Mấy năm gần đây, các nhà xuất bản Việt Nam đã cho ra mắt bản dịch nhiều tác phẩm gây tiếng vang lớn
Bìa Tôtem sói
(tiếng Trung)
|
trong đời sống tinh thần quốc tế: Sự va chạm giữa các nền văn minh của Samuel Huntington; Chiếc Lexus và cây ôliu, Thế giới phẳng của Thomas Friedman, Súng, vì trùng và thép - định mệnh của các xã hội loài người, Loài tinh tinh thứ ba, Sụp đổ của Jared Diamond, Mỏ chim sẻ đảo của Jonathan Weiner, Trí tuệ đám đông của James Surowiecki([1])... Những cuốn sách này không phải những sản phẩm hàn lâm thuần tuý, vốn chỉ dành cho một giới chuyên môn hẹp. Tác giả của chúng đều là những nhà nghiên cứu hoặc những nhà báo hàng đầu. Và hầu như tất cả những cuốn sách này đều được viết bằng tiếng Anh. Có vẻ như toàn cầu hoá, ít nhất là trong lĩnh vực tư tưởng-học thuật, đã và đang ngày càng đồng nghĩa với với Anh-Mỹ hoá. Anh-Mỹ là trung tâm phát ra các ý tưởng, các khuynh hướng, các quan niệm và toàn cầu chỉ còn có một việc là sao chép, diễn dịch hoặc, nếu có khả năng - và thường là trong phạm vi quốc gia - "phản biện hoặc bàn luận trong nhà". Trái với kì vọng của các nhà hậu hiện đại về một thế giới đa cực, nơi các ngôn ngữ có cùng cơ hội đóng góp vào tư tưởng-học thuật thế giới, ngày nay một học giả không phải Anh-Mỹ hoặc không viết bằng tiếng Anh có rất ít khả năng và cơ hội để gây được ảnh hưởng rộng, và nếu ta xem ngôn ngữ là phần cốt tuỷ của văn hoá thì cái thế giới toàn cầu hoá hôm nay tuy có thể không còn "dĩ Âu vi trung", nhưng lại "dĩ Mỹ vi trung" hơn bao giờ hết.
Bìa Tôtem sói (tiếng Việt) |
Trong bối cảnh đó, một cuốn sách như Tôtem sói của Khương Nhung (Jiang Rong) cần được xem là một ngoại lệ hiếm hoi và là "câu trả lời của Trung Quốc" đặt trong tương quan nói trên. Tôtem sói được thai nghén trong vòng 30 năm, với tham vọng lật ngược toàn bộ lịch sử Trung Hoa. Đây là một cuộc đại phẫu thuật nguồn gốc và tính cách dân tộc Hoa Hạ ở phần cốt tuỷ nhất của nó: Hoa Hạ là truyền nhân của Sói hay Rồng? Đối với độc giả Việt Nam, cuốn sách chắc chắn sẽ đặc biệt hấp dẫn bởi nó cho một cái nhìn mới mẻ và đầy tính phát hiện về tính cách của người hàng xóm gần gũi nhất, thân thuộc nhất nhưng cũng nhiều duyên nợ nhất của chúng ta: Trung Hoa.
Tôtem sói là tiểu thuyết, nhưng nó có thể được đọc như một tác phẩm nghiên cứu. Tác phẩm có 35 chương, một chương "Vĩ thanh" và một chương kết có tên là "Khai quật bằng lý tính", có thể coi như một tiểu luận tổng kết toàn bộ triết lý của tác phẩm. Được sự đồng ý của dịch giả, chúng tôi xin giới thiệu toàn bộ chương 1, chương 5, chương kết và lời giới thiệu của Mã Ba Thuấn.
talawas chủ nhật
Tác giả và Dịch giả
Tác giả Khương Nhung |
Tác giả Khương Nhung (Jiang Rong) Sinh năm 1947 tại Bắc Kinh. Thời kì cách mạng văn hoá, xung phong đi lao động ở vùng thảo nguyên Nội Mông 11 năm. Năm 1979, trở lại Bắc Kinh. Tiểu thuyết Tôtem sói (Lang đồ đằng) được Khương Nhung thai nghén và viết trong vòng 30 năm (từ 1971 đến 2003). Khi tác phẩm được xuất bản lần đầu năm 2004, lập tức nó trở thành cuốn sách bán chạy kỷ lục tại Trung Quốc và trở thành cuốn tiểu thuyết đầu tiên của Trung Quốc được một nhà xuất bản nước ngoài mua bản quyền với giá 100.000 USD.
Dịch giả Trần Đình Hiến Sinh năm 1933 tại Vĩnh Phúc. Trần Đình Hiến từng là giảng viên Đại học Ngoại ngữ
Dịch giả Trần Đình Hiến |
trước khi chuyển sang ngành ngoại giao. Là cán bộ Đại sứ quán Việt Nam tại Trung Quốc, ông từng có 10 năm công tác tại Bắc Kinh. Hiện Trần Đình Hiến sống và hoạt động dịch thuật tại Hà Nội. Các tác phẩm dịch tiêu biểu: Đàn hương hình của Mạc Ngôn (Giải thưởng Hội Nhà văn năm 2003), Báu vật của đời của Mạc Ngôn, Cây không gió của Lý Nhuệ, Ngân thành cố sự của Lý Nhuệ, Tuyển tập kịch của Lão Xá và Tôtem sói của Khương Nhung.
Mã Ba Thuấn. Chúng ta là truyền nhân của Rồng hay của Sói?
(Lời giới thiệu của người biên tập)
Đây là một bộ sách lạ - một kỳ thư duy nhất trên thế giới, mô tả nghiên cứu về sói thảo nguyên Mông Cổ. Đọc sách này, chúng ta được thưởng thức một món ăn tinh thần vô tận về tôtem sói. Bởi lẽ nó vô cùng phong phú, bởi lẽ nó không thể tái hiện. Vì rằng những đoàn thiết kị Mông Cổ và sói Mông Cổ tự do tung hoành trên thảo nguyên đang hoặc đã biến mất, tất cả những truyền thuyết, những câu chuyện về sói đang mất dần trong ký ức chúng ta, và chỉ lưu lại trong ta và trong các thế hệ mai sau những ký hiệu ngôn ngữ của lời nguyền rủa và chửi bới cay độc. Nếu như không có sách này thì sói, đặc biệt là sói thảo nguyên Mông Cổ - bộ máy phát lực của sùng bái vật tổ và sự tiến hoá tự nhiên cuả nền văn minh cổ đại Trung Quốc, chắng khác những vật không phát sáng trong vũ trụ, rời xa quả đất và nhân loại, lênh đênh trong cõi vô cùng tận bất khả tri, lạnh nhạt trước sự dốt nát ngu xuẩn của chúng ta.
Vậy mà giờ đây, trong tình trạng thiên nhiên rệu rã, các loài vật giảm đi nhanh chóng, tinh thần và tính cách nhân loại ngày càng tồi tệ, đọc Lang đồ đằng một tác phẩm có tính sử thi mà sói là đối tượng miêu tả, thì quả thật là dịp may cho độc giả. Hàng ngàn năm nay, hồng học cự nho chiếm địa vị chủ đạo chính thống, sợ sói như sợ hổ, cho rằng sói gieo tai hoạ mà ghét bỏ, trong nền văn hoá Hán tồn tại bao nhiêu là sự hiểu lầm và thiên kiến đối với sói, vậy mà có một cuốn sách hay như vậy về sói, coi sói như đồng đội, như bè bạn.
Cảm ơn tác giả Khương Nhung! Cách đây hơn ba mươi năm, là thanh niên trí thức Bắc Kinh, ông tình nguyện về lao động ở thảo nguyên Ơlôn Mông Cổ mười một năm, tính đến năm 1979 thi đỗ nghiên cứu sinh Viện Khoa học xã hội Trung Quốc. Ở thảo nguyên, ông từng chui vào hang sói, từng đào bắt sói con, từng nuôi sói nhỏ, từng chiến đấu với sói, cũng từng sống chung với sói. Thậm chí đã từng chung hoạn nạn với sói con, trải qua cuộc sống tinh thần "du mục" cực khổ thời trai trẻ. Bầy sói Mông Cổ dẫn ông đi xuyên suốt mê lộ ngàn năm, tới trung tâm của những câu hỏi lớn. Chính là sự khôn ngoan và trí tuệ của sói, tài năng quân sự và tính cách ngoan cường của sói, tình yêu và hờn giận của người thảo nguyên đối với sói, sức hấp dẫn ma mị của sói, khiến Khương Nhung gắn bó với sói như một mối lương duyên. Sói là ông tổ, là tổ sư, là thần chiến tranh và là tấm gương sáng của người thảo nguyên; tinh thần đồng đội và trách nhiệm đối với dòng họ của sói, trí tuệ của sói, tính cách ngoan cường và nghiêm cẩn của sói, công việc huấn luyện đội thiết kị và bảo vệ môi trường thảo nguyên của sói, sự sùng bái tột đỉnh của dân thảo nguyên đối với sói, nghi thức thiên táng thần bí cổ xưa của người Mông Cổ. Lại nữa, tiếng hú của sói, tai sói, mắt sói, thức ăn của sói, khói sói, cờ sói... Hàng nghìn chi tiết liên quan đến sói đều làm cho tác giả mê mẩn, từ đó tiến hành hơn ba mươi năm nghiên cứu và suy ngẫm để viết một tiểu thuyết trường thiên về quan hệ giữa con người và thiên nhiên, nhân tính và sói tính, đạo của sói và đạo của trời. Ngày nay, giữa lúc xã hội Trung Quốc đang chuyển đổi mô hình, tính cách quốc dân hình thành từ nền văn minh nông canh đang níu chân mọi người tiến tới, học giả Khương Nhung đã đánh dấu son lên tác phẩm đồ sộ mà ông tâm huyết cả nửa cuộc đời, để rồi hoàn thành sứ mạng tái hiện "Lang đồ đằng" (tôtem sói), trở thành người đúc kết chân lý về sói.
