Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trên cơ tầng của truyền thống văn hóa dân tộc/quốc gia, mỗi vùng miền, mỗi cộng đồng cư trú nhất định nào đó, đều chịu ở những mức độ khác nhau sự tác động đa chiều của tự nhiên, lịch sử, giao lưu văn hóa..., để hình thành nên những đặc điểm của riêng mình, bằng quá trình thích ứng, thâu nhận, biến cải, dung hợp, để có thể tồn tại và phát triển. Những đặc điểm này, góp phần tạo nên tính cách con người sống và lớn lên trong cái nôi của từng không gian cư trú cụ thể.
Bánh xe của lịch sử thì cứ tiếp tục lăn về phía trước với những đổi thay, nhưng, tính cách và lề thói của con người mỗi nơi thì không thể có cùng tốc độ thích ứng, để đồng bộ với những yêu cầu của vô vàn hoàn cảnh và tình huống mới do lịch sử đang đặt ra.
Chính vì vậy, ở đây chúng ta cũng cần phân biệt những gì được gọi là hệ giá trị truyền thống, và hệ quả của những lưu tích từ di sản cổ truyền mà mỗi địa phương đồng thời phải đối mặt.
Truyền thống là những kết tinh mang yếu tính tích cực, vượt thời gian để tạo nên những hệ giá trị bền vững. Đó chính là bản lĩnh, sức sống, nét đẹp, điều hay, trong hành trang làm nên nội lực cho quốc gia, hay mỗi địa phương, từ quá khứ cho đến hiện tại, và tất nhiên, còn tiếp tục phát huy trong cả tương lai.
Cùng với nó, di sản cổ truyền mà mỗi dân tộc hay cộng đồng tiếp nhận, thụ hưởng, bảo lưu, dù là chứng tích thực thể hay hệ quan niệm và ứng xử, đều mang tính hổn dung, ở đó, nhất thiết không phải mọi cái đều hay hoặc còn phù hợp với những yêu cầu cầu xã hội hiện đại.
Biết vậy, nhưng để đoạn tuyệt với nó là điều không phải dễ. Có thể, con người tại chỗ, bằng khả năng phân tích, bằng ý thức tự phản tĩnh, hoặc từ sự tiếp nhận nhiều kênh thông tin.., đều có thể đủ dữ liệu đối sánh giữa được- mất, đúng-sai, hay-dỡ, mạnh- yếu.., trên cả hai mặt định tính lẫn định lượng, để có thể thấy ra điều cần phải làm và điều chỉnh. Nhưng, ở đây sức mạnh vô hình của những thói quen, nếp tư duy, những phản ứng tự nhiên xuất phát từ trong vô thức hay tiềm thức, luôn tạo ra những hiệu ứng mà chúng ta thường tự mình không nhận ra, không tự khống chế hay kiểm soát được, nhưng, người khác lại dễ nhìn thấy. Đó chính là sức mạnh của những nếp hằn nằm trong vùng khu trú của di sản cổ truyền chứ không phải là hệ giá trị truyền thống.
Những điều không hay, không phù hợp, có khả năng tồn tại ẩn khuất trong mỗi chúng ta, và, nếu từng cá nhân đều có chung một nếp nghĩ như vậy, thì đó cũng chính là những gì mà tập thể không thể không bị ảnh hưởng.
Điều đáng nói: việc đoạn tuyệt với những hệ lụy ấy không thể là chuyện một sớm một chiều, và nó sẽ còn tồn tại lâu dài, nếu chúng ta không cùng nhau làm một cuộc “đại phẩu” để cắt nó khỏi “thân thể” có vấn đề của mình.
II. HỆ DI SẢN ĐẶC TRƯNG CỦA HUẾ
Huế nằm trong số những đô thị hình thành không từ xuất phát điểm hay bối cảnh của một trung tâm có quá trình hội tụ thương nghiệp, trao đổi hàng hóa hay giao dịch thương mại phồn thịnh mang chất đặc trưng, mà góp một nét rất riêng trong chân dung đô thị Việt Nam từ nhu cầu xây dựng trung tâm chính trị, hành chính,văn hóa quốc gia trong giai đoạn lịch sử đầy biến động ( đầu thế kỷ 19 đến giữa thế kỷ 20).
