I
Văn hóa là nền tảng, huyết mạch của dân tộc, là kết tinh các giá trị vật chất và tinh thần có khả năng lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Trải qua mấy nghìn năm lịch sử, nhân dân ta đã tạo nên một nền văn hóa phong phú, đa dạng. Đó là nền văn hóa sâu sắc, bền vững, minh chứng cho vị thế và tầm vóc của Đại Việt. Thắng lợi của cách mạng nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, theo nhận định của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng, chính là chiến thắng của sức mạnh văn hóa trước những kẻ thù hùng mạnh nhất trong lịch sử. Để có được những chiến thắng đó chúng ta đã phát huy sức mạnh đoàn kết dân tộc trên cơ sở giữ gìn và phát huy hệ giá trị văn hóa Việt Nam. Hay nói như nhà nghiên cứu Trần Đình Hượu, chúng ta “đến hiện đại từ truyền thống”. Tuy nhiên, hiện nay, các giá trị hiện đại đang trong thời kì chuyển đổi, định hình, để phù hợp với thời kỳ mới. Trong quá trình chuyển biến đó chúng ta cần bổ sung cái gì, loại bỏ cái gì, tiếp nhận cái gì cho phù hợp với thực tiễn là một vấn đề hết sức quan trọng. Trước đây, GS. Trần Văn Giầu đã xác định các giá trị Việt Nam truyền thống bao gồm: yêu nước, cần cù, anh hùng, sáng tạo, thương người, vì nghĩa [Trần Văn Giàu 2011]. Với tinh thần đổi mới đất nước toàn diện, từ Đại hội lần thứ VI của Đảng tới nay, Đảng ta luôn nhấn mạnh phát triển văn hóa có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong chiến lược phát triển quốc gia, kết hợp giữa pháp trị và đức trị, thúc đẩy sự nghiệp văn hóa và công nghiệp văn hóa cùng phát triển, tạo nên bước phát triển thực sự của văn hóa theo phương châm: xây dựng nền văn hóa Việt Nam “tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Kiên trì chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, phát huy truyền thống văn hóa dân tộc, tiếp thu những tư tưởng tiên tiến của thời đại, Đảng ta từng bước hình thành hệ thống lý luận và triết lý phát triển đất nước trong thời kỳ cách mạng mới. Cương lĩnh phát triển đất nước của Đảng và Nghị quyết các kỳ đại hội Đảng, đặc biệt là Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII đã xác định các giá trị cơ bản của văn hóa của Việt Nam là: “Lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc, lòng nhân ái, khoan dung trọng nghĩa tình, đạo lý, đức tính cần cù sáng tạo trong lao động, sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống”. Để đưa sự nghiệp cách mạng tiếp tục phát triển, một vấn đề hết sức quan trọng là phải xây dựng và thiết lập hệ thống giá trị Việt Nam. Hệ thống giá trị ấy vừa kế thừa những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của cha ông, vừa bắt nhịp với tinh thần của thời đại mới. Nhân lõi của nó là sự hội tụ tinh thần dân tộc trên cơ sở kết hợp giữa chủ nghĩa yêu nước và tinh thần thời đại với phương châm cải cách đổi mới, tiến lên chủ nghĩa xã hội. Trên nền tảng giá trị văn hóa ấy, bản sắc Việt Nam và sức mạnh Việt Nam sẽ được thể hiện rõ hơn. Về lô-gíc khoa học, hệ thống giá trị cốt lõi của Việt Nam vừa là sự kết tinh, vừa biến đổi và đang được tiếp tục sáng tạo, không ngừng phát triển theo hướng hoàn thiện.
Hiện nay, tình hình thế giới đang có những biến động to lớn và nhanh chóng: bản đồ chính trị có những điều chỉnh lớn, đa cực và đa nguyên hóa; toàn cầu hóa phát triển đi vào chiều sâu; khoa học - kỹ thuật đổi mới từng ngày; giao lưu, hòa nhập, giao tranh của các loại văn hóa tư tưởng ngày càng dồn dập. Vị trí và tác dụng của văn hóa trong cạnh tranh sức mạnh tổng hợp quốc gia ngày càng nổi bật, nhiệm vụ bảo vệ an toàn văn hóa quốc gia ngày càng nặng nề đặt ra nhiệm vụ cấp thiết phải tăng cường thực lực mềm văn hóa quốc gia. Văn hóa phải thấm sâu vào tất cả các lĩnh vực, trở thành lực tụ hội dân tộc và nguồn gốc của sức sáng tạo. Xây dựng một đất nước phồn vinh về kinh tế, phong phú đa dạng về văn hóa theo tinh thần “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” và một đất nước “độc lập, tự do, hạnh phúc” chính là mục đích của phát triển và cũng là mục đích của văn hóa.
Về thực tiễn, văn hóa, trong quan niệm mở và động, một mặt, ngày càng quan trọng trong việc tạo thành sức mạnh tổng hợp quốc gia, trở thành sự nâng đỡ quan trọng của phát triển kinh tế - xã hội, mặt khác, để có một đời sống văn hóa tinh thần phong phú là nguyện vọng tha thiết của nhân dân ta. Nước ta còn trong giai đoạn đầu quá độ lên CNXH, vì thế, những chuyển đổi mô hình kinh tế, văn hóa, xã hội còn bộc lộ nhiều mâu thuẫn, hạn chế, thiếu tính đồng bộ.