Cuốn truyện tập hợp mấy chục chuyện về sói, tình tiết gay cấn, quyết liệt mà lạ lùng thần bí. Mỗi chương, mỗi tính tiết đều đem lại khoái cảm cho độc giả, đã đọc là không thể dừng lại nửa chừng. Giống như thần linh, những con sói Mông Cổ bất thình lình từ trong sách nhảy ra mà cất tiếng tru, chiến thuật cao siêu của sói mỗi cuộc trinh sát, cách bày binh bố trận, phục kích, tập kích, sự lợi dụng tài tình về khí tượng, địa hình; khí phách coi cái chết nhẹ như lông hồng và tinh thần bất khuất; tình thân ái trong cộng đồng; mối quan hệ giữa sói và muôn vật trên thảo nguyên; quá trình trưởng thành đầy khó khăn của sói con, sự ngang ngạnh đáng yêu một khi đã mất tự do, chuyện nào cũng khiến ta liên tưởng tới con người, từ đó mà suy ngẫm về những câu hỏi lớn cho đến nay vẫn chưa được giải đáp trong lịch sử nhân loại: Năm xưa chỉ vẻn vẹn hơn chục vạn quân kị mà sao Mông Cổ tung hoành ngang dọc từ Á sang Âu? Đất đai Trung Hoa rộng lớn như ngày nay, nguyên nhân sâu xa vì đâu mà được như vậy? Rốt cuộc trong lịch sử, văn minh Hoa Hạ chinh phục các dân tộc du mục, hay là các dân tộc du mục đợt này kế tiếp đợt khác không ngừng tiếp máu cho văn minh Trung Hoa. Vì sao dân tộc sống trên lưng ngựa ở Trung Quốc không thờ tôtem ngựa mà lại thờ tôtem sói? Văn minh Trung Hoa không đứt đoạn, phải chăng đó là do có nền văn hoá sùng bái sói tồn tại ở Trung Quốc? Vậy là, ta không thể không suy xét ngọn nguồn, không thể không đặt câu hỏi trước những thăng trầm của đất nước. Chúng ta luôn miệng thừa nhận là con cháu của Viêm Hoàng, nhưng rất có thể "tôtem rồng" là diễn biến từ "tôtem sói". Tấm màn bí mật "sùng bái rồng" của dân tộc Hoa Hạ từ đó được vén lên. Vậy thì rốt cuộc chúng ta là truyền nhân của Rồng hay của Sói?
Mã Ba Thuấn
[1] Thông tin chi tiết: Samuel Huntington, Sự xung đột giữa các nền văn minh (The Clash of Civilizations and the Remaking of World Order, 1996), Nhiều dịch giả, Nxb. Thế giới; Hà Nội 1998; Thomas L. Friedman, Chiếc Lexus và cây ôliu (The Lexus and the Olive Tree, 1999), Lê Minh dịch, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội 2005; Thomas L. Friedman, Thế giới phẳng (The World Is Flat: A Brief History of the Twenty-first Century, 2005), Nguyễn Quang A dịch, Nxb. Trẻ, Hà Nội 2006; Jared Diamond, Súng, vi trùng và thép - Định mệnh của các xã hội loài người (Guns, Germs, and Steel: The Fates of Human Societies, 1997), Trần Tiễn Cao Đăng dịch, Nxb. Tri Thức, Hà Nội 2006; Jared Diamond, Loài tinh tinh thứ ba - Sự tiến hoá và tương lai của loài người (The Third Chimpanzee, 2000), Nguyễn Thuỷ Chung và Nguyễn Kim Nữ Thảo dịch, Nxb. Tri Thức, Hà Nội 2007, Jared Diamond, Sụp đổ - Các xã hội đã thất bại hay thành công như thế nào (Collapse. How Societies Choose to Fail or Succeed, 2005), Hà Trần dịch, Nxb. Tri Thức, Hà Nội 2006; Jonathan Weiner, Mỏ chim sẻ đảo - Câu chuyện tiến hoá (The Beak of the Finch - A Story of Evolution in Our Time, 1995), Nguyễn Ngọc Hải dịch, Nxb. Tri Thức, Hà Nội 2006; James Surowiecki, Trí tuệ đám đông (The Wisdom of Crowds, 2004), Nguyễn Thị Yến dịch, Nxb. Tri Thức, Hà Nội 2006.
Chương 1
"Tộc Khuyển Nhung tự nhận tổ tiên của họ là hai con chó trắng, tôtem của họ là chó."
(Phạm Văn Lan - Trung Quốc thông sử giản biên, tập I)
"Chu Mục Vương chinh phạt Khuyển Nhung, đem về bốn sói trắng, bốn hươu trắng."
(Hán thư - Hung Nô truyện)
Khi Trần Trận phục trong hố tuyết dùng ống nhòm đơn chộp được một con sói gộc vào trong ống kính, cậu thấy ánh mắt con sói Mông Cổ nhọn như mũi dùi thép. Khắp người cậu nổi da gà, áo sơ mi bị đội lên, gần như không dính vào da thịt. Có ông già Pilich ở bên, lần này Trần Trận không đến nỗi hồn vía lên mây, nhưng mồ hôi lạnh cứ túa ra từ lỗ chân lông, áo ướt đẫm. Tuy lên thảo nguyên đã hai năm, nhưng cậu vẫn sợ sói gộc và sói đàn. Trong núi sâu, xa lều trại, gặp đàn sói đông đến như thế, hơi thở của cậu cũng run. Trần Trận và ông già Pilich lúc này trong tay không súng, không mác, không thòng lọng bắt ngựa, thậm chí ngay cả chiếc bàn đạp bằng sắt cũng không. Hai người chỉ mỗi hai cây roi, lỡ ra bọn sói ngửi thấy hơi người, chắc chắn cả hai chầu trời sớm.
Trần Trận thở hổn hển, ngoảnh sang nhìn ông già. Ông đang quan sát vòng vây của bọn sói bằng chiếc ống nhòm đơn. Ông kìm giọng, nói khẽ: Cậu nhát như thỏ đế, chẳng khác lũ cừu tí nào! Người Hán các cậu sợ sói từ trong máu, nếu không, sao cứ vào đến thảo nguyên là bại trận? Thấy Trần Trận không nói gì, ông khẽ nạt: Lần này thì đừng có cuống lên, phải quan sát động tĩnh, bọn sói không rửng mỡ đùa nghịch cho vui đâu. Trần Trận gật đầu, cậu bốc một nắm tuyết nắm chặt, tuyết trong tay cậu đóng thành băng.
Dốc núi chênh chếch phía trước mặt, đàn dê vàng đông đúc trong khi tranh thủ bứt cỏ vẫn đề cao cảnh giác, nhưng hình như chúng chưa phát hiện ra âm mưu của sói. Một đầu của vòng cung bao vây ngày càng tới gần chỗ nấp của hai người. Trần Trận không dám cử động, cậu cảm thấy như bị đóng băng.
Đây là lần thứ hai Trần Trận gặp đàn sói lớn như thế trên thảo nguyên. Lúc này, nỗi kinh hoàng khi lần thứ nhất gặp đàn sói khiến toàn thân cậu run rẩy. Câu tin rằng, bất cứ người Hán nào gặp cảnh ngộ như cậu mà gan mật không bị tổn thương thì chớ kể.
Cách đây hai năm, khi Trần Trận từ Bắc Kinh về lao động ở mục trường vùng biên này đã là cuối tháng 11, đây đó tuyết trắng mênh mông. Chưa có lều cấp cho thanh niên trí thức, Trần Trận đến ở cùng gia đình ông già Pilich, đảm nhiệm công việc chăn cừu. Hơn tháng sau, một hôm cậu cùng ông già lên Ban Quản lý mục trường xa hơn tám mươi cây số nhận tài liệu học tập, nhân tiện mua sắm ít đồ nhật dụng. Lúc sắp ra về, ông già là uỷ viên Uỷ ban cách mạng mục trường phải ở lại họp đột xuất, nhưng tài liệu thì mục trưòng chỉ thị phải đem về ngay, không được để chậm. Trần Trận đành ra về một mình. Ông già đổi cho cậu con ngựa ô cao lớn của ông, nó vừa chạy nhanh vừa thuộc đường. Ông dặn đi dặn lại đừng đi đường tắt, cứ đường lớn mà đi, dọc đường hai ba mưoi dặm lại có một lều dân, sẽ không xảy ra chuyện gì.
Trần Trận lên yên, lập tức cảm thấy sức mạnh tràn trề của con ngựa Mông Cổ thượng thặng, liền nảy ra cái ý muốn phóng thật nhanh. Vừa lên đầu dốc, ngó thấy đỉnh Sacanôla, nơi trú ngụ của đại đội, cậu liền quên béng lời dặn của ông già, bỏ con đường vòng dài hai mươi cây số, chạy theo đường tắt về thẳng đại đội cho nhanh.
Trời mỗi lúc mỗi lạnh, đi được nửa đường thì có lẽ vì rét, mặt trời run rẩy lẩn xuống dưới đường chân trời. Hơi lạnh từ mặt tuyết dâng lên, vạt áo da cứng ngắc. Trần Trận co duỗi cánh tay, khuỷu tay và kích áo kêu sột soạt. Một lớp trắng như sương muối phủ kín mình con ngựa ô, chân lún trong tuyết dày, con ngựa chạy chậm dần. Đồi núi nhấp nhô, cái nọ tiếp cái kia, nhìn khắp không thấy một sợi khói bếp. Con ngựa vẫn chạy nước kiệu, nó chưa mệt, nước chạy ổn định, người cưỡi không bị lắc. Trần Trận buông lỏng dây cương, mặc cho con ngựa tự điều chỉnh tốc độ và hướng chạy. Cậu bỗng chột dạ mà không rõ nguyên nhân cụ thể. Cậu sợ con ngựa lạc đường, sợ trời trở chứng, sợ bão tuyết, sợ chết cóng trong thảo nguyên, nhưng còn một nỗi sợ nữa mà cậu quên: Sợ sói.
