quả báo nhãn tiền”, ở hiền gặp lành ở dữ gặp ác, có thể sẽ làm cho người ta tự giác ngại làm những điều sai trái. Xét về phương diện này thì các tôn giáo và đời sống hướng về tâm linh cũng có vai trò tích cực của nó trong việc góp phần điều hòa các hành vi xã hội, kể cả những niềm tin vào sự thưởng phạt ở kiếp sau và sự phân biệt giữa thiên đường với địa ngục. Có những niềm tin khác gần như không có tính chất gì tôn giáo, như ở phần lớn người Việt Nam, cho rằng con cháu phải có bổn phận thiêng liêng gìn giữ những truyền thống tốt đẹp của ông bà; con người ta ăn ở phải biết tích lũy phước đức, thương yêu giúp đỡ kẻ khác, khi chết cũng để đức lại cho con cháu được nhờ... Kinh nghiệm thực tế cho thấy rằng chính ý thức cá nhân và ý thức xã hội về mặt đạo đức là tương đối quan trọng hơn so với bất kỳ một hình thức kiểm tra, bắt bớ hay nghiêm trị nào khác. Một chính phủ nếu chỉ biết ban hành luật pháp mà không đủ đức độ để giáo dục cảm hóa dân chúng thì cũng không bao giờ xây dựng thành công một môi trường xã hội lành mạnh, và trong trường hợp đó các hành vi tội phạm trong xã hội chỉ có xu hướng gia tăng chứ không thể được giảm bớt.
Việc sử dụng những tác nhân ngoài luật pháp nhằm tạo ảnh hưởng tốt đẹp lên đời sống đạo đức của công chúng vì vậy rất cần thiết và mang một ý nghĩa quan trọng. Thực tế cho thấy có những cộng đồng xã hội sống tốt hơn những cộng đồng khác về phương diện quan hệ con người, trong đó thậm chí nạn trộm cắp giựt giọc hầu như cũng không có, như có thể thấy được ở một số nơi mà các nhà kinh tế học gọi là những nước theo nền kinh tế Phật giáo (buddhist economy), với đặc điểm là hoạt động kinh tế có phần tiêu cực, cuộc sống hướng về những giá trị tâm linh nhiều hơn, tuy thiếu vẻ rực rỡ bề ngoài của cuộc sống văn minh giàu có nhưng con người lại đối xử với nhau một cách hòa bình và tử tế.
Nhiều nước châu Á hiện nay trong khát vọng chạy theo các cường quốc tiền tiến đã nghiệm ra rằng có một sự mất cân đối nào đó biêu hiện bằng lối sống có phần thác loạn của quần chúng cùng với sự mất đi của một số giá trị đạo đức cố hữu, và thấy rằng cần phải có một sự điều chỉnh cần thiết cho đường lối phát triên bằng cách bổ sung những biện pháp mới về văn hóa - giáo dục và tuyên truyền xã hội. Đó là cái giá phải trả cho từng quốc gia đang cố hướng tới sự giàu mạnh nhưng phải chọn lựa, điều tiết thích hợp, khi nhận chân rằng cái tinh thần trục vật chủ nghĩa (chạy theo vật chất của cải) chắc chắn không phải là đường hướng căn bản tốt nhất đê xây dựng xã hội với những giá trị nhân bản đích thực.
Trong chiều hướng đó, những nước có hoàn cảnh như Việt Nam nếu muốn khắc phục hậu quả tình trạng xuống cấp xã hội của mình với đầy rẫy những hiện tượng tiêu cực về lối sống và tội ác đang có xu hướng tràn lan, các nhà hoạt động văn hóa - giáo dục - luật pháp cũng như các nhà hoạt động xã hội và hoạch định chính sách cũng cần xem xét để đặt lại vấn đề một cách sâu sắc và toàn triệt hơn, trên một căn bản dài hạn chứ không phải chỉ tìm ra những giải pháp cục bộ nhất thời.
Nguồn: CGvDT số 1326, ngày 28.9.2001