Ở bên ngoài, cần lưu ý thích đáng đến sự tác động của hàng loạt nhân tố: tình hình chính trị toàn cầu, vấn đề giai cấp, tôn giáo, lợi ích dân tộc, cạnh tranh và hợp tác... Khoa học - công nghệ và thông tin hiện đại đang mở rộng quy mô nền kinh tế tri thức, mở ra những xa lộ thông tin mới và thúc đẩy tiến trình dân chủ hóa về trí tuệ, về quyền dân tộc và quyền cá nhân...
Ở trong nước, chúng ta đang chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tự cung tự cấp sang kinh tế thị trường và hội nhập, chuyển từ mô hình xã hội nông nghiệp sang xã hội công nghiệp hóa, đô thị hóa. Đây là thời kì chuyển đổi toàn diện và sâu sắc, cơ sở vật chất thay đổi, ý thức xã hội thay đổi chứa nhiều mâu thuẫn xung đột từ quan niệm cá nhân, gia đình đến dòng tộc, quốc gia. Đời sống văn hóa nước ta đang có nhiều biến đổi sâu sắc. Nhiều mâu thuẫn, xung đột xuất hiện: xung đột giữa văn hóa truyền thống và văn hóa hiện đại, giữa lối sống tiểu nông và lối sống công nghiệp, giữa phát triển và sự ô nhiễm môi trường, giữa lý tưởng hoài bão và lối sống thực dụng... Công nghiệp hóa, hiện đại hóa, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, kinh tế tri thức, hội nhập quốc tế rất cần tạo ra môi trường và nếp sống mới như là biểu hiện của ý thức và giá trị văn hóa hiện đại. Nó đòi hỏi chúng ta cần xây dựng giá trị cốt lõi của Việt Nam cho phù hợp với điều kiện của đất nước và xu thế thời đại.
Vai trò của giá trị văn hóa cốt lõi là rất lớn vì nó định hướng/ đánh giá các hành vi của xã hội, điều chỉnh các quan hệ xã hội. Một xã hội muốn ổn định cần phải xác định được giá trị cốt lõi, xác định các chuẩn mực để định hướng. Đó là lý do đòi hỏi các nhà khoa học phải trả lời được câu hỏi: giá trị cốt lõi của Việt Nam là gì, từ đó, góp phần định hướng xây dựng, phát triển văn hóa Việt Nam đúng đắn. Khi đã xác định được giá trị cốt lõi của văn hóa Việt Nam, nó sẽ có tác động trở lại đối với con người, nó là động lực và tham gia vào việc điều tiết sự phát triển xã hội. Giá trị cốt lõi của văn hóa Việt Nam, vì thế, không chỉ là vấn đề lý luận quan trọng mà còn là vấn đề thực tiễn, có tính thời sự đang thu hút sự chú ý của các nhà nghiên cứu và hoạch định chính sách để xúc tiến giải quyết các nhiệm vụ kinh tế, xã hội và văn hóa trong xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Thứ nhất: kiên trì quan niệm coi giá trị cốt lõi là “khế ước văn hóa” quy tụ lợi ích của đông đảo mọi thành viên xã hội và định hướng thống nhất thái độ truy cầu giá trị. Chỉ có xác lập “khế ước” này người dân mới hình thành tiêu chí giá trị chung, xã hội ổn định có trật tự. Trong bối cảnh tình hình chính trị, xã hội có nhiều phức tạp (với sự xuất hiện của nhiều trào lưu tư tưởng mới, sự đa dạng về quan niệm giá trị, sự biến đổi của các giai tầng xã hội,... ), cần thiết phải xác lập được quan niệm giá trị chung, có tính phổ biến và tiên tiến, dẫn đạo cho sự phấn đấu của toàn dân tộc.
Thứ hai, yêu cầu tăng cường thực lực mềm quốc gia. Trong thời đại ngày nay, phát triển sức mạnh mềm quốc gia và sức cạnh tranh quốc tế ngày càng nổi rõ, giá trị cốt lõi là trở thành trọng điểm của văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, quyết định phương hướng và tính chất xây dựng văn hóa. Không có giá trị cốt lõi dẫn đường sẽ không có sự phồn vinh của văn hóa, không có cách nào đề cao thực lực mềm văn hóa.
Thứ ba, kiên trì và hoàn thiện yêu cầu chế độ xã hội chủ nghĩa. Một quốc gia có chế độ cơ bản, tất yếu phải đề xướng giá trị cốt lõi làm linh hồn và cột trụ tinh thần. Trong tiến trình xây dựng, cải cách, đổi mới, phát triển, xác lập chế độ xã hội chủ nghĩa, xác lập giá trị cốt lõi là hình thức củng cố sự vững mạnh của chế độ.