Sắp tới một cái khe. Con ngựa ô dọc đường hoạt bát nhanh nhẹn, tai đảo bốn phía dò động tĩnh bỗng dừng phắt. Nó nhìn như đóng đinh về phía sau khe và bắt đầu khịt mũi, bước chân rối loạn. Đây là lần đầu Trần Trận một mình một ngựa chạy đường trường trên thảo nguyên, cậu không biết sự nguy hiểm đang rình rập phía trước. Con ngựa ô nở to cánh mũi, mắt trợn tròn, tự động đổi hướng. Nó định tránh đường, nhưng Trần Trận không hiểu con ngựa, cậu gò cương bắt nó chạy theo hướng cũ. Nước kiệu con ngựa càng rối, trở thành nửa chạy nửa lắc, vậy mà tiếng vó thì lại rất khoẻ, có thể chuyển sang nước đại bất cứ lúc nào. Trần Trận hiểu rằng mùa đông phải giữ sức cho ngựa nên gò cương không cho nó chạy vụt lên.
Con ngựa thấy hàng loạt cảnh báo mà không có tác dụng, bèn quay lại ngoạm ủng da trên chân cậu. Nhìn vào ánh mắt sợ hãi của con ngựa, Trần Trận chợt cảm thấy hình như có chuyện nguy hiểm. Nhưng lúc này thì đã muộn, con ngựa đã run rẩy bước vào cửa khe thăm thẳm hình phễu.
Khi nhìn thẳng vào bên trong khe, Trần Trận suýt ngã ngựa. Trong ánh hoàng hôn, một đàn sói Mông Cổ lông vàng rực, sát khí đằng đằng đang đứng trên một đồi tuyết cách khoảng bốn mươi mét. Tất cả đều nhìn thẳng hoặc nhìn nghiêng, tia mắt như những chùm lông nhím bay về phía cậu. Phía gần nhất là mấy con sói gộc, lớn như báo gấm, to gấp đôi, cao gấp rưỡi, dài bằng một thân rưỡi những con sói trong vườn thú Bắc Kinh. Lúc này những con đang ngồi đứng vụt cả dậy, đuôi duỗi thẳng như lưỡi lê tuốt khỏi vỏ, như cánh cung từ trên cao chĩa xuống, chuẩn bị một cuộc xung sát. Những con sói gộc vây quanh con sói chúa lông trắng, nhưng cổ, ức và dưới bụng thì lại màu xám tro sáng như bạch kim, đầy vẻ dữ dằn. Đàn sói không dưới bốn chục con. Sau này, khi Trần Trận kể lại chi tiết cách bài binh bố trận của bầy sói cho ông Pilich nghe, ông dùng ngón tay trỏ gạt mồ hôi trán rồi bảo, có đến tám phần là đàn sói đang họp, chúng đang phân công tập kích một đàn ngựa sau núi. May mà đàn sói khi ấy không đói. Sói đói thì lông không phát sáng.
Trong một thoáng, Trần Trận mất sạch cảm giác. Cái dấu hiệu cuối cùng mà cậu nhận biết được là một tiếng động rủn người như hai đồng bạc trắng đập vào nhau, chắc chắn đó là tiếng va chạm của hồn vía cậu đập vào thiên linh cái khi thoát ra khỏi đầu. Cậu cảm thấy dễ đến mười mấy giây sinh mạng của cậu đã đứt đoạn, chỉ còn là cái xác không hồn. Cậu sở dĩ không ngã bởi vì con ngựa mà cậu cưỡi không phải con ngựa thường. Nó là một con ngựa săn nổi tiếng, trưởng thành qua hàng trăm trận chiến đấu với sói.
Giữa lúc ngàn cân treo sợi tóc, con ngựa trở lại bình tĩnh đến ngạc nhiên. Nó làm ra vẻ không trông thấy đàn sói, hoặc ra cái điều ngẫu nhiên bắt gặp bầy sói đang tụ tập, tiếp tục chậm rãi bước tới như một khách qua đường. Nó tỏ ra gan lì, bước chân đĩnh đạc, không dụt dè, cũng không cướp đưòng mà chạy, mà như một diễn viên thượng thặng đội giàn cốc pha lê trên đầu, nó điều chỉnh nhịp đi sao cho uyển chuyển để người cưỡi trên lưng khỏi ngã xuống làm mồi cho sói.
Có lẽ do dũng khí và sự thông minh của con ngựa mà hồn vía Trần Trận lại trở về với cậu. Cũng có thể Trần Trận được trời rủ lòng thương, trả lại linh hồn và thổi váo đấylòng tin và nghị lực. Khi thể xác nhận lại hồn vía, cậu coi như từ cõi chết trở về, điềm tĩnh đến ngạc nhiên.
Trần Trận ngồi thẳng đuỗn trên yên. Cậu tự dưng bắt chước con ngựa làm ra vẻ phớt đời, không thèm nhìn lũ sói, chỉ vội vàng liếc xéo một cái và có cảm giác chúng ở ngay bên cạnh. Cậu biết tốc độ của sói thảo nguyên, chỉ vài giây là đã vọt tới trước mặt con mồi. Người ngựa ngày càng gần lũ sói phía bên. Trần Trận rất hiểu không được mảy may tỏ ra sợ sệt, phải như Khổng Minh bày không thành kế, làm như trong tay nắm hàng triệu quân, sau lưng có hàng vạn quân thiết kỵ. Chỉ có như vậy mới có thể bình tĩnh trước sói Mông Cổ - sát thủ hung hãn và đa nghi trên thảo nguyên.
Cậu cảm thấy con sói chúa vươn cổ nhìn phía sau lưng cậu. Đàn sói như một dàn rađa, nhất loạt vểnh tai về hướng nhìn của con sói chúa. Các sát thủ im lặng đợi sói chúa ta lệnh. Cặp người ngựa tay không tấc sắt này mà dám ngang nhiên diễu qua trước mặt, khiến sói chúa sinh nghi.
Hoàng hôn sẫm dần, người ngựa càng tới gần lũ sói. Giờ đây chỉ mấy chục bước chân nhưng là nguy hiểm nhất trong đời Trần Trận, và cũng là quãng đường dài nhất đối với cậu. Con ngựa lại tiến thêm mấy bước, Trần Trận bỗng cảm thấy có một con sói chạy lên đầu dốc sau lưng, cậu đoan chắc đó là con sói trinh sát theo lệnh sói chúa, xem phía sau có quân mai phục không? Cậu lại cảm thấy hồn xiêu phách lạc lần nữa.
Con ngựa hình như cũng bối rối. Cặp đùi Trần Trận và thân ngựa đều run, rồi thì do cộng hưởng, cái run nhanh chóng chuyển sang sợ hãi. Con ngựa vểnh tai về phía sau, sốt ruột nghe ngóng con sói do thám. Khi con sói phát hiện ra sự thật là không có gì, cũng là lúc cả người lẫn ngựa đã đến chỗ gần đàn sói nhất. Trần Trận tưởng như cậu đang chui vào một cái miệng sói khổng lồ, phía trên là những răng sắc nhọn, phía dưới cũng là những răng sắc nhọn, biết đâu khi vào đến giữa hai hàm răng, con sói sẽ bập miệng một phát. Con ngựa ô nhún thấp khuỷu chân sau chuẩn bị lấy đà xung trận. Nhưng do tải nặng, nó khó mà thoát hiểm.
Đột nhiên, Trần Trận kêu trời y hệt dân du mục những lúc nguy cấp: Trời ơi, trời cao đất dày ơi, xin Người hãy giúp con! Rồi cậu lại gọi ông già Pilich. Tiếng Mông Cổ, Pilich có nghĩa là khôn ngoan. Cậu hi vọng ông già sẽ nhét vào đầu cậu sự khôn ngoan của dân thảo nguyên Mông Cổ. Thảo nguyên im lặng, không một hồi âm. Cậu tuyệt vọng ngước nhìn trời, cậu muốn nhìn lần cuối màu trắng xanh của bầu trời băng giá.
Đột nhiên, lòi ông già như tiếng sấm ngang tai: Sói sợ nhất là súng, thòng lọng và đồ vật bằng sắt. Súng và thòng lọng, cậu không có. Đồ vật bằng sắt thì sao? Bàn chân cậu nóng ran, có đấy! Dưới chân cậu là hai bàn đạp to tướng. Cậu mừng đến nỗi chân run bắn.
Ông già Pilich đổi ngựa cho cậu nhưng không đổi yên. Thảo nào ngay từ đầu, ông đã lựa cho cậu một cặp bàn đạp to bự, hình như ông tính có lúc phải dùng đến chúng như hôm nay. Nhưng khi đó ông bảo, mới tập cưỡi ngựa, bàn đạp không to thì ngồi không vững, rủi bị hất ngã, rút chân cũng dễ, tránh được trọng thương hoặc chết vì ngựa đá. Cặp bàn đạp này miệng rộng gót tròn, so với cặp bàn đạp bình thường, to gấp đôi, nặng gấp ba.
Đàn sói đang đợi con sói trinh sát. người và ngựa đã mặt đối mặt với chúng. Trần Trận rút chân khỏi bàn đạp rồi cúi xuống mỗi tay cầm một chiếc. Sống chết là ở phút này đây. Cậu vận sức lên đôi tay, ngoảnh mặt về phía đàn sói quát lên một tiếng rồi giơ bàn đạp ra trước ngực đập vào nhau "keng"một tiếng!
Keng! Keng! Keng!
Tiếng "keng" trên thảo nguyên chát chúa như búa tạ đập đường ray, xoáy vào tai lũ sói khiễn chúng giật thót. Với loài sói, tiếng va đập của kim loại còn kinh khủng hơn tiếng sét trên trời, tiếng bẫy sập trên đồng cỏ. Trần Trận gõ tiếng thứ nhất, đàn sói run bắn. Gõ mạnh mấy tiếng nữa, đàn sói cụp tai, rụt cổ, lặng lẽ bỏ chạy theo sói chúa, thoắt cái đã mất dạng. Con sói trinh sát cũng bỏ luôn nhiệm vụ, chạy theo đàn.
Trần Trận quả thực không dám tin vào mắt cậu, đàn sói đông là thế mà bị hai chiếc bàn đạp đuổi toé khói. Phấn khởi quá, cậu đập liên hồi cặp bàn đạp, vừa khoát tay về phía sau như dân du mục, vừa quát lớn: Khơlơtâng! Khơlơtâng! (Mau lên, mau lên!) ở đây rất nhiều sói.