Dù sao, đặc trưng của một dạng đô thị hình thành trong bối cảnh như vậy, vẫn không mang tính điển hình của một thành phố thương nghiệp sầm uất. Trong quan điểm xây dựng từ bước khởi đầu, người chủ trương đã thiết lập ý đồ lấy phong thủy, dịch lý, thẩm mỹ cảnh quan và đối sách chính trị làm yếu tố quyết định, cho nên, con đường phát triển của Huế từ đấy đã không chọn sự kỳ vỹ, hoành tráng trong xử lý hình khối kiến trúc, hoặc chất năng động nhộn nhịp của trung tâm thương nghiệp làm trục tư tưởng hay biểu hiện thiết kế quy hoạch lâu dài.
Con người nơi đây không phân biệt thành phần xã hội, đã tìm gặp nhau ở một lối ứng xử, chọn thiên nhiên cây xanh làm nền, dùng thành quả công trình kiến trúc tận dụng thiên nhiên để tôn vinh giá trị cái mình làm nên. Nhưng, cũng chính từ đó, thiên nhiên cũng đã hòa vào dòng kiến trúc, tạo nên chất nhân văn vốn không là thuộc tính tự có.
Xuất phát từ sự hội ngộ đẹp đẽ ấy, đô thị Huế đã tạo nên ấn tượng khá đặc trưng của mình như một “ sự chuyển hóa mềm mại trong lịch sử, trong không gian các hình thái kiến trúc, góp phần quyết định tạo lập nên một chốn đô thị, hầu như duy nhất ở nước ta mà các phẩm chất như tính cân bằng, tính nhất thể, tính hữu cơ đã trở thành đặc tính cơ thể đô thị”[1]
Chính sự đa dạng của địa hình trong vùng eo thắt của dải đất miền Trung đã tạo cho Huế nhiều kiểu kiến trúc làng truyền thống, thể hiện sự ứng xử phong phú của con người nơi đây, đối với cảnh quan thiên nhiên và môi trường cư trú. Trong đó, chúng ta có thể nhận ra một vệt cư trú khá liên tục bao quanh đô thị Huế, với nhiều không gian và địa hình khác nhau. Tuy vậy, chúng ta vẫn có được cảm giác quen thuộc từ tinh thần gắn kết giữa con người với thiên nhiên một cách nhuần nhị và thuần nhẩt.
Sự liên kết tự nhiên, tích hợp những yếu tố có thể xen chút dị biệt, thậm chí đối lập trong thân phận chủ nhân, nhưng không mảy may đối chọi nhau trên phương diện cảnh quan và cấu trúc, theo chúng tôi, đó chính là diện mạo, chất lượng cũng như tính cách của không gian đô thị Huế.
Dưới góc độ văn hóa tâm linh, Huế cũng là nơi tụ hội điển hình và quy mô những di tích và sinh hoạt tâm linh trong hệ tam giáo Nho, Phật, Lão và nhất là Phật giáo, kể cả Thiên Chúa giáo, tín ngưỡng thờ Mẫu, và nhiều dạng tín ngưỡng dân gian khác.
Như vậy, nếu có thể dựng lại một cách khái quát nhất những di sản đặc trưng và cũng là thế mạnh của Huế, chúng tôi thấy rằng có 3 mảng di tích văn hóa đáng quan tâm bật nhất:
- Di sản văn hóa cung đình
- Di sản văn hóa dân gian
- Di sản văn hóa tâm linh
Khi đặt hệ di sản vừa nêu vào trong phạm trù là thế mạnh của Huế trên nhiều phương diện ( lịch sử, văn hóa, kinh tế du lịch..), nhất thiết chúng phải hiện diện trong không gian Huế một cách trọn vẹn cả phần “xác” lẫn phần “hồn”. Ở đây, trên thực tế, chúng ta đang đối diện với hàng loạt những bài toán nan giải, để có thể dũng cảm và tự tin chọn lựa một hướng tồn tại cho hệ di sản này giữa bảo tồn và phát huy, giữa phục nguyên và thích ứng, giữa sự chân thực và kịch bản du lịch...
II.1 . Đối với di sản văn hóa cung đình: Ở đây xét trên cả 2 loại hình vật thể và phi vật thể, dạng văn hóa này thường mang tính trang trọng và chất điển chế rất cao. Vì vậy, khi phục hồi một di tích hay sinh hoạt phong tục lễ hội rất cần đến chất chuyên nghiệp trong lĩnh vực nhân sự: từ tầng lớp lãnh đạo chủ trương, cho đến đội ngũ thi hành, kể cả nghệ sĩ, nghệ nhân, phải được hiểu và phải hiểu một cách thấu tình đạt lý đến từng chi tiết trong quá trình thể hiện.