Thứ tư, giá trị cốt lõi có ý nghĩa như hệ giá trị có khả năng chống lại sự xâm thực của quan điểm giá trị phương Tây. Xây dựng giá trị cốt lõi của văn hóa dân tộc không những có tác dụng bảo vệ thống nhất quốc gia trước quan niệm giá trị của phương Tây, bảo vệ an toàn ý thức xã hội, giữ gìn đoàn kết dân tộc, xúc tiến xã hội hài hòa, ổn định, tăng cường sức mạnh tổng hợp quốc gia, mà còn có tác dụng bảo đảm căn bản cho việc chống lại sự thẩm thấu và ảnh hưởng của các loại trào lưu tư tưởng xã hội tiêu cực và quan niệm giá trị phản nhân văn từ bên ngoài.
Giá trị xã hội chủ nghĩa mưu cầu hòa bình, mưu cầu phát triển, mưu cầu hợp tác. Xây dựng giá trị cốt lõi văn hóa mới chính là để kiên trì khuynh hướng giá trị tốt đẹp, giữ vững quan điểm giá trị xã hội chủ nghĩa, truy cầu những giá trị cao đẹp nhất của loài người. Sáng tạo và thực hiện giá trị mới cũng là hình thức xây dựng ý thức xã hội tiên tiến, là con đường tạo nên đột phá trong văn hóa, hình thành những con đường cơ bản nhất trong chiến lược phát triển nền văn hóa mới.
Tuy nhiên, để phát triển văn hóa mạnh mẽ, cần lưu ý một số vấn đề như sau:
(1) Nhận thức của một số địa phương và đơn vị đối với tầm quan trọng, tính tất yếu, tính cấp bách về xây dựng văn hóa chưa đầy đủ, chưa thấy được tác dụng của văn hóa trong việc nâng cao tố chất dân tộc. Đó là lý do dẫn đến tình trạng buông lỏng giáo dục văn hóa, tha hóa về lối sống, vô cảm, thiếu tinh thần trách nhiệm của không ít cán bộ đảng viên, làm cho dân mất niềm tin vào chế độ XHCN.
(2) Vì chưa xác định được giá trị cốt lõi văn hóa Việt Nam trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, đời sống văn hóa hiện nay còn nhiều bất cập, thậm chí có những phương diện rất đáng báo động (Sự vô cảm có chiều hướng gia tăng. Thái độ sính ngoại, coi thường các giá trị văn hóa truyền thống khá phổ biến. Tệ nạn xã hội nhiều. Tình trạng quan liêu, tham nhũng, chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa hưởng lạc có chiều hướng gia tăng...).
Nghiên cứu để xây dựng giá trị cốt lõi của văn hóa Việt Nam là việc làm của mọi ban ngành của cả hệ thống chính trị, làm sao để dần dần mọi thành viên xã hội noi theo, coi đây là tiêu chí đánh giá đúng sai, thiện ác, hay dở, tốt kém của mỗi cá nhân và thấm sâu thành nhận thức, tư duy, hành động tự giác của các công dân. Nếu làm đúng và lâu dài thì quá trình nãy sẽ có tác dụng góp phần cho việc triển khai các nghị quyết của Đảng, chính sách của Nhà nước và tạo sự đồng thuận xã hội, thúc đẩy nền văn hóa Việt Nam phát triển lành mạnh.
Như vậy, một trong những nhiệm vụ quan trọng trong phát triển văn hóa cũng như nhiệm vụ trọng tâm của phát triển đất nước (vì văn hóa, theo tôi quan niệm theo nghĩa rộng, bao trùm lên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội) là phải xác định chính xác và xây dựng giá trị cốt lõi của văn hóa Việt Nam hay nói cách khác là phải xác định chính xác và xây dựng hệ giá trị Việt Nam hiện nay, củng cố nền tảng tinh thần và đạo đức tư tưởng xã hội, tạo động lực để phát triển đất nước.
Hệ giá trị Việt Nam - ý tưởng giá trị cốt lõi xã hội chủ nghĩa đặc sắc Việt Nam hoặc ý tưởng giá trị cốt lõi của văn hóa Việt Nam đương đại - có thể xác lập là: dân chủ, công bằng, khoan dung, tiến thủ.
Là ý tưởng hệ giá trị Việt Nam đương đại, thì dân chủ, công bằng, khoan dung, tiến thủ đã thấm sâu và quản lý thống nhất các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội, cho dù mỗi một ý tưởng giá trị cốt lõi của chúng ta có thể là giá trị chủ yếu của một lĩnh vực nào đó. Về mặt kinh tế, thì ý tưởng giá trị cốt lõi của chúng ta chủ yếu là công bằng; về mặt chính trị, ý tưởng giá trị cốt lõi của chúng ta chủ yếu là dân chủ; về mặt văn hóa, ý tưởng giá trị cốt lõi của chúng ta, chủ yếu là tiến thủ; về mặt xã hội, ý tưởng giá trị cốt lõi của chúng ta, chủ yếu là khoan dung. Chúng ta có thể xác lập thứ tự ý tưởng giá trị cốt lõi hoặc quan điểm giá trị cốt lõi của chúng ta thành: dân chủ, công bằng, khoan dung, tiến thủ.