Có thể những con sói Mông Cổ nghe hiểu tiếng Mông Cổ, hiểu cái khoát tay của cánh thợ săn Mông Cổ. Chúng tưởng bị bao vây nên nhanh chóng rút lui, nhanh nhưng vẫn rất trật tự, chạy như gió nhưng vẫn giữ được đội hình muôn thuở: Sói khoẻ đi đầu, sói chúa phía trước, sói gộc đoạn hậu, không tán loạn như loài cầm thú khác. Trần Trận đứng ngây ra nhìn.
Đàn sói thoáng cái đã mất dạng, trong khe chỉ còn lại bụi tuyết.
Trời tối sẩm, Trần Trận chưa kịp nhìn lại bàn đạp thì con ngựa đã nhằm cụm lều mà nó quen thuộc, lao đi như mũi tên. Gió lạnh lùa vào ống tay áo, vào cổ, mồ hôi trong người Trần Trận gần như đóng băng.
Thoát khỏi miệng sói trở về, Trần Trận từ đó tin là có trời như dân du mục. Hơn nữa, cũng từ đó cậu đâm sợ, kính nể và say mê sói. Với Trần Trận, sói Mông Cổ không những đụng vào tâm linh cậu, mà còn từ tâm linh hiện ra những cơ thể sống. Làm sao trong mình con sói tiềm ẩn sức hấp dẫn mạnh mẽ nhường ấy! Cái vật nhìn không thấy, sờ không được, hư vô mà hiện hữu này, có lẽ nó là sự sùng bái vật trong tâm linh, còn gọi là tôtem. Trần Trận mang máng cảm thấy hình như cậu đã tiếp cận lĩnh vực tinh thần của dân tộc thảo nguyên, tuy cánh cửa mới mở hé, nhưng cậu đã nhìn đựoc vào bên trong với một tâm trạng hứng khởi.
Hai năm sau đó, Trần Trận chưa lần nào gặp một đàn sói lớn như thế. Ban ngày chăn cừu, cậu chỉ trông thấy từ xa một hai con, mà dù có đi xa vài chục, thậm chí hàng trăm cây số, cũng chỉ gặp nhiều nhất là hai ba con, bốn năm con sói. Nhưng cậu thường thấy bò dê cừu bị sói ăn thịt, ít là một hai con, nhiều là hai ba con cừu, ba bốn con ngựa, nhiều thì xác nằm ngổn ngang. Đến thăm các gia đình có thể thấy tấm da sau khi ăn thịt sói. Nó được treo lên ở đầu sào, bay phất phới như lá cờ phướn.
*
Ông gìa Pilich nằm yên trong hố tuyết, nheo mắt nhìn chăm chú đàn dê trên sườn dốc và đàn sói ngày càng tiến lại gần, bảo Trần Trận: Ráng đợi chút nữa, học săn bắt, trước hết phải học tính kiên nhẫn của sói.
Có ông già bên cạnh, Trần Trận vững tâm hơn. Cậu gạt băng đọng trên lông mi, chớp chớp mắt nhìn ông già, giơ ống nhòm quan sát đàn dê vàng trên sườn dốc chênh chếch trước mặt và vòng vây của bầy sói. Bầy sói chưa hành động.
Từ sau lần con ngựa ô chạm trán với bầy sói, cậu hiểu con người trên thảo nguyên thực tế luôn bị sói bao vây rất gần. Ban ngày chăn cừu, ra khỏi lều không xa là đã trông thấy hàng loạt dấu chân còn mới, trên dốc dưới bãi dấu chân càng nhiều hơn, có cả những bãi phân sói màu xám nhạt. Đêm đêm cậu gần như trông thấy bóng sói vật vờ như trong cõi u linh, nhất là trong những đêm đông rét buốt, những cặp mắt sáng xanh như đom đóm chỉ cách đàn cừu vài chục mét, ít là hai ba cặp, năm sáu cặp, nhiều là mười mấy cặp, nhiều nhất là cái lần cậu dùng đèn pin của con trai ông già, đếm được hai mươi lăm cặp. Du mục nguyên thuỷ cũng như du kích hành quân, càng gọn nhẹ càng tốt. Chuồng cừu mùa đông chỉ là xe cũ, rào lưu động và những tấm thảm lớn quây thành một vòng bán nguyệt, chỉ chắn gió, không ngăn được sói. Khoảng trống rất lớn ở phía nam hoàn toàn dựa vào đàn chó và đám phụ nữ gác đêm. Đôi khi sói lọt vào trong chuồng, sói và chó cắn nhau văng vào vách lều, đụng phải người ngủ sát bên trong. Trần Trận từng hai lần bị đánh thức kiểu ấy, nếu không có bức vách, con sói rơi trúng người cậu. Du mục nguyên thuỷ, người và sói thảo nguyên chỉ cách nhau hai lớp thảm. Có điều cho đến bây giờ, Trần Trận chưa có dịp nào quần nhau với sói. Những con sói Mông Cổ thiện chiến xuất quỷ nhập thần hơn du kích đồng bằng Hoa Bắc. Những đêm bị sói quấy nhiẽu, Trần Trận buộc phải tỉnh ngủ, cậu dặn Caxưmai trực đêm thấy sói vào chuồng nhớ đánh thức, cậu sẽ giúp một tay. Ông già Pilich thường vê vê bọ râu dê mà cười mỉm, ông bảo ông chưa thấy người Hán nào hăng hái như cậu. Hình như ông già rất bằng lòng về chàng thanh niên trí thức Bắc Kinh đầy nhiệt huyết này.
Rồi thì Trần Trận cũng được chứng kiến một cuộc ác chiến giữa người và sói dưới ánh đèn pin trong một đêm giông bão cuối năm.
"Trần Tận (Trận)! Trần Tận (Trận)!"
Trần Trận bị tiếng gọi giật giọng của Caxưmai và tiếng chó sủa điên cuồng đánh thức. Đêm đã khuya. Cậu xỏ vội đôi ủng và chiếc áo khoác ngoài, cầm đèn pin và roi ngựa bước ra khỏi lều, hai chân run bắn. Trong quầng sáng đèn pin có tuyết bay lất phất, cậu trong thấy Caxưmai đang túm chặt cái đuôi rất dài một con sói gộc. Con sói có chiều dài suýt soát một thân người trưởng thành. Caxưmai định lôi nó ra khỏi đàn cừu dày đặc. Con sói muốn quay lại cắn ngưòi, nhưng đàn cừu vì sợ gió, sợ lạnh nên đỏ xô về phía bức tường chắn gió, ken chặt đến nỗi nửa thân trước của con sói bị kẹt cứng không cựa quậy được, chi còn mỗi cách cắn văng mạng những con cừu hai bên và hai chân trước bám đất chơi trò kéo co với Caxưmai để thoát ra khỏi đàn cừu, quay lại cắn trả. Trần Trận loạng choạng chạy về phía Caxưmai, nhất thời chưa biết xử lý ra sao. Hai con chó to lớn sau lưng Caxưmai cũng bị đàn cừu che chắn, không thể tiếp cận con sói, chỉ quáng quàng bên ngoài mà sủa uy hiếp con sói. Năm sáu con chó nhà ông Pilich và toàn bộ chó của những nhà lân cận đang quần nhau với bầy sói tại phía đông chuồng cừu. Tiến sủa, tiếng rú, tiếng gào kinh thiên động địa. Trần Trận rát muốn giúp Caxưmai một tay, nhng cậu run quá, không nhích nổi nửa bước. Cậu vốn rất muốn chạm tay vào con sói, giờ đây ý tưởng đó tan như bọt xà phòng. Nhưng Caxưmai thì cứ tưởng cậu định đến giúp, vội hét: Đừng lại gần kẻo bị sói cắn! Đuổi đàn cừu để lấy chỗ cho chó vào!
Caxưmai ngả ngưòi về phía sau, ra sức kéo đuôi con sói đến nỗi mồ hôi đầy mặt. Cô dùng cả hai tay bẻ gập đuôi khiến nó đau quá, há miệng đỏ lòm hớp gió lạnh, hận nỗi không thể quay lại cắn chết tươi con người phía sau cho hả giận. Trườn lên không ăn thua, con sói bò giật lùi thật nhanh, quay được người lại cắn Caxưmai. "Soạt", vạt áo dài của cô bị rách toạc. Cặp mắt lá răm của cô gái Mông Cổ loé sáng như mắt con báo hoa, cô vẫn túm chặt đuôi sói, nhảy lùi một bước để kéo thẳng nó như cũ, rối ra sức lôi con sói về phía mấy con chó.
Trần Trận hoa mắt, cậu giơ cao đèn pin để Caxưmai nhìn rõ con sói, còn tay cầm gậy thì vụt lia lịa, bất kể vào đầu hay vào tai nó. Đàn cừu nhốn nháo, vì sợ con sói trong bóng tối nên tranh nhau chạy tới chỗ quầng sáng. Trần Trận đâm ra bất lực, không xua được đàn cừu theo ý muốn. Cậu nhận ra Caxưmai đang yếu thế, con sói đã dướn lên một bước.
"A má! A má!" - Có tiếng trẻ kêu thất thanh.
Bayan, đứa con trai lên chín của Caxưmai xông ra khỏi lều, trông thấy mẹ với con sói, nó kêu lạc cả giọng. Như chơi trò nhảy cừu, nó nhảy tưng tưng trên lưng những con cừu đến chỗ mẹ, cùng mẹ tóm đuôi con sói. Caxưmai hét to: Tóm cẳng nó! Bayan chuyển một tay tóm cẳng con sói rồi ra sức kéo. Sức dướn của con sói bị giảm nhiều, hai mẹ con đã ghìm được nó tại chỗ. Tiếng chó vẫn sủa râm ran phía đông. Đàn sói rõ ràng giương đông kích tây. Bộ phận chủ lực khống chế đàn chó, yểm hộ cho những con xông vào chuồng cừu. Mạn giữa và phía tây hoàn toàn do hai mẹ con Caxưmai cố thủ, không cho con sói gộc dồn một số cừu ra ngoài bằng cách chọc thủng tấm thảm chắn.