Tính phóng túng, khoáng đạt và dung dị của dân gian sẽ khó có chỗ đứng trong môi trường văn hóa cung đình, và, hầu như, đó chính là ranh giới tối thiểu mang tính quyết định để phân biệt, và tạo nên chất đặc trưng, cũng như hấp lực đối với du khách khi đến Huế, trong quá trình tiếp cận với dòng văn hóa này.
Trong các di tích cung đình Nguyễn hiện nay, do thời gian, chiến tranh và ý thức con người, đã không còn cho chúng ta được dịp cảm nhận một cách trọn vẹn cái đẹp mang tính quần thể, nơi chứa đựng cả trục tư tưởng, triết lý, thẩm mỹ, của một triều đại trên tầng vĩ mô. Hiện tại, con người chỉ còn được nhìn thấy phần lớn những đơn nguyên lẽ loi, hay những tổ hợp thiếu hoàn chỉnh, và nhất là thiếu hẳn hơi thở của triều đại và con người: chủ nhân của một thời đã qua; bằng sự tái hiện một cách sắc sảo trong trang trí, thiết trí và sắp xếp nội thất của con người hôm nay.
Nếu sự toàn vẹn về mặt ngoại hình của di tích cung đình Huế hiện nay chỉ còn tồn tại mang tính cục bộ, thì việc tạo nên sức sống cho các đơn nguyên kiến trúc, có một tầm quan trọng đặc biệt để níu giữ hồn của di tích, và, đó cũng là động lực để níu chân khách tham quan. Chúng ta phải chú ý đến sự cảm nhận của du khách một cách vi tế trong từng góc nhỏ, để chúng mang hơi hướm của một di tích ấm áp, linh hoạt, và sống động, chứ không phải là một xác nhà lạnh lẽo. (Biện pháp bảo vệ được các hiện vật trong không gian ấy là chuyện của người có chức năng, không thuộc phạm vi báo cáo này)
Trong các sinh hoạt nghi lễ, phong tục, giải trí, mang chất cung đình (sinh hoạt diễn xướng, tạo hình, lễ hội...), nếu chưa thể hiện được chất sang trọng, trang trọng và điển chế thì cũng khó để thoát khỏi chất vốn có của một hội làng, chông chênh trong không gian kiến trúc quý tộc. Điều ấy thật không dễ gì để biến du khách thành những sứ giả quảng bá cho du lịch địa phương phát triển.
II.2 Đối với di sản văn hóa dân gian: Bên cạnh nhiều yếu tố làm nên chân dung với những nét đặc trưng của đô thị Huế, thì làng truyền thống-chất làng truyền thống, ẩn hiện trong nội thị, hay kết tụ thành những mảng không gian đặc thù ven đô, chính là một bộ phận hữu cơ, không tách rời với trung tâm đô thị Huế. Đặc điểm này làm nên sức sống và nét duyên dáng trong sự phối kết, và con người lẫn thiên nhiên đều dường như có sự thỏa hiệp ngầm để tạo nên diện mạo của một vùng đất giàu ấn tượng.
Sự lớn lên của mỗi đô thị thường có những lộ trình khác nhau và tất yếu sẽ kèm theo với cái giá phải trả chí mạng, nếu như chúng ta không tĩnh táo để nhìn lại: bắt được không chỉ cảnh sắc, mà còn là thần thái của chính nó, để có những ứng xử thích hợp.
Huế sẽ thế nào nếu những ngôi nhà vườn cứ lần lượt bị xé nhỏ. Vườn có thể còn, nhưng là rẻo vườn, chứ không phải là ngôi vườn, khu vườn; hoặc vườn tách khỏi đô thị để hằn lên lằn ranh ngăn cách giữa chúng với nhau.
Tình hình làng truyền thống gắn với đô thị hiện nay đang đứng trước những thử thách nghiêm trọng. Không ít những ngôi nhà rường cổ đang buộc chủ nhân phải toan tính xử lý nó, khi họ thường xuyên mệt mõi, đối diện với sự mối mọt, mục nát, tối tăm, ẩm thấp, trong lúc gia cảnh lại đang khó khăn; khi mà hấp lực của những tiện nghi hiện đại, đang hằng ngày hàng giờ buộc chủ nhân phải giải những bài toán đối sánh giữa cái đang có và sẽ có. Và, chúng ta cũng không loại trừ ở đây, những áp lực từ thế hệ trẻ, trước chủ nhân là những người thân của họ về nhu cầu sử dụng nội thất hiện đại.