Về kinh tế, thì chủ nghĩa xã hội nói chung và chủ nghĩa Mác Lê-nin nói riêng đều phê phán các loại chế độ bóc lột, rất mong muốn trên cơ sở phát triển sức sản xuất và tiến bộ xã hội, đều thành lập chế độ xã hội công bằng, bình đẳng và tiến bộ. Trong lịch sử Việt Nam, tất thẩy đều hy vọng thực hiện lý tưởng xã hội cân bằng giầu nghèo, nhưng hạn chế ở điều kiện lịch sử tìm không được đường lối chế độ thích hợp. Chủ nghĩa xã hội khoa học lấy chủ nghĩa Mác Lê –nin làm tư tưởng chỉ đạo, chính là để thực hiện sự tiến bộ của nhân loại, thông qua tìm kiếm của hiện thực tạo dựng nên nền tảng chế độ kinh tế đối xử bình đẳng với nhau giữa người với người.
Về chính trị, thực hiện dân chủ thật sự toàn diện, thực hiện phát triển tự do và toàn diện cho tất cả mọi người, là truy cầu giá trị cao nhất về tiến bộ xã hội loài người của chủ nghĩa Mác Lê-nin, đồng thời, dân chủ nhân dân chính là nguồn sức sống của chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh chỉ ra: “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân” [Hồ Chí Minh 1996: 276]. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng nêu ra “Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước” [Đảng CSVN 2011: 47]. Như thế, có thể thấy không có dân chủ thì không có chủ nghĩa xã hội, không có hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa. Phát triển chính trị dân chủ xã hội chủ nghĩa là mục tiêu phấn đấu của đảng chúng ta. Nhân dân làm chủ là bản chất và cốt lõi của chính trị dân chủ xã hội chủ nghĩa. Chúng ta không thể coi tự do dân chủ là khái niệm hoàn toàn phương Tây. Trên thực tế, trong một thời gian dài, Châu Âu đã không có tự do, dân chủ, cũng không có nhân quyền, mà chỉ có thần quyền, vương quyền. Ngoài chút ánh sáng yếu ớt của chính trị dân chủ cổ Hy Lạp ra, Châu Âu trường kỳ ở vào sự bao trùm đen tối của chế độ nô lệ và chế độ phong kiến. Thứ hai, khái niệm dân chủ hiện đại đã trải qua tìm kiếm lâu dài của loài người và cũng không phải là xa lạ với người Việt Nam, khi trong lịch sử văn hóa Việt Nam đã có tư tưởng dân bản cổ đại: Lý Thái Tổ vì “trên vâng mệnh trời dưới theo ý dân" mà dời đô về Thăng Long. Lý Thường Kiệt nói “Đạo làm chủ dân cốt ở nuôi dân”. Trần Quốc Tuấn coi trọng việc “khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc. Đó mới là thượng sách giữ nước”. Nguyễn Trãi xem “việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”. Đương nhiên, khái niệm dân chủ hiện đại đang sử dụng phổ biến đích xác là chịu ảnh hưởng của tư tưởng phương Tây. Từ thời cận đại tới nay, người Việt Nam tiếp bước nhau đã phấn đấu không mệt mỏi cho mục đích xây dựng xã hội dân chủ nhân dân. Tình hình tương tự cũng diễn ra ở phần đông các quốc gia trên thế giới. Điều đó chứng tỏ dân chủ tự do là những giá trị tiêu biểu cho phương hướng phát triển của lịch sử nhân loại.
Về văn hóa, dân tộc Việt mấy nghìn năm nay liên tục tự cường, đã sáng tạo nên nền văn hóa sáng lạn, trở thành một trong những nền văn minh nối tiếp nhau không đứt quãng trong lịch sử thế giới (theo nhà sử học nổi tiếng thế giới T. Tônbi). Hàng nghìn năm nay, văn hóa ưu tú của dân tộc Việt Nam đã hun đúc trong tinh thần yêu nước, tinh thần dân tộc đoàn kết thống nhất, yêu chuộng hòa bình, cần cù dũng cảm, tự cường liên tục, lấy chủ nghĩa yêu nước làm cốt lõi, và đã nuôi dưỡng nên hệ thống quan niệm giá trị có ý thức, phẩm cách và khí chất độc đáo của dân tộc Việt Nam. Nhưng, tinh thần dân tộc hoặc truy cầu giá trị của một dân tộc là sự dắt dẫn và phản ứng về hoạt động tính sáng tạo lịch sử của hiện thực dân tộc, vì vậy tất nhiên sẽ có sự đáp ứng lại về vấn đề tính thời đại đặc thù, do đó tất nhiên sẽ mang theo dấu ấn của thời đại lịch sử nhất định. Không có tinh thần thời đại làm căn cơ nền tảng, tinh thần thời đại thiếu gốc rễ tiềm tàng lịch sử xã hội sâu dầy, thì rất khó đi sâu vào lòng người, nắm được quần chúng. Cũng giống như vậy, không có sự kích thích phát động của tinh thần thời đại, thì tinh thần dân tộc cũng chỉ có thể là tư tưởng xơ cứng, sức sống của tinh thần dân tộc chỉ có hòa nhập vào tính mở rộng, tính sáng tạo, tính siêu việt của tinh thần thời đại - mới có thể mở rộng được sức hấp dẫn và giá trị của nó - tất cả những điều này đều có thể cô đúc lại thành một giá trị, đó là "tiến thủ". Sự tụt hậu của chúng ta trong rất nhiều thế kỷ, đặc biệt là từ sau chiến thắng đế quốc Mỹ và trong hòa bình, xây dựng đất nước, cho thấy tinh thần dân tộc không thu hút được đầy đủ tinh thần thời đại. Thực tế đó yêu cầu chúng ta phải phát triển đất nước về kinh tế và vươn dậy nhanh chóng trong rừng dân tộc thế giới, chính là ở chỗ bổ sung dồi dào lẫn nhau và hòa nhập phát huy ánh sáng cho nhau của tinh thần dân tộc với tinh thần thời đại.