Ông già Pilich cũng ra chỗ đàn cừu. Ông vừa dồn cừu, vừa gọi: Balưa! Balưa! Balưa tiếng Mông Cổ có nghĩa là "hổ". Đó là con chó săn sói, giống chó Tạng, to lớn nhất đàn, cực kỳ hung hãn, thân tuy không dài bằng, nhưng cao và ức nở hơn sói nhiều. Nghe tiếng gọi của chủ, Balưa lập tức rút khỏi cuộc chiến, chạy tới bên chủ, hơi thở toàn mùi máu. Ông già vội đón chiếc đèn pin từ tay Trần Trận soi về phía con sói. Balưa lắc đầu một cái thật mạnh, buồn như vệ sĩ bị mất chức, điên cuồng nhào tới chỗ con sói, đạp cả lên đầu lũ cừu. Ông già bào Trần Trận: Dồn cừu về phía sói! Lèn chặt sói lại, không cho nó chạy thoát! Nói rồi ông nắm tay Trần Trận, hai người dồn cừu về phía con sói và mẹ con Caxưmai.
Con Balưa hung dữ miệng phì khói, cuối cùng vào tới chỗ Caxưmai, nhưng con sói bị kẹt giữa đàn cừu không một kẽ hở. Những con chó săn khôn ngoan của Mông Cổ đều không cắn vào những chỗ có thể làm hỏng bộ da sói. Con Balưa tìm không ra chỗ thích hợp để cắn, nó cuống quít rên ư ử. Thấy con Balưa,Caxưmai liền né sang bên, tì đuôi sói vào gối rồi dùng sức mạnh toàn thân mà bẻ, "rắc" một tiếng, xuơng đuôi con sói bị gãy. Con sói đau quá tru thảm thiết, bốn chân bám trụ lơi ra, mẹ con Caxưmai nhân đà giật mạnh nó ra khỏi đàn cừu. Con sói toàn thân run rẩy, ngoái lại nhìn vết thương. Balưa thừa cơ nhảy tới ngoạm trúng cổ họng con sói, rồi mặc cho nó quẫy đạp, con Balưa dùng hai chân trước chặn ức, hàm răng sắc nhọn bập trúng họng, máu sói vọt ra hai bên mép chó. Con sói giãy giụa trong vài phút rồi ngã vật, thân mềm nhũn. Caxưmai chùi máu trên mặt, thở ra một hơi. Trần Trận nhìn sắc mặt đỏ au tưởng chị dùng son làm bằng huyết sói, đẹp man rợ như phụ nữ thời tiền sử.
Mùi máu sói lan ra không khí, đàn chó im bặt, lũ sói bỏ chạy, thoáng cái đã mất hút trong đêm. Chỉ lát sau, từ những trảng cỏ phía tây bắc vọng lại tiếng hú dài thê thảm tiễn đưa viên tướng của chúng vừa trận vong.
Mình là đồ vô tích sự, dát như cừu! Trần Trận thẹn thùng tự trách. Mình không bằng những con chó thảo nguyên, không bằng phụ nữ thảo nguyên. Đứa trẻ lên chín mình cũng không bằng. Caxưmai cười, lắc đầu bảo: Không đúng, nếu không có chú đến giúp thì nó bắt mất cừu rồi. Ông già Pilich cũng cười: Học trò người Hán như cậu mà biết dồn cừu, biết soi đèn pin, tôi mới thấy là một.
Rốt cuộc Trần Trận cũng sờ được vào cái xác còn nóng của con sói. Cậu hối hận vì hồi nãy không kéo đuôi con sói cùng với Caxưmai, bỏ lỡ dịp ngàn năm có một tay không bắt sói. Sói Ơlôn quả thực to vật vã, lông lá đầy mình như hắc tinh tinh, chết rồi mà vẫn oai phong, chỉ như say rượu nằm dưới đất, có thể vọt dậy bất cứ lúc nào. Trần Trận sờ cái đầu to đùng của con sói, lấy hết can đảm ngồi xuống, giang ngón cái và ngón giữa đo chiều dài từ chóp mũi dến chót đuôi. Chín gang tay, vị chi là một mét tám, cao hơn cậu mấy phân. Trần Trận hít hà ngạc nhiên quá đỗi.
Ông già Pilich dùng đèn pin soi đàn cừu. Có ba bốn con đã bị sói cắn cụt khu đuôi béo mẫm, mỡ và máu trộn lẫn, chảy từng vệt. Ông già bảo, đổi bốn năm cái đuôi cừu lấy một con sói không lỗ vốn. Ông cùng Trần Trận kéo con sói về lều, đề phòng lũ chó hàng xóm cắn xé bộ da cho đỡ tức. Trần Trận cảm thấy chân sói to hơn nhiều so với chân chó. Cậu xoè bàn tay ướm thử, trừ các ngón tay, bàn chân sói vừa bằng bàn tay người lớn. Thảo hèn sói chạy rất ổn định trên tuyết hoặc trên đá sỏi. Ông già bảo: Ngày mai tôi dạy cậu lột da sói làm xà cạp chân.
Caxưmai bê từ trong lều ra nửa chậu thịt vụn lẫn xưong khao Balư và lũ chó. Trần Trận cũng ra theo, luôn tay vuốt ve cái đầu to bự và tấm lưng cánh phản của con Balư. Con chó vừa nhai xương rau ráu vừa vẫy đuôi tỏ vẻ biết ơn. Trần Trận không nén được, hỏi Caxưmai: Lúc nãy chị có sợ không? Cô cười: Sợ chứ, tôi sợ sói bắt mất cừu, mất công điểm. Tôi là Tổ trưởng sản xuất, để mất cừu thì xấu hổ chết! Caxưmai võ vỗ đầu con chó, luôn miệng khen: Balư sai (giỏi lắm)! Balư sai (giỏi lắm)! Con Balư nhả miếng xương, ngẩng lên đón bàn tay của cô chủ rồi rúc mõm vào ống tay áo cô, đuôi phe phẩy. Trần Trận thấy rõ con Balư nhận ra tình cảm của cô chủ đối với nó trong lúc đói lòng giữa đêm đông. Caxưmai bảo: Cậu Trận này, sau Tết, tôi sẽ cho cậu một con cún rất đẹp, chăn nuôi đúng kỹ thuật không khó, cậu nuôi tốt, nó sẽ như con Balư. Trần Trận rối rít cảm ơn.
Vào trong lều rồi, Trần Trận vẫn chưa hết sợ, nói: Hồi nãy cháu sợ quá. Ông già nói: Khi ấy tôi cũng thấy thế khi cầm tay cậu. Mà sao cậu run ghê thế? Ra trận mà tay run thế thì làm sao cầm chắc tay dao? Muốn trụ lại trên thảo nguyên, phải tài giỏi hơn sói. Từ nay tôi sẽ thường xuyên đưa cậu đi săn sói mới được. Xưa kia Thành Cát Tư Hãn tuyển quân, bao giờ cũng tuyển những thợ săn giỏi.
Trần Trận gật đầu liền mấy cái, nói: Cháu tin là như thế. Chị Caxưmai mà lên ngựa ra trận, tài giỏi hơn Hoa Mộc Lan nhiều. Hoa Mộc Lan là một nữ tướng rất nổi tiếng đời Hán.
Ông già nói: Hoa... Hoa Mộ La (Mộc Lan) của người Hán rất hiếm, còn Caxưmai của Mông Cổ thì rất nhiều, nhà nào cũng có. Ông già cất tiếng cười khà, y hệt tiếng cười của con sói chúa.
Từ ấy Trần Trận ngày càng muốn tiếp cận, quan sát, nghiên cứu lũ sói. Cậu lờ mờ cảm thấy rằng, thảo nguyên và người thảo nguyên có mối quan hệ bí ẩn. Có lẽ phải hiểu rõ sói thảo nguyên thì mới hiểu được thảo nguyên và người thảo nguyên, mà sói thảo nguyên là khâu bí ẩn nhất. Trần Trận rất muốn có thêm những cảm xúc chân thực của cậu về sói, thậm chí cậu rất muốn tự mình bắt được sói con đem về nuôi. Khi nảy ra ý nghĩ này, bản thân cậu cũng giật mình. Nhưng mùa xuân càng tới gần, ý nghĩ này càng mãnh liệt.
Tuy vậy, cậu vẫn vô cùng cảm kích về tấm lòng của ông già.
Trần Trận cảm thấy ông già hích tay cậu rồi chỉ lên sườn dốc. Cậu vội chĩa ống nhòm về phía ấy, đàn dê vàng vẫn đang hối hả gặm cỏ. Nhưng cậu trông thấy một con sói lớn tách khỏi vòng vây, nhằm hướng núi phía tây chạy đi. Cậu chột dạ, khẽ hỏi ông già: Chẳng lẽ đàn sói bỏ cuộc, hoài công mình phục cả buổi ở đây!
Ông già bảo: Đàn sói không dễ bỏ qua một dịp may. Hẳn là sói chúa thấy đàn dê quá đông, nên sai lính về điều thêm quân. Dịp may như thế này năm sáu năm chưa chắc đã gặp một lần. Xem ra đàn sói muốn vớ bẫm, khoắng một mẻ lớn. Hôm nay không uổng công khi dẫn cậu đến đây. Cậu thấy chưa, đi săn là phải kiên trì.
Chương 5
"Chuyện rằng, tổ tiên ngưòi Đột Quyết ở Sách quốc, phía bắc Hung Nô. Bộ lạc này người lớn thì gọi là Abangpu. Trong mười bảy người lớn, có một người tên Doanchiniixưtu do sói sinh ra. Các Bangpu đều đần độn, nên mất nước. Chỉ mỗi Nixưtu tư chất khác người, biết hú gió gọi mưa. Lấy hai vợ, con gái của thần mùa Hạ và thần mùa Đông, sinh liền bốn trai... Chuyện tuy lạ, nhưng đúng họ thuộc giống sói."
(Chu thư. Đột Quyết)
Mây đen dầy đặc từ chân trời phương bắc cuồn cuộn đổ về, hung hãn chiếm lĩnh trời xanh. Loáng cái, bóng mây nuốt chửng bóng núi, chụp bàn tay khổng lồ lên mục trường. Phía tây, mặt trời màu da cam chưa khuất hẳn. Đồng hành với gió bắc là tuyết dày càn quét vùng Ơlôn. Những bông tuyết bay ngang dưói ánh nằng chênh chếch trông như hàng tỉ con châu chấu đói giương đôi cánh màu vàng đua nhau xông tới mục trường phì nhiêu.