Không tôn trọng, không bảo vệ những ngôi làng truyền thống hay làm biến dạng nó dưới bất cứ lý do nào, đều có thể làm cho đô thị Huế đánh mất những ấn tượng đẹp và độc đáo của một thành phố vườn vốn được du khách trong và ngoài nước ca ngợi.
Trong thời gian qua, khi những lo toan căng thẳng về mặt cơm áo, đói no, ấm lạnh, không còn là mối đe dọa thường trực đối với người nông dân; khi sự mở lối của của chính sách xây dựng nền văn hóa tiên tiến và đậm đà bản sắc dân tộc được khuyến khích; khi sự hội nhập, giao lưu đã tạo nên những tiền đề cho việc phát triển du lịch văn hóa; khi hiện tượng hội nhập, toàn cầu hóa, đe dọa đến sự sống còn của văn hóa truyền thống...; tất cả những nhân tố ấy, ít nhiều góp phần hâm nóng lễ hội ở vùng đất này nhanh chóng hồi sinh và phát triển. Từ thực tế ấy, hàng năm mọi người trong cộng đồng của mình lại được dịp tiếp tục nô nức với hội vật, đua ghe, cầu ngư, rước Mẫu, nghinh thần..., kết hợp những dịp tế làng hoặc lễ hội phong tục của từng địa phương.
Điều đáng quan tâm ở đây là sức sống của lễ hội phải xuất phát từ nhu cầu tự thân của mỗi cộng đồng. Có được như thế, lễ hội sẽ là lễ hội đúng nghĩa, đúng điều cần làm khi nhu cầu ấy vẫn đang tồn tại. Đó là sự kết hợp không chỉ vấn đề tâm linh, mà còn là đạo lý, là sức mạnh của sự nối kết, là phương thuốc hóa giải những ức chế, là sự nhắc nhở nhau, tha thứ và cảm thông những vướng mắc trong cuộc sống đời thường, là sự giáo dục nếp phong hóa hương thôn đối với thế hệ trẻ.
Cho nên, việc phục dựng hay phát triển quy mô, tính chất của lễ hội tuyệt nhiên không phải là cơ hội để phô trương thanh thế hay “ đóng tuồng”, thêm thắt những điều vốn không có, hay không hợp lý, nhằm cuốn hút du lịch, tạo được tiếng vang. Và tất nhiên, cũng chẳng phải là dịp để khẳng định thành tích phong trào hay giải trí thuần túy.
Chính vì vậy, lễ hội không thể được xem là phương thức có được bằng mọi giá để chứng minh rằng: mình cũng ý thức được những gì cần làm, trong việc tham gia vào phong trào xây dựng nền văn hóa mới tiên tiến và đậm đà bản sắc dân tộc, để rồi, mạnh dạn dựng nên những điều vốn không có, hay trở thành phiên bản đánh cắp từ một cộng đồng khác.
Tất nhiên, mô hình lễ hội trong hoạt động văn hóa làng xã hay khu vực không phải là những gì hóa thạch hay điển chế đến mức khó di dời, nhưng, có những yếu tố then chốt, nhằm trả lời câu hỏi tại sao tôi làm, nó có ý nghĩa thế nào với quê hương tôi, xóm làng cộng đồng của tôi, thì điều ấy phải có thực trong lòng thành viên cộng đồng.
Bảo tồn hay gìn giữ bất cứ một sản phẩm văn hóa sống nào cũng phải tôn trọng ý nghĩa, không gian và và điều kiện tồn tại của nó. Nếu bất chấp, chỉ dựng cái xác thật đẹp mà không có linh hồn, thì chẳng bao giờ thuyết phục được ai, thậm chí xúc phạm đến những giá trị văn hóa tốt đẹp vốn có.
II.3 Di sản văn hóa tâm linh: Dưới góc độ du lịch văn hóa tâm linh, mọi người đều thừa nhận rằng Huế là đất Phật, nơi mà mật độ chùa như quốc tự, tổ đình, danh lam, chùa làng, chùa tư, khuôn hội, tịnh xá.. chiếm một mật độ rất cao, nơi mà các hoạt động Phật sự cũng rộn ràng dễ nhận biết. Cho nên, chùa trong các tour du lịch hành hương, chiêm bái, vãng cảnh, đã được thiết lập từ lâu cho du khách đến Huế. Điều đáng nói ở đây, là ngôi chùa hay vị thế của ngôi chùa trong di sản văn hóa Huế không phải là những di tích của một thời đã qua như cung điện, lăng miếu nhà Nguyễn; chúng không phải chỉ còn là hồi quang của những gì đã từng phát triển rực rỡ trong quá khứ , mà là những thực thể sống động, chứa đựng những dòng chảy văn hóa thâm trầm, nối quá khứ với hiện tại, nối con người nơi đây với sự ứng xử xã hội trong các mối tương quan với đất trời, với cộng đồng và tha nhân. Cho nên, nếu chùa Huế chỉ được du khách ghi nhận chủ yếu như không gian tâm linh với những ấn tượng về mặt cảnh quan hay kiến trúc, thì dưới góc độ du lịch, chúng ta đã tự làm nghèo đi nhiều ưu thế của một loại hình di sản khó nơi nào ở Việt Nam sánh bằng.