Về mặt xã hội, người Việt Nam xưa nay chú trọng khoan dung, có thể nói đó là ý tưởng giá trị nhân dân Việt Nam từ cổ xưa tới nay đã tôn sùng. Trong lịch sử, Việt Nam là quốc gia chịu ảnh hưởng của Nho giáo. Ông tổ của Nho giáo Khổng Tử đã nói "Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân" (Điều mình đã không muốn, thì đừng gán ép cho người khác), chẳng phải là nguyên tắc thực hiện quan hệ khoan dung giữa người với người đó sao? Tư tưởng khoan dung được thể hiện rất rõ trong văn học dân gian Việt Nam, qua những câu thành ngữ hay qua một loạt ca dao mang bản sắc nhân văn của dân tộc Việt Nam: "Người với người sống để yêu nhau”, đó chẳng phải là một loại mục tiêu giá trị xã hội khoan dung đó sao? Khoan dung trong tư tưởng của người Việt Nam thể hiện qua mối quan hệ dân tộc, Tổ quốc, họ mạc, xóm làng, là những quan hệ mang tính cộng đồng tình nghĩa; thể hiện qua sự thấu tình đạt lý trong các quan hệ con người. Đặc biệt, tư tưởng khoan dung của dân tộc Việt Nam thể hiện qua cách ứng xử vị tha với kẻ xâm lược mỗi khi chúng bị thất bại thảm hại trước lòng yêu nước kết thành sức mạnh vô địch của dân tộc Việt Nam từ thuở xa xưa cho đến thời hiện đại trong các cuộc chiến tranh vệ quốc. Việt Nam cổ đại đã có lý tưởng khoan dung, truy cầu quan hệ khoan dung trong giao tiếp giữa người với người. Tư tưởng này có giá trị phổ biến của chúng. Xét đến cùng, chúng ta có thể thông qua nỗ lực của mình, không ngừng mở rộng phạm vi thích ứng và chiều sâu thể hiện của lý tưởng giá trị có ý nghĩa phổ biến. Nhiệm vụ của chúng ta bây giờ cũng phải khai thác ý nghĩa thế giới của giá trị này. Đối ngoại, chúng ta chủ trương hòa bình phát triển, xây dựng trật tự thế giới; đối nội, chúng ta xây dựng xã hội khoan dung thực hiện hòa bình thống nhất tổ quốc. Xây dựng văn hóa khoan dung là một nhiệm vụ quan trọng của xây dựng xã hội Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt trong thời kỳ hiện nay, trong ứng xử ngoại giao giữa các nước khoan dung là gạt bỏ những điểm bất đồng xây dựng những điểm hòa đồng vì lợi ích quốc gia dân tộc.
II
Việt Nam phải xây dựng thành một nước đang phát triển ổn định giàu mạnh thật sự, phải có được ý tưởng giá trị cốt lõi ổn định và kéo dài của mình, sáng tạo ra phương hướng phát triển lịch sử phù hợp, từ đó có được ý tưởng giá trị có ý nghĩa lịch sử thế giới. Nếu không có ý tưởng như vậy, chúng ta không thể cấu trúc được thái độ chấp nhận vừa có thể kéo dài mãi mà lại có chiều sâu, từ đó củng cố sự thống nhất của quốc gia dân tộc; cũng không thể hình thành được lực cảm hóa kêu gọi kéo dài mà lại lớn mạnh được, từ đó giành được sự lý giải và tôn trọng của thế giới. Như vậy thì ý tưởng giá trị này phải là gì đây? Như trên đã trình bày, tôi cho rằng, các giá trị dân chủ, công bằng, khoan dung, tiến thủ, chính là hệ giá trị phù hợp với truyền thống lịch sử dân tộc Việt Nam, đồng thời tiêu biểu cho phương hướng phát triển lịch sử nhân loại.