Ngạn ngữ Mông Cổ: Hoạ sói về cùng gió. Đàn sói Ơlôn mấy chục năm nay di chuyển như du kích hai bên biên giới, lợi dụng đợt rét muộn hi hữu vượt mốc giới, băng qua dải phòng cháy, tràn qua đưòng tuần tra biên phòng, tiến vào thảo nguyên Ơlôn cận vùng biên. Bên kia biên giới rét buốt, đất đai nghèo xác, sói đói không có cái ăn. Năm nay, vùng biên bên này, thực phẩm dự trữ của sói bị cướp sạch, bên kia càng khó khăn. Đàn sói khó mà bắt những con dê vàng chạy như bay như biến. Hầu hết sói đói tập kết trên đường biên. Vựot biên lần này, đàn sói mắt đỏ ngầu, háu ăn khủng khiếp, thủ đoạn tàn nhẫn, hoạt động liều lĩnh, mỗi con mang theo tâm trạng phục thù, sẵn sàng đổi mạng lấy cái ăn. Vậy mà Ơlôn đang là lúc đào bắt sói con, lơ là cảnh giác.
Những năm giữa và cuối thập kỷ 60, trình độ dự báo thời tiết cho vùng Ơlôn: báo mưa không thấy nước, báo nắng không thấy mặt tròi. Trưởng bãi Ulichi bảo, khí tượng rặt một lũ nói bậy! Ngoài ông già Pilich và mấy bô lão khác tỏ ra lo lắng khi Ban Quản lý điều động quá nhiều lao động đi đào bắt sói con, những người khác không ai dự đoán được trận rét muộn khủng khiếp và tai hoạ do sói gây ra. Ngay cả sĩ quan và lính biên phòng là những ngưòi rất quan tâm đến dân du mục và côngviệc chăn nuôi cũng không có dự báo hoặc nhắc nhở. Trước kia mỗi khi phát hiện đàn sói vượt đường tuần tra, họ đều báo ngay cho mục trường và người dân. Vùng biên Ơlôn núi đồi thấp bé không vật cản che chắn, bạch mao phong bất thình lình tràn về nhanh như chớp, và đàn sói thiện chiến lợi dụng bão tuyết tổ chức những cuộc tấn công chớp nhoáng.
Tại bãi chăn tốt nhất ở tây bắc Ơlôn, có một đàn ngựa mới tập kết mấy hôm nay. Đó là những con ngựa thượng thặng do trung đoàn X thuộc sư X kỵ binh dân quân tuyển từ hơn chục đàn ngựa trên thảo nguyên Ơlôn. Khoảng bảy tám mươi con ngựa đang đợi bản kết quả kiểm tra sức khoẻ, chỉ cần không có bệnh lở mồm là lập tức lên đường. Công việc chuẩn bị chiến tranh rất khẩn trương, trách nhiệm trên vai những mã quan (người chăn ngựa) rất nặng nề. Đại diện quân đội và Uỷ ban cách mạng mục trường đã chọn ra bỗn mã quan tinh thần trách nhiệm cao, cảnh giác tốt, can đảm và kỹ thuật chăn nuôi giỏi, chia hai ca, luân phiên trực 24/24 giờ trong ngày. Batu - Đại đội trưởng dân quân của đội II, được cử làm Tổ trưởng. Đề phòng ngựa nhớ đàn bỏ về, Batu đã cho di chuyển các đàn ngựa lùi xa mấy chục dặm. Mấy hôm trước thời tiết thuận, ăn uống đầy đủ, lại được một bữa mầm cỏ ngon miệng, những con ngựa chiến không nhớ nhà, đàn ngựa yên ổn. Bốn chàng mã quan cũng làm hết sức mình, mấy ngày trôi qua bình yên...
Thoạt tiên, gió lạnh tạm ngừng, và bạch mao phong thảo nguyên cường độ trên cấp 10 quét ngang, nước hồ tràn lên bãi cỏ như lũ lụt, đàn gia súc phá rào bỏ chạy. Những căn lều giữa luồng gió vặn như chão, xoắn lại rồi đổ sập. Những cỗ xe bị giật mui tung lên trời. Tuyết dày đến nỗi người ngồi trên yên không nhìn thấy đầu và đuôi ngựa. Tuyết hòn bay mù trời, rào rào như đạn ghém bắn ra từ súng săn, kéo theo ngàn vạn sợi trắng như bạc.
Người già bảo, ngày xưa một pháp sư Mông Cổ có tên Xaman từng nói: Bạch mao phong là con yêu tóc trắng (bạch mao). Do đó có tên bạch mao phong. Nghe nói đến bạch mao phong, người và gia súc sợ mất vía. Người la, ngựa hí, chó sủa, cừu kêu, hộn tất cả những âm thanh ấy lại là tiếng rú điên cuồng ma quái của bạch mao phong!
Những thợ săn sói con đang chuẩn bị cho cuộc đào bắt ban đêm thì bị kẹt trong núi, về cũng dở, ở lại cũng dở. Người nào ra về thì giữa đường bị lạc. Những ngưòi ở nhà trông nom gia súc thì cùng với trẻ già lớn bé liều chết dồn đàn gia súc về. Trên thảo nguyên, thường chỉ một ngày hay một đêm là còn hay mất tiêu những gì tích cóp trong nhiều năm.
Mục tiêu công kích số một của đàn sói vượt biên là đàn ngựa béo. Hôm ấy, ông già Pilich tưởng đàn ngựa chiến đã được gửi đi đúng thời gian qui định. Khi bạch mao phong tràn về, ông đã mừng, nhưng sau mới biết, đàn ngựa phải lùi lại một hôm vì chưa có báo cáo kết quả kiểm tra sức khoẻ, mà người nhận báo cáo thì hôm ấy cùng đại diện quân đội Bao Thuận Quí lên núi đào bắt sói con. Sói con năm nay bắt được nhiều, không dưới mưòi mấy ổ, tổng cộng hơn một trăm con. Những con sói mẹ mất con gào thảm thiết, khiến đàn sói càng điên cuồng hung hãn.
Người già bảo: Đây là cơ hội ông Trời tạo ra cho sói chúa. Dứt khoát đó là con sói trắng trên thảo nguyên Ơlôn sau khi quan sát kỹ, đã chọn đúng mục tiêu trả thù.
Gió vừa nổi, Batu đã chui ra khỏi chiếc lều dã chiến. Ban ngày anh nghỉ vì đã trực liền mấy đêm, nhưng anh vẫn không sao chợp mắt được. Lớn lên giữa đàn ngựa, Batu đã nhiều phen chịu trận những gì bạch mao phong đã gây ra. Liên tiếp mấy ngày bình yên một cách đáng ngờ khiến thần kinh căng thẳng như sợi dây đàn, thoảng chút gíó là rung lên thành tiếng. Dân chăn ngựa đều nhớ nằm lòng câu châm ngôn bằng máu: Trên thảo nguyên Mông Cổ, phía sau bình yên không bình yên, đằng sau nguy hiểm vẫn còn nguy hiểm.
Batu vừa ra khỏi lều, liền ngửi thấy mùi bạch mao phong. Ngước nhìn hướng gió từ phương bắc tới, sắc mặt anh đang đỏ au bỗng xám ngoét, con ngươi màu hổ phách loé sáng. Anh lập tức trở vào lều đạp một phát cho anh bạn chăn Xaxưleng tỉnh dậy, rôi cầm lấy đèn pin, lên cò súng, lồng roi ngựa vào cổ tay, khoác áo da, dập lửa bếp, không quên đem theo hai áo khoác da cho hai người trực. Hai ngưòi khoác súng lên vai, cầm đèn pin dài hai thước, lên yên, nhằm phía đàn ngựa phóng đi.
Mặt trời vừa khuất sau dãy núi phía tây, thảo nguyên Ơlôn đã một màu xám xịt. Hai con ngựa vừa phi xuống dốc liền gặp bạch mao phong, người ngựa lập tức bị nuốt chửng, gíó cà rát mặt, mắt không mở đựoc vì tuyết hòn, ngựa liêu xiêu không vững.
Hai con ngựa như ngửi thấy mùi gì đó, đầu lắc liên hồi, chỉ rình chạy tháo thân. Hai người vẫn sát bên nhau nhưng Batu giơ tay nhìn không thấy ngón, sốt ruột gào toáng lên vẫn không thấy Xaxưleng đáp lại. Bão tuyết gào rú, nhận chìm tất cả. Batu gò cương lau mồ hôi và tuyết trên trán, định thần lại, rồi đổi tay cầm roi, cầm chắc đèn pin, bật công tắc. Bình thường đèn của anh sáng như đèn pha, ngoài trăm mét nhìn rõ ngựa, giờ chỉ nhìn được hơn chục mét, tuyết lông chim bay dày đặc trong quầng sáng. Lát sau, cặp người ngựa trắng như tuyết quét đèn lại phía anh, ánh đèn nhợt nhạt thảm hại. Hai người khua đèn một vòng tròn, tìm cách cho hai con ngựa đang kinh hoảng xáp lại gần nhau.
Batu kéo Xaxưleng lại gần, lột bao che tai của cậu ta, nói như quát: Dừng ở đây! Cho ngựa rẽ hướng đông, tránh hồ lớn! Không thì chết hết!
Xaxưleng cũng hét vào mặt Batu: Ngựa tôi sợ, e có sói. Bốn người làm sao chống lại?
Batu cũng hét: Phải chống thôi, chết bỏ!
Nói rồi, hai người giơ cao đèn pin rọi theo hướng bắc và liên tục khua tròn, phát tín hiệu cho hai mã quan và đàn ngựa.
Một con ngựa bờm và lông màu xám lao vào trong quầng sáng đèn pin rồi dừng lại đột ngột bên cạnh Batu như gặp được cứu tinh. Con ngựa chưa hoàn hồn, thở phì phì, dưới cổ có vết cắn máu chảy đầy ức, miệng vết thương bốc hơi, mảu rỏ giọt. Con ngựa của Xaxưleng hoảng sợ chồm hai chân trước rồi đầu cúi gằm, cổ vươn dài, nó bất chấp tất cả, phóng như điên theo chiều gió. Batu vội thúc ngựa bám sát Xaxưleng. Con ngựa xám cũng biến mất.