Tiếp thu văn hóa tâm linh từ lớp người tiền trú, Mẫu/Mẹ Thiên Y Ana là một hình tượng được tôn thờ phổ biến trong dân gian miền Trung, và Huế đã từng là trung tâm của hoạt động này trên quy mô vùng miền. Nếu chúng ta có được một cái nhìn thoáng và chính xác hơn, thì Mẫu Thiên Y Ana chẳng qua là vị thần nông nghiệp, bà Mẹ đất đối với người nông dân, một vị thần nữ hay Phật Bà đối với nhiều tầng lớp dân gian miền Trung và xứ Huế nói riêng. Các hình thức cầu đồng hầu bóng là một hiện tượng phổ biến trên phạm vi thế giới, cũng như trên khắp đất nước ta. Hiện tượng này không gây tác hại cho vấn đề đạo đức hay trật tự xã hội, mà ngược lại còn tạo nên sự quân bình và yên ổn về mặt tâm lý trước những bất an và áp lực của đời sống cơm áo, cũng như đức tin để bám víu, cần có trong đời sống tâm linh. Tất nhiên, chúng ta cũng có thể nhận ra đâu đó hiện tượng “buôn thần bán thánh”, nhưng, đây chỉ là những hệ lụy tất yếu có thể khống chế được.
Nguyễn Hữu Thông – diễn giả tại Tọa đàm Khoa học “Làng nghề Huế”
(Huế, 5-6-2010)
III. YẾU TỐ CON NGƯỜI TRONG VIỆC BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY HỆ DI SẢN
Như những gì đã đề cập trong phần đặt vấn đề, con người với tư cách là chủ nhân của mỗi vùng đất, ngoài hành trang truyền thống kế thừa từ cố hương, còn là sự cộng hưởng trên vùng sinh sống mới những yếu tố hình thành từ quá trình thích ứng, tiếp biến để sinh tồn. Điều đáng nói, kèm theo với hiện tượng trên là những thói quen, nếp nghĩ, mà trước bối cảnh của xã hội hiện đại, chúng tiếp tục được/bị tồn lưu như một thuộc tính của những điều hay lẫn không hay, cái còn khả năng phát huy lẫn lộn với cả những điều không còn phù hợp, thậm chí, gây cản trở cho cái đúng, cái hay, phát triển.
III.1 Những yếu tố mang tính kế thừa:
- Chủ nghĩa kinh nghiệm từ tâm lý nông nghiệp: Đặc trưng của văn minh và văn hóa ruộng nước vốn từ ngàn đời đã thành tựu và thuyết phục tính hiệu quả bằng chủ nghĩa kinh nghiệm. Mẫu hình để thành công trong công việc đồng án là học tập và làm theo cách : Trông trời, trông đất, trông mây- Trông mưa, trông nắng, trông ngày, trông đêm của các lão nông tri điền, đã cho chúng ta thấy hiệu ứng của chủ nghĩa kinh nghiệm đã bám rễ một cách chắc nịch, trong tâm thức của tuyệt đại đa số người Việt mấy chục thế kỷ qua. Và tất nhiên, tâm lý ấy còn tồn tại một cách dai dẳng trong vô thức lẫn tiềm thức người nông dân, ngay cả khi ý thức mới đã và đang có điều kiện định hình trước thay đổi của lịch sử và thời đại.
Trong cơ cấu làng Việt cổ truyền ở Trung bộ, với tính chất như Trần Từ nhận xét là đậm đặc chất tiểu nông công hữu, đó chính là môi trường để nuôi cấy yếu tố cào bằng. Con người ở đây rất dễ trở nên khó chịu khi thửa ruộng nhỏ nhoi bên cạnh không giống mình, nhất là chúng lại tốt và hiệu quả hơn mình.