Dân chủ, công bằng, khoan dung, tiến thủ trước hết thể hiện ngay trong chủ nghĩa Mác Lê-nin, đặc biệt là ý tưởng giá trị cốt lõi của chủ nghĩa Mác Lê-nin đã Việt Nam hóa. Chủ nghĩa Mác Lê-nin vừa ra đời đã lấy việc lật đổ chế độ bóc lột tư bản chủ nghĩa, thành lập xã hội công bằng dân chủ nhân dân và mỗi người đều có thể giành được tự do phát triển toàn diện làm trách nhiệm của mình. Đảng chúng ta từ ngày thực hiện công cuộc Đổi Mới và Mở Cửa tới nay đã đưa ra yêu cầu phát triển toàn diện, vừa xúc tiến phát triển kinh tế lại xúc tiến tiến bộ trong tất cả các lĩnh vực chính trị, văn hóa, xã hội. Yêu cầu bản chất của xã hội mới xã hội chủ nghĩa là phải: “Đổi mới đồng bộ, phù hợp về kinh tế và chính trị vì mục tiêu xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” (Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thư XI, NXB Chính trị quốc gia, H 2011, tr. 99). Công bằng và tiến bộ xã hội là yêu cầu nội tại của chế độ xã hội chủ nghĩa, một trong tám mối quan hệ lớn “đặc biệt chú trọng nắm vững và giải quyết tốt” là quan hệ “giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội” (Văn kiện XI, tr.73). Xã hội quan tâm chăm lo đến đời sống của mọi người dân là luận điểm quan trọng của thuộc tính bản chất của chủ nghĩa xã hội Việt Nam: “Thực hiện có hiệu quả tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội trong từng bước và từng chính sách phát triển” [Đảng CSVN 2011: 227]. Nhân dân Việt Nam đã chọn chủ nghĩa Mác Lê-nin làm tư tưởng chỉ đạo của mình, chính là vì chủ nghĩa Mác Lê-nin có ý tưởng giá trị cốt lõi cao xa, là vũ khí tư tưởng của nhân dân Việt Nam tranh thủ giải phóng dân tộc, quyền lợi dân chủ, xây dựng xã hội công bằng. Nhân dân Việt Nam đi vào con đường xã hội chủ nghĩa một cách lịch sử, chính vì chủ nghĩa xã hội truy cầu giá trị cốt lõi và ý tưởng giá trị hơn hẳn mọi xã hội đã có trước đó.
Dân chủ, công bằng, khoan dung, tiến thủ cũng tập trung thể hiện trong tinh thần dân tộc, tinh thần thời đại và trong quy phạm đạo đức xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tinh thần dân tộc lấy chủ nghĩa yêu nước làm cốt lõi, và tinh thần thời đại lấy cải cách đổi mới làm cốt lõi sở dĩ cất cao tiếng hát phấn chấn tiến lên, chính là vì những tinh thần ấy đã thể hiện ý tưởng giá trị cốt lõi quan trọng nhất cần thiết cho tiến bộ lịch sử Việt Nam và phát triển xã hội Việt Nam. Thí dụ, khoan dung và tiến thủ, quan điểm đạo đức xã hội chủ nghĩa là vì những quy phạm đạo đức này đã thể hiện ý tưởng hệ giá trị Việt Nam.
Nếu như nói dân chủ, công bằng và tiến thủ là giá trị các nền văn hóa thế giới thấy đều tôn sùng, vậy thì ý tưởng giá trị của "khoan dung" là đóng góp cống hiến của dân tộc Việt Nam cho xã hội loài người. Cùng với sự đi vào chiều sâu của tiến trình toàn cầu hóa, giá trị khoan dung sẽ ngày càng có ý nghĩa thế giới và ý nghĩa phổ biến. Tại các thời kỳ lịch sử khác nhau, hệ thống ý tưởng giá trị của dân tộc Việt Nam có sự thể hiện khác nhau, nhưng truy cầu xã hội công bằng, khoan dung nhấn mạnh tinh thần tự cường liên tục và mở cửa tiến thủ là dòng chính của nó.
III
Chúng ta làm bất cứ công việc gì đều phải có đầu óc chiến lược, tiến hành nghiên cứu hệ thống giá trị Việt Nam càng phải có đầu óc chiến lược. Trong quá trình tìm kiếm, chúng ta đề ra bất cứ lý luận, mệnh đề, quan điểm nào, đều phải có mục tiêu chiến lược có lợi cho quốc gia chúng ta, chứ không chỉ là ứng phó nhu cầu trước mắt hoặc mong được vui vẻ hả hê nhất thời, mà làm ảnh hưởng đến việc thực hiện mục tiêu chiến lược lâu dài của quốc gia. Thí dụ, tranh luận về giá trị phổ quát thế giới, chúng ta không thể không xem xét tác động lâu dài của cuộc luận chiến này và được mất về chiến lược.