Loay hoay một lúc lâu, Batu mới tóm được cương con ngựa của Xaxưleng. Lúc này, đàn ngựa cũng đã chạy tới bên anh. Dưới ánh đèn pin loang loáng, những con ngựa mà anh nhìn thấy đều tỏ ra sợ hãi tột độ, hồn vía bay đâu mất, chẳng khác con ngựa xám lúc nãy. Đàn ngựa hí dài theo gió, vừa chạy vừa đá lung tung, hàng trăm cặp vó hất tuyết bay lên như sóng bạc đầu, trong tiếng gầm rú điên cuồng của bạch mao phong. Khi Batu và Xaxưleng rọi dèn xuống thấp, cả hai giật nảy người. Xaxưleng vội ghì chặt cổ ngựa để khỏi bị ngã. Tuy chỉ thoáng qua, nhưng với con mắt tinh tường của dân chăn ngựa, hai người đã nhìn thấy sói trong đàn ngựa. Những con ngựa ở vòng ngoài, gần như con nào cũng bị hai ba con sói đeo bám, những con sói trắng toát do bạch mao phong cài tuyết đầy người. Eo ngựa lớn hơn rất nhiều so với lúc thường, trắng lốp. Bầy sói như hung thần ác quỉ khiến cánh mã quan chết khiếp. Những con sói lúc thường thấy ánh đèn pin là bỏ chạy, lúc này chúng chẳng sợ gì cả, chúng đang nổi cơn điên vì căm thù.
Batu toát mồ hôi, chạm trán với bầy sói, anh cảm thấy như bị Trời trừng phạt. Tuy nhiên, là mục dân Ơlôn, ai mà chẳng chôn trong bụng sói, khi chết vẫn được sói xử lý gọn ghẽ để linh hồn được về với Trời. Nghìn năm qua là thế, nghìn năm nữa vẫn vậy. Nhưng người ta dù khoẻ mạnh hay đau yếu vẫn sợ sói, không muốn bị sói ăn thịt khi chưa hết tuổi trời.
Batu và Xaxưleng không nhìn thấy hai mã quan kia. Anh đoán hai người hoặc đã bị thương vì bạch mao phong, hoặc ngựa của họ khiếp đảm chạy bạt mạng. Hai người trực ban ngày, không súng, không đèn pin, không áo khoác dày. Batu đành phó mặc cho may rủi, bảo Xaxưleng: Kệ họ, cứu đàn ngựa đã!
Đàn ngựa vẫn chạy theo ánh đèn của Batu. Bảy tám mưoi con ngựa này là tinh hoa của các đàn ngựa trên thảo nguyên Ơlôn và là tâm huyết của mấy chục mã quan, toàn là ngựa thuần chủng, rất quí, giống ngựa Uchumuxin nổi tiếng thế giới, sách gọi là ngựa Đột Quyết. Chúng có thân hình tuyệt đẹp, sức chịu đựng tốt, giỏi nhịn đói nhịn khát, chịu mưa chịu nắng, chạy nhanh và dai sức. Thường ngày, người cưỡi chúng là mã quan và những người đứng đầu cơ quan quản lý mục trường. Giờ phải điều cho sư đoàn kỵ binh dân quân để chuẩn bị cho cuộc chiến, mục trường rất khổ tâm mà không nói ra. Đàn ngựa này mà bị sói ăn thịt, hoặc chết đuối dưới đầm lầy, thì đám mã quan sẽ xé xác anh ra! Batu điên đầu khi nghĩ đến những mã phu ngày thường vốn không phục anh.
Thấy Xaxưleng còn chần chừ, Batu thúc ngựa vọt lên, gõ roi vào đầu anh ta, cho ngựa ép anh ta về phía đàn ngựa. Anh huơ đèn pin mấy vòng trên đầu làm hiệu, quát: Cậu mà bỏ chạy, tôi bắn chết! Xaxưleng la to: Tôi không sợ, nhưng ngựa tôi sợ! Xaxưleng cầm cương vụt liền mấy cái lên đầu con ngựa của cậu ta, nó mới chịu áp sát đàn ngựa. Hai người dùng ánh đèn pin chỉ huy đàn ngựa, vụt thẳng cánh những con không tuân lệnh và những con vẫn chạy theo chiều gió, cố lái đàn ngựa chạy chếch về hướng đông. Batu đoán hồ lớn ngày càng gần, chỉ khoảng hai chục dặm. Những con ngựa chiến này đều là ngựa thiến, cổ cao ức nở, không lấn bấn vợ con như những con ngựa khác nên di chuyển nhanh, với tốc độ này thì chỉ sau nửa giờ là cả đàn tới đầm lầy. Cái đầm này nguy hiểm ở chỗ chiều bắc nam hẹp, đông tây rộng, án ngữ ngay trên đường chạy. Nếu gió không đổi chiều thì khó thoát. Batu hình dung cái đầm như miệng con quái vật há hốc, đang chờ thần gió và thần sói dẫn đàn ngựa tới.
Bạch mao phong không đổi hướng, tiếp tục lồng lộn từ bắc xuống nam. Trong đêm tối, Batu có thể qua tiếng chân ngựa chạm đất mà đoán được địa hình cao thấp, chất đất mịn thô, để biết mình đang ở đâu và gió chiều nào. Giờ đây lòng như lửa đốt, anh cảm thấy những con sói mẹ mất con còn điên cuồng hơn sói chúa. Bất chấp đang bị đàn sói bao vây, bất chấp con ngựa anh cưỡi có thể bị cắn chết, bị té, quẳng anh xuống đất cho đàn sói xé xác, anh chỉ một ý nghĩ: Phải lái đàn ngựa rời hướng bắc nam, chạy vòng hồ lớn để tập kết chúng tại khu lều Mông Cổ rồi huy động đàn chó và mọi người ra đối phó với đàn sói.
Đàn ngựa chạy theo sánh sáng đền pin, hai mã quan bám sát, luôn miệng gào thét và quất roi tới tấp. Chúng hình như đã có con đầu đàn: Một con ngựa bạch cao lớn tách ra, vươn cổ hí dài, tỏ ý tự nguyện đảm nhiệm vai trò của người hướng đạo. Batu và Xaxưleng vội rọi đèn về phía con ngựa bạch. Có ngựa đầu đàn, đàn ngựa tỏ ra phấn khởi, tinh thần bầy đàn lập tức đựoc khôi phục, thế trận truyền thống tự ngàn đời lập tức được tổ chức để đối phó với bầy sói. Con đàu đàn bỗng phát tiếng hí lệnh, đàn ngựa đang bị sói phá tan đội hình, lập tức co cụm về phía con đàu đàn, vai ken vai, bụng ken bụng đến mức gió thổi không lọt. Hàng trăm cặp vó đồng loạt nện mạnh xuống phía dưới. Lũ sói trở tay không kịp, mất lợi thế, đã có những con bị què chân, gãy xương sống, vỡ đầu chảy máu. Giờ thì tiếng rú tiếng kêu thảm thiết của sói át cả tiếng gầm gào của bạch mao phong. Batu nhẹ cả ngưòi. Anh thấy chí ít có bốn con sói bị chết hoặc bị thương. Anh nhớ nơi này, đợi khi gió tạnh trời quang, anh sẽ trở lại lột lấy da. Đàn ngựa sau khi làm cuộc đại sát giới, nhanh chóng chỉnh đốn đội hình, con yếu vòng trong, con khoẻ vòng ngoài, hình thành cụm phòng ngự với những cú đá hậu như trời giáng bởi những cặp vó đóng cá sắt.
Khoảng cách với hồ lớn không còn xa. Batu rất bằng lòng về đội hình chính qui của đàn ngựa vừa được tổ chức lại. Đó là đội hình có thể hành động theo chỉ huy, chỉ cần điều khiển được con đầu đàn là trong khoảng thời gian ngắn có thể lái đàn ngựa chạy về phía đông của hồ lớn. Nhưng Batu vẫn còn một mối lo: Đàn sói này không bình thường. Không nên đả thương những con sói khùng, vì càng bị đánh chúng càng dữ. Ai cũng biết sói thảo nguyên trả thù ghê gớm như thế nào. chắc chắn đàn sói nghe thấy tiếng kêu thảm thiết của những con sói bị thương ban nãy, đoạn đường sắp qua sẽ đầy nguy hiểm. Batu nhìn lướt đàn ngựa, nhiều con đã bị thương. Đàn ngựa này toàn ngựa tốt, ngựa chiến, vừa đánh nhau với sói, dù bị thưong sẽ vẫn chạy theo đàn, không chịu rớt lại để sói có dịp tấn công.
Nhưng đàn ngựa cũng có chỗ yếu chí mạng: Là ngựa thiến nên chúng thiếu tính dũng mãnh chủ động tấn công của con đực. Thảo nguyên Mông Cổ có hơn chục dòng ngựa lớn nhỏ, mỗi dòng có một con đầu đàn, vó bằng, bờm chấm đất, cao hơn những con khác một cái đầu, tướng mạo khôi ngô hùng vĩ. Đó là con đầu đàn, dìu dắt cả đàn và là sát thủ thực thụ. Gặp sói, dưới sự chỉ huy của con đầu đàn, đàn ngựa lập tức quây thành vòng tròn, ngựa cái và ngựa con bên trong, ngựa khoẻ bên ngoài. Con đầu đàn đứng riêng, tấn công trực diện kẻ thù. Nó lắc bờm, khịt mũi, hí vang, hai chân trước chồm lên, đứng bằng hai chân sau sừng sững như quả núi nhỏ trên đầu sói, rồi bổ cặp vó xuống đầu sói bằng cả sức nặng của cơ thể. Nếu sói bỏ chạy, ngựa đầu đàn đuổi theo, đầu cúi gằm, vừa cào vừa cắn. Những con đầu đàn to lớn còn biết ngoạm sói tung lên trời, quật xuống đất rồi giẫm chết. Trên thảo nguyên, sói dữ đến mấy cũng không phải là đối thủ của ngựa đầu đàn. Ngựa dầu đàn bảo vệ đàn ngựa không kể ngày đêm. Khi gặp sói đàn, gặp sấm sét, cháy đồng, ngựa đầu đàn tận tâm bảo vệ dòng họ, biết cách giảm thiểu thương vong, đưa bầy đàn đến nơi an toàn.