Tuổi trẻ nguồn sáng tạo vô biên của đất nước luôn phải đối diện bằng cách này hay cách khác, hoặc, ở những mức độ và cách biểu hiện khác nhau trước bức tường chắn khó di dời của chủ nghĩa kinh nghiệm: mô hình đặc trưng của phương thức canh tác nông nghiệp lúa cổ điển.
Nguồn nhân lực trẻ thường phải đối diện với một lớp “lão nông tri điền” để lại phải học tốt nghiệp lần nữa, cái gọi là “đại học trường đời”, bởi, sự áp đảo từ đầu của chủ nghĩa kinh nghiệm. Sống, tồn tại dưới bóng mát của những “táng cây đại thụ” đã khiến nguồn nhân lực trẻ phải đứng trước sự chọn lựa: hoặc bức phá để tìm khung trời bao la rộng mở, hoặc, ngoan ngoãn co mình ngưỡng mộ phục tùng.
Cả hai sự lựa chọn ấy đều bất lợi cho bộ máy nhà nước, trong thời điểm mà quốc gia đang cần đến sức trẻ có năng lực, cá tính và sự táo báo, chấp nhận thách thức để phát triển.
- Chất gia trưởng: “hồn nhiên” lặng trong tiềm thức: Chúng tôi cho rằng, đây chính là sự phối hợp gắn bó đầy nhân duyên giữa chủ nghĩa kinh nghiệm và trật tự Nho giáo, vốn được tiếp thu một cách “dân dã”, và, rất lâu dài trong lịch sử. Người đứng đầu gia đình, nhóm xã hội, ngành, hay một cộng đồng.., tự cho mình quyền được đúng và phải đúng trong mọi quyết định mang tính cá nhân. Điều đáng nói là trong bối cảnh hiện đại, những quyết định này có khi hiện hữu một cách hợp pháp và hợp lý, dưới sự ủng hộ miễn cưỡng hoặc mang động cơ, mục đích, riêng trong phạm vi của từng cá nhân trong cộng đồng.
Đây cũng chính là mầm mống gây nên tính bè phái, cục bộ và trù dập những người có ý kiến trái chiều, hoặc những đối tượng này trở nên những type người không quen nghe chuyện “trái tai” hay “gai mắt” trong nhãn quan gia trưởng của họ.
Đây cũng chính là một trong những nguyên nhân mà sự hợp tác mang tính liên ngành, liên bộ môn, liên cơ hay liên nhóm, luôn khó thực hiện để thừa hưởng thành quả nghiên cứu của nhau
- Hậu quả của một mẫu tâm lý gánh chịu nhiều năm chiến tranh: Không thấy, không nghe, không biết, là những biện pháp ứng xử hiệu quả trong thời kỳ chiến tranh giữ nước, là ưu điểm của chiến tranh nhân dân Việt Nam, Thế nhưng, hậu quả là thói quen đó lại tiếp tục ảnh hưởng trong cách hành xử của con người, khi chiến tranh đã qua đi. Một lần nữa lối suy nghĩ “ba không” lại ẩn mình trong tiềm thức, lẫn vô thức của con người: chứng nhân của một thời kỳ khốc liệt, nhiều nỗi can qua. Dạng ứng xử này trong thời kỳ hiện đại, biểu hiện sự tác động theo một chiều hướng khác, qua thái độ bàn quan, vô cảm trước nhiều hiện tượng xã hội.
Ngành xã hội học, một mũi nhọn với phương pháp thống kê trong đánh giá định lượng, cũng như mang tính dự báo cao trên cơ sở khoa học, thường nhận được từ phiếu hỏi cứng hoặc mở, nhiều câu trả lời bàng quan, không thật hoặc đầy sự nghi ngại từ dấu ấn của hiện tượng trên.
Trong chiến tranh, việc động viên, khen thưởng, cổ vũ, thi đua, cường điệu, thậm chí, hư cấu những mẫu hình thần tượng, những phong trào mẫu mực “vượt lên chính mình” là một biện pháp cần thiết và đầy tính sáng tạo đáng trân trọng trong nghệ thuật chiến tranh nhân dân; và, hậu quả chúng đem lại trong thời bình là những phong trào, và báo cáo mang “hơi hướm thời chiến”, chúng chính là kênh thông tin, số liệu ảo, dẫn đến những tổng kết xa rời thực tế.
Chúng ta bấy lâu nay đang bàn đến cách nói không với chủ nghĩa thành tích trong giáo dục, thiết nghĩ đây không phải là vấn đề của riêng ngành giáo dục. Hiệu quả của một nền giáo dục tiên tiến không phải là chúng ta có bao nhiêu người có giải vàng, giải bạc, trong các cuộc thi quốc tế, mà là sự đi lên một cách có thực lực, bản lĩnh và tự tin, của một thế hệ, gồm toàn bộ hay tuyệt đại đa số đối tượng thụ hưởng những gì của nền giáo dục ấy mang lại.