Trước hết, không nên phản đối một cách giản đơn giá trị phổ quát, mà phải đặt lực chú ý của chúng ta vào việc vạch ra tính phổ quát của ý tưởng giá trị phương Tây, vạch ra tính đặc thù, tính phiến diện và tính cục bộ của quan điểm giá trị ấy, làm cho nó "mất đi tính phổ quát". Phương Tây nói quan điểm giá trị của họ là quan điểm giá trị của tính phổ quát, nếu chúng ta chỉ nói nó không có giá trị phổ quát, như vậy thì về lôgíc chúng ta dường như đứng ở mặt đối lập của giá trị chung có ý nghĩa phổ biến, từ đó làm mạnh lên vị trí của quan điểm giá trị phương Tây. Về học thuật, kiên quyết phản đối tính phổ quát giá trị trừu tượng. Thật sự là không có quan điểm giá trị cụ thể của bất cứ quốc gia nào là phổ quát cả; nhưng sự lý giải về giá trị dân chủ, công bằng của quốc gia khác nhau tất nhiên là có thứ tính chung, do đó chúng ta phải phanh phui nhiều hơn nữa giá trị của phương Tây nhất là sự giải thích của họ về những giá trị ấy là không có tính phổ biến, mà không phải là dùng sức lực chủ yếu để phủ nhận bản thân tính phổ biến.
Thứ hai, không nên phản đối một cách đơn giản về giá trị phổ quát, mà phải tập trung lực chú ý của chúng ta vào trình bày rõ ràng ý nghĩa phổ biến của ý tưởng giá trị của chính chúng ta, nếu không, thì coi như chúng ta thừa nhận ý tưởng giá trị của chúng ta không có ý nghĩa phổ biến, chỉ vẻn vẹn là dân tộc, tương đối, đặc thù, chỉ có ý nghĩa cục bộ. Trên thực tế, dân tộc có thể trở thành thế giới, tương đối đã bao hàm tuyệt đối, đặc thù đã hàm chứa phổ biến. Ngoài ra, càng là giá trị tiêu biểu phương hướng phát triển lịch sử, thì càng có ý nghĩa phổ biến và ý nghĩa thế giới.
Thứ ba, không nên nhấn mạnh tính đặc thù và tính dân tộc ý tưởng giá trị của chúng ta, vì như vậy sẽ hạ thấp ý nghĩa phổ biến của ý tưởng giá trị của chúng ta, chỉ có ý tưởng giá trị của ý nghĩa phổ biến mới có sức cảm hóa kêu gọi và sức thu hút của ý nghĩa thế giới, sự xuất hiện của bất cứ giá trị nào cũng đều có thể là lịch sử, đặc thù, nhưng nếu ý tưởng giá trị nào đó đại diện cho xu thế của tiến bộ lịch sử, nhất trí với phương hướng của phát triển lịch sử, thì loại giá trị ấy sẽ có thể trở thành giá trị có tính cộng đồng hoặc tính thích ứng phổ quát, có giá trị ý nghĩa thế giới và ý nghĩa phổ biến, mới có thể chiếm lĩnh cao điểm đạo đức, trở thành thực lực mềm có công năng dẫn dắt. Chúng ta phải tăng cường làm cho mạnh hơn nữa ý nghĩa thế giới và ý nghĩa phổ biến về sự lý giải "dân chủ", "công bằng", nhất là phải khai thác phát triển ý nghĩa thế giới và ý nghĩa phổ biến của giá trị "khoan dung".
Cuối cùng, có thể hay không nên cho rằng khái niệm giá trị của ý tưởng giá trị cốt lõi là có: "giầu mạnh", "cùng nhau giầu có", "văn minh", "nhân dân tối thượng" v.v... .
Vì sao "giầu mạnh", "cùng nhau giầu có” có thể hay không thể coi là ý tưởng giá trị cốt lõi? Chúng ta phải suy nghĩ xem xét đến, hiện nay Việt Nam là nước đang phát triển và mở cửa, việc tăng chiều sâu của tiến trình toàn cầu hóa kinh tế đã làm cho tư duy kinh tế của chúng ta phải cùng lúc thích ứng với hai cục diện lớn trong nước và ngoài nước. Rèn đúc ý tưởng giá trị cốt lõi của chúng ta phải suy nghĩ xem xét vấn đề ở tọa độ của chiến lược lớn. Thí dụ, dù là "giầu mạnh" hay là "cùng nhau giầu có", đều là mục tiêu nhà nước và nhân dân chúng ta theo đuổi (Mục tiêu Đảng ta đưa ra phấn đấu nước ta trở thành một đất nước giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh) nhưng lại có nên hay không nên trở thành ý tưởng giá trị cốt lõi của chúng ta, vì cạnh tranh của quan điểm giá trị trên quốc tế có xu hướng hướng tới đời sống vật chất vượt trội đơn thuần, nghĩa là, nếu bị cho rằng là "chủ nghĩa vật chất" quá đáng, sẽ làm cho mình bị ở vào hàng ngũ khá thấp so với quan điểm giá trị khác, không lợi cho hình ảnh đất nước và nhân dân chúng ta, cũng làm cho chúng ta ở vào vị trí bất lợi trong cạnh tranh quan điểm giá trị. Nếu lấy "cùng nhau giầu có" làm ý tưởng giá trị cốt lõi của chúng ta thì những người ở quốc gia khác sẽ có thể xem là chúng ta rơi vào "chủ nghĩa vật chất". Ngoài ra, ý nghĩa "cùng nhau giầu có" trên thực tế đã bao hàm trong "công bằng”. Nhưng nếu chúng ta coi mạnh là sự lớn mạnh của quốc gia, giàu mạnh là nguyện vọng tốt đẹp xây dựng đất nước thì giàu mạnh có thể coi là giá trị cốt lõi vì chỉ có dân giàu, nước mạnh mới tạo ra cơ sở vật chất để thực hiện sự ổn định của chủ nghĩa xã hội, mới có thể giải quyết được các vấn đề đặt ra ở phía trước, mới có khả năng ứng phó được với thách thức và những sự kiện đột phá bảo vệ chủ quyền và an toàn quốc gia mà chúng ta phải đối mặt, mới có khả năng xúc tiến sự tiến bộ toàn diện các mặt, mới không ngừng nâng cao mức sống bình quân của nhân dân, bảo đảm thành quả phát triển nhân dân cùng hưởng.