Lúc này Batu rất nhớ con ngựa đầu đàn của anh. Con ngựa bạch và đàn ngựa đều là ngựa thiến, khoẻ đấy, nhưng đã mất nam tính, chiến đấu không hăng. Batu nghĩ mà buồn. Mấy năm liền bộ đội chính qui không về tuyển ngựa chiến, mọi người đã quên khuấy sự tai hại của một đàn ngựa chiến mà không có con đầu đàn. Có người đã nghĩ tới, nhưng lại thấy không cần, vì chỉ vài hôm là đàn ngựa sẽ chuyển đi., mà đã chuyển đi thì chẳng còn chuyện gì liên quan tới mục trường. Tưởng không thể sinh chuyện, ai đè đó chính là điểm yếu cho sói lợi dụng. Batu càng nghĩ càng phục con sói chúa. Có thể nó phát hiện rất sớm đàn ngựa chiến không có con đầu đàn. Batu áp sát tận nơi mới vụt cho con đầu đàn một roi thật mạnh, bắt nó rẽ sang hướng đông, đồng thời xoay khẩu bán tự động ra trước ngực, mở chốt an toàn, nhưng nếu không thật cần thiết thì anh cũng không nổ súng. Đàn ngựa hãy còn là tân binh, nổ súng không những không doạ được sói, mà còn khiến ngựa vỡ đàn. Xaxưleng cũng làm mọi công việc chuẩn bị như Batu. Bạch mao phong ngày càng mạnh, hai người tay đã mỏi dừ, giơ không nổi chiếc thòng lọng dài thượt. Hồ lớn cũng ngày càng gần, bình thường đã có thể ngửi thấy mùi muối. Batu cáu tiết bèn lấy độc trị độc. Anh vụt con ngựa đầu đàn một roi thật mạnh, tiếp theo là tiếng huýt sáo gọi đàn đi uống nước. Con đầu đàn và đàn ngựa rất hiểu ý chủ, hướng nam chính là hồ lớn mà cứ hai ngày một lần chúng đến đó uống nước. Mùa xuân năm nay hạn liên tiếp, nước đã rút xuống giữa hồ, xung quanh là bãi lầy, chỉ còn đôi chỗ đất cứng vì là lối đi của gia súc nên tương đối an toàn, những nơi khác đều nguy hiểm. Từ đầu xuân đến giờ rất nhiều gia súc đã bị sa lầy mà chết. Đàn ngựa đi uống nước, dù là theo chân mã quan, chúng vẫn hết sức dè dặt. Ngay dù ban ngày, không một con ngựa nào dám chạy ào ra đầm lầy.
Tiếng huýt sáo lệnh của Batu quả nhiên linh nghiệm. Đàn ngựa vốn quen thuộc bãi chăn, nhận ra ngay mối nguy đang chờ đợi ở phía nam. Chúng hí vang, cả đàn chỉ dừng lại trong một thoáng rồi tất cả chuyển hướng, liều chết rẽ sang hướng đông nam, mặc cho bão tuyết tạt sườn với sức mạnh khủng khiếp. Phía nam là đầm lầy, phía bắc ngược gió, chỉ còn mỗi phía đông nam là con đường sống, Lũ ngựa mở to cặp mắt thất thần, cắm đầu chạy, thở hồng hộc, không hí lấy một tiếng. Đàn ngựa chạy đua với thần chết trong một tâm trạng kinh hoàng.
Đàn ngựa vừa đổi hướng, tình hình đã đổi khác. Khi chuyển sang hướng đông nam, đội hình ngựa bị hở sườn cho sói công kích. Không còn đội hình ken dày, đá hậu là môn võ sở trường không còn phát huy tác dụng. Gió tạt sườn làm chậm tốc độ - vũ khí chống lại sói của đàn ngựa. Nhưng gió tạt sườn lại giúp sói, như hổ mọc thêm cánh. Thông thường, tốc độ của sói dù xuôi gió hay ngược gió đều nhanh hơn tốc độ của ngựa. Thuận gió, sói chạy nhanh, nhưng ngựa cũng không chậm. Nhưng sói không dám nhảy lên lưng ngựa từ phía sau, vì gặp phải con ngựa tinh khôn tăng tốc đột ngột, sói sẽ rơi vào chân sau của ngựa, không chết cũng bị thương. Muốn đạt kết quả, sói chỉ có thể nhảy tạt ngang, nhưng nếu tạt ngang thì tốc độ của sói bị ảnh hưởng, vồ trúng cũng hoá trượt, giỏi lắm cũng chỉ cào rách da, tỉ lệ cắn chết không đáng kể. Lúc đàn ngựa đổi hướng, tốc độ chựng lại, đã tạo cho sói một cơ hội vàng, sói nhanh vồ ngựa chậm, sói không cần tạt ngang mà chỉ cần bổ nhào từ trên không xuống lưng ngựa, hàm răng rắn như thép bập một phát vào chỗ chí mạng rồi nhảy trái ra. Ngựa dùng cách lăn đất để rũ sói trên người, nếu là sói độc, một chọi một còn khả dĩ, nếu là sói đàn thi khi ngựa lăn đất, đàn sói bu lại xé tan xác.
Đàn ngựa hí thảm thiết, từng con bị thương một bên eo hoặc một bên ức, máu me vung vãi, thịt da tơi tả, cuộc tàn sát đẫm máu khiến đàn sói càng hung hăng lạ thường. Chúng không kịp ăn, mà chỉ điên cuồng cắn xé. Ngựa bị thương ngày càng nhiều, còn sói thì liên tục tấn công, đợt này tiếp đợt khác. Sói chúa và sói đầu đàn vượt lên trước, chồm lên mình ngựa cắn một miếng ngập răng rồi hai chân sau làm điểm tựa, hai chân truớc làm điểm tì, mình cong như cánh cung, dùng sức bật khủng khiếp bứt miếng thịt trên mình ngựa. Con sói nhả miếng thịt còn cả lông ra, lộn ba vòng, rồi nhảy lên, cắn tiếp. Đàn sói theo sau, tranh nhau bắt chước sói chúa và con sói đầu đàn, phát huy đến tận cùng bản năng săn mồi trong huyết quản.
Đàn ngựa thương vong nhiều, máu me vung vãi, tuyết lạnh lại phủ lên, xoá sạch dấu vết. Cảnh tàn khốc tái diễn trên thảo nguyên tàn khốc. Đàn sói ngốn ngấu biết bao sinh linh của thảo nguyên, đời này sang đời khác lưu lại dấu ấn bằng máu.
Dưới ánh đèn pin loang loáng, Batu và Xaxưleng thêm một lần mục kích cảnh tàn sát trên thảo nguyên, nhưng lần này thì lại càng không chịu đựng nổi, vì đây là số ngựa được tuyển mộ cho quân đội. Chúng là những con ngựa chiến nổi tiếng làm vẻ vang cho thảo nguyên Ơlôn, đã bao lần thoát hiểm từ miệng sói, những đứa con cưng được mã quan trong nhiếu năm ra công chăm chút. Giương mắt mà nhìn lũ sói cắn xé đàn ngựa, Batu và Xaxưleng khóc không ra tiếng, lửa giận bừng bừng nhưng phải cố nén để đủ tĩnh trí bảo về cho số còn lại. Batu mỗi lúc mỗi lo, bằng vào kinh nghiệm bản thân, anh thấy đàn sói này không bình thưòng, kẻ cầm đầu của chúng rất mưu mẹo, tính toán, thông thạo vùng Ơlôn. Đó là con sói trắng. Đàn sói này, những con sói đực thì căm thù vì bị cướp mất miếng ăn, những con sói cái thì điên dại vì mất con. Nhưng con sói chúa thì không điên. Nhìn đàn sói ép đàn ngựa chạy về hướng nam, có thể đoán sói chúa định giở trò gì? Nó định dồn đàn ngựa xuống đầm lấy! Đây là chiêu thức quen dùng của sói chúa trên thảo nguyên. Batu càng nghĩ càng hãi. Trước đây anh có lần chứng kiến sói chúa dồn dê vàng xuống đầm lầy, cũng từng thấy sói dồn bò, ngựa xuống đầm lầy, nhưng số lượng không nhiều. Còn như dồn cả một đàn ngựa thì anh chỉ được nghe người già kể lại. Chẳng lẽ đàn sói hôm nay cũng làm thế? Chẳng lẽ chúng ăn gỏi cả một đàn ngựa? Batu không dám nghĩ tiếp.
Batu huơ đèn gọi Xaxưleng. Hai người liều mạng chạy vòng từ tây sang đông, trực tiếp cản đàn sói, dùng thòng lọng, đèn pin để doạ sói. Sói vốn sợ thòng lọng, sợ ánh đèn chói mắt. Hai người hai ngựa tả xung hữu đột dưới ánh đèn, tạm thời bảo vệ được mạn sườn phía đông của đàn ngựa. Đàn ngựa từ trạng thái kinh hoảng, dần trấn tĩnh lại, nhanh nhẹn điều chỉnh bước chân, tranh thủ chạy về phía đông của đầm lầy. Chúng biết rằng, chỉ cần vòng qua đầm lầy từ phía đông, thuận gió chạy về khu lều nuôi cừu mới đẻ, nơi có rất nhiều căn lều, có nhiều người quen, có nhiều tiếng hò, nhiều ánh sáng chói mắt, lại có những người bạn thân - đàn chó săn. Đàn chó trông thấy sói là choảng liền, cùng với những chủ chó cứu đàn ngựa.
Nhưng sói là thần chiến tranh kiên trì tìm kiếm cơ hội và biết chờ đợi cơ hội trên thảo nguyên. Mỗi khi chộp được một cơ hội, sói quyết không buông, chưa vắt kiệt sức chưa bỏ cuộc. Đang nổi khùng mà có cơ hội như thế này, sói lập tức ăn sống nuốt tươi, không cho con ngựa nào chạy thoát. Đàn ngựa đã chạy đến bãi cỏ ven đầm, vó ngựa cày tuyết trên mặt và cả đất phèn phía dưới, mùi cay xộc lên mắt lên mũi người và ngựa, họ hiểu rằng, đang trên bờ vực thẳm. Xung quanh một màu đen kịt, không nhìn thấy nhưng vẫn cảm nhận được mùi vị của đầm lầy. Người và ngựa bất chấp mắt mũi cay