III.2 Những yếu tố mang tính địa phương:
- Chất “mệ” trong tính cách Huế: Không ở đâu trong thời kỳ cận hiện đại lại có nhiều con người mang điển hình của tính cách đầy mặc cảm tự tôn như Huế. Đất Huế chồng chất sứ mệnh là một khu trung tâm trên nhiều thời điểm lịch sử, và trên nhiều phương diện (thủ phủ vùng miền thời Lê Trịnh, thủ đô thời Tây Sơn, thủ đô thời nhà Nguyễn, trung tâm Phật Giáo, Thiên Chúa giáo [ thời Ngô Đình Diệm], trung tâm đạo Mẫu thời đất nước bị chia cắt, hiện nay cũng là một trong những trung tâm du lịch, văn hóa, giáo dục...của cả nước); là nơi sinh sống của Vua chúa hoàng tộc, quan lại, trí thức, nghệ sĩ lớn.. của quốc gia; cả một thời gian hàng thế kỷ là điểm hội tụ của tinh hoa đất nước. Tất cả đã khiến con người sống ở đây luôn có cảm giác được lịch sử khoát trên mình vầng hào quang của tầng cư dân chốn kinh kỳ, hào hoa, lịch lãm, tinh tế và sang trọng. Nhưng, điểm đáng bàn là những triều đại phong kiến buổi mạt kỳ mà Huế là kinh đô, vốn không có thực lực về tiềm năng kinh tế, và bản thân đô thị Huế cũng chưa từng đóng vai trò trung tâm kinh tế, cho nên, con người ở đây vốn luôn sống trong sự chông chênh giữa hư và thực, giữa danh phận kiêu sa và số phận không như mình muốn, giữa cái đáng được có và đã không có. Cho nên, mẫu hình mà mọi người thường gọi là chất “mệ” của người Huế, hay gọn hơn là “mệ Huế”, luôn tiềm ẩn một lớp phủ bọc được dấu dưới dạng ứng xử vừa tự tôn vừa tự ti: phòng thủ, ngại đối mặt với thực tế, thiếu tư chất chấp nhận thách đố mang tính phiêu lưu, và, thích người khác khám phá hơn là tự mình chứng tỏ hay giải bày. Và, hình như đó là tố chất mà kẻ kinh doanh giỏi, thường cố khắc phục, hoặc không từng hiện hữu trong chính họ.
Mệ Huế đi chợ Đông Ba về Đập Đá
(ảnh trong bài “Đập Đá: Sáng - trưa - chiều - tối” của Lê Anh Tuấn)
Mặc dù từ gọi “mệ Huế” thường dành riêng cho giới quý tộc Nguyễn, bởi, họ mới chính là đối tượng điển hình trong cái được và mất vừa nói đến, nhưng, “chất mệ” thì dường như đã lan tỏa và thấm sâu vào trong từng con người Huế, thông qua hệ thống phủ đệ, nơi các ông hoàng, bà chúa, rất gần gũi với đám “bách tánh” để tương sinh; đối tượng đang đứng trước bi kịch khó bọc bạch giữa vai trò lịch sử và đời sống kinh tế.
Nhìn chung, chất Huế trong một số nhận xét của những người ngoài Huế là những đối tượng khó gần, kín đáo, và dường như đối lập với sự cởi mở, dấn thân, và thẳng thắn.
Nếu Huế có chậm trong những đổi thay đến chóng mặt của những gì đang diễn ra quanh mình.
Nếu Huế có bực mình khi vai trò trung tâm vốn có của mình mất dần hình ảnh trước những người láng giềng.
Nếu Huế có vương vấn và giã từ một cách khó khăn với những gì không còn phù hợp từ quá khứ lưu lại, thì âu đó cũng là chuyện thường tình và hợp với logic cuộc sống.
Và tất nhiên, đó chỉ là một loại bệnh có thuốc chữa chứ không phải là tật bẩm sinh.
- Tại sao lại có câu nói đùa hài hước: “Huế thơ- Huế mộng. Huế tộng bộng hai đầu”: Đặc điểm của người nông dân Việt trong quá trình mở đất là xăm xăm tiến về phía Nam, chú mục vào những dải đồng bằng phù sa và hờ hững với hai nguồn lợi có thể làm giàu ở phía đông lẫn phía tây[2]. Chúng tôi gọi đó là hiện tượng “con ngựa thồ” với tấm mạng che ở đôi mắt, chỉ thấy rõ nhất hướng Nam trên đường đi.