"Văn minh" có thể hay không thể coi là ý tưởng giá trị cốt lõi? Từ "văn minh" có nhiều hàm nghĩa, nhưng đại thể có hai loại chủ yếu nhất và thường dùng nhất là "loại hình văn minh" và "nghi lễ qua lại lẫn nhau trong xã hội". Loại thứ nhất như "Văn minh cổ đại", "Văn minh cận đại", "Văn minh hiện đại", cũng như Văn minh phương Đông", "Văn minh Việt Nam", "Văn minh Ấn Độ", "Văn minh Tây Phương", "Văn minh Hy Lạp", "Văn minh Châu Âu", "Văn minh Anh Quốc", v.v. là văn minh của ý tưởng cốt lõi biểu hiện không nói từ ý nghĩa này. "Nghi lễ qua lại lẫn nhau trong xã hội", chính là sự tôn trọng lẫn nhau mà người ta khá coi trọng giữa người với người, tuân thủ quy phạm xã hội, bảo vệ trật tự công cộng. Do sự biểu hiện khác nhau của người ta, nên thường thường có người "văn minh hơn" người khác, hoặc "không văn minh" bằng người khác. Nếu nói từ ý nghĩa này, nếu xếp văn minh thành ý tưởng giá trị cốt lõi, thì tỏ ra có phần lép vế. Nhưng nếu coi văn minh là đặc trưng chủ yếu của chủ nghĩa xã hội Việt Nam (như Chủ tịch Hồ Chí Minh nói “Đảng ta là đạo đức là văn minh”) thì văn minh trở thành một giá trị cốt lõi. Văn minh là tiêu chí quan trọng của tiến bộ xã hội. Văn minh theo nghĩa rộng có nội hàm rất phong phú là tổng hòa các giá trị sáng tạo của nhân loại. Theo nghĩa hẹp, văn minh có nội dung về tinh thần như tư tưởng, lý luận, đạo đức, văn học nghệ thuật, giáo dục và khoa học, những sinh hoạt xã hội nhân loại. Thực hiện yêu cầu xây dựng xã hội giàu mạnh không chỉ cần đến phát triển kinh tế, hoàn thiện chế độ dân chủ mà còn đề cao tố chất đạo đức, tư tưởng và tố chất khoa học, hình thành loại hình học tập toàn dân, học tập suốt đời, thúc đẩy chỉnh thể kinh tế - xã hội phát triển.
Tại sao "nhân dân trên hết" không thể coi là ý tưởng giá trị cốt lõi? Đảng ta đã để tiêu chí "lấy người làm gốc" lên ngọn cờ của mình rồi, nếu nói nhân dân trên hết, thì sẽ dễ dàng khiến người ta lý giải thành con người có khác biệt, chứ không phải lý giải con người một cách bình đẳng. Nếu như nói có những người không thuộc về phạm trù nhân dân, vậy thì khái niệm "nhân dân trên hết" này đứng trước khái niệm có ý nghĩa phổ biến hơn - công bằng, nhân quyền, bình đẳng nhân cách, tôn nghiêm của con người, thì luôn luôn đòi hỏi phải giải thích và nói rõ hơn nữa sự phân biệt về "trên hết" với "phi trên hết" của chính mình. Nếu là nói so sánh với quan chức cán bộ, thì sự phân biệt trên hết này tỏ ra không có ý nghĩa hiện thực. Một mặt, về ý nghĩa đảng cầm quyền vì dân, thì nhân dân rõ ràng phải là trên hết; Nhưng mặt khác, ở ý nghĩa cao hơn, con người không thể chia thành trên dưới, rút cục cán bộ cũng là bộ phận hợp thành của nhân dân, gạt bỏ ra ngoài thì có ý nghĩa về ích lợi gì? Chỉ có xác lập và thực hiện thực hiện được lấy người làm gốc làm gốc mới có thể thực hiện sự phát triển của dân tộc trong thời kỳ mới.
Tài liệu tham khảo và trích dẫn
1. Đảng CSVN 2011: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. – H.: NXB Chính trị Quốc gia, 336 tr.
2. Hồ Chí Minh 1996: Toàn tập, t.8. – H.: NXB Chính trị quốc gia.
3. Trần Văn Giàu 2011: Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam. – H.: NXB Chính trị Quốc gia.
Nguồn: Bài viết tham gia hội thảo “Hệ giá trị Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế”. Kỷ yếu hội thảo in thành sách “Một số vấn đề về hệ giá trị Việt Nam trong giai đoạn hiện tại”