Nhưng, điều đáng nói ở đây, đồng bằng phù sa cho nông nghiệp lúa nước ở bắc miền Trung Việt Nam trên lát cắt của địa hình “ấn tượng nhất vẫn là sự hiện hữu của bức trường thành núi non như một kiến tạo bất phân ly dọc biển và cạnh biển. Và, nếu không kể đến những bãi bồi của những dòng chảy do địa hình dốc từ sườn đông của núi tạo nên, thì dải đất mà chúng ta thường gọi là đồng bằng, thực chất chỉ là sự trải rộng của chân núi, một chút hào phóng nhỏ nhoi của tạo hóa cho người trông trọt nơi đây. Chính vì vậy, có những đoạn núi lấn sát mặt nước biển thì khoảng đồng bằng ấy cũng chẳng còn”[3]. Cho nên, chúng rất khác với nông dân và nông nghiệp mang tính chất hàng hóa ở châu thổ sông Hồng và sông Cửu Long.
Nếu nhìn trên góc độ địa- kinh tế, thật không phải quá viễn vông khi con người ở bắc miền Trung thường có xu hướng làm chính trị; rất nghị lực trong sự nghiệp khoa bảng; hướng tìm con đường giải thoát trong tu hành.. Và Huế , nơi mà tạo hóa đã dành cho những vưu vật trong cảnh sắc, đã trở thành vùng đất của thi ca, nghệ thuật, và lưu tâm đến phong vị sống hơn là cạnh tranh làm giàu.
Trong việc hội nhập có tính chất sống còn theo dạng “ thương trường như chiến trường”, tính cách Huế thật khó khăn để có một vị trí và tư thế xuất phát thuận lợi. Và nếu ai trong số người Huế không bằng lòng với điều ấy, thì họ thường dứt áo ra đi và phần lớn đã thành công, thậm chí rất thành công ở nhiều vùng đất khác nhau ngoài Huế. Đó cũng chính là lý do dẫn đến lời cảm thán mà không người Huế xa quê nào lại không thường nói nửa đùa nửa thật đây là quê hương của những người “đi để mà nhớ, chớ không phải ở để mà thương”.
Với những gì đang diễn ra trong bối cảnh đương đại, chúng tôi chỉ muốn nhắc đến những điều này, để thấy hết những khó khăn và bất lợi trong cuộc chinh phục và thắng lợi trong “ chiến trường kinh tế” hôm nay, và, để chúng ta biết mình phải khắc phục từ đâu?, như thế nào?, để tiến về phía trước, chứ chúng tôi không hề xem đó như là một số phận mà Huế phải gánh chịu, không đường né tránh.
*
* *
Vấn đề cốt lõi của những gì chúng tôi muốn viết, chính là sự tĩnh táo nhìn lại mình, an nhiên nhận chân và mỗ xẻ những gì đáng phải loại khỏi cơ thể những dư chấn hay những triệu chứng đeo đẳng ở mỗi chúng ta, để cùng nhau tạo nên một nguồn nhân lực, có thể lực cường tráng và tinh thần khỏe mạnh, trong cuộc hành trình tiến về phía trước đầy gian lao này.
Và tất nhiên, nếu tính táo để cùng nhau đốt ngắn và đoạn tuyệt với lối mòn trong tư duy và nếp nghĩ, đang tiềm ẩn dưới dạng vô thức lẫn tiềm thức bằng những cuộc nhìn lại, chất vấn chính mình, hiểu tận ngọn nguồn những rào cản và trở lực một cách chân tình và khoa học, thì mọi chuyện sẽ chẳng còn là những dấu hỏi không có lời giải đáp.
Công cuộc bảo tồn cũng như phát huy giá trị di sản văn hóa Huế một cách hiệu quả nhất, nhìn từ yếu tố con người, cũng bắt đầu từ đó.
N.H.T
Gánh cơm hến lên đường trong ngày mới
(ảnh trong bài “Đập Đá: Sáng - trưa - chiều - tối” của Lê Anh Tuấn)
[1] Hoàng Đạo Kính: “Kế thừa và tạo lập bản sắc kiến trúc đô thị trong phát triển”. Tham luận tại hội thảo: Tạo lập diện mạo kiến trúc đô thị đặc trưng cho thành phố Huế, Huế, tháng 3/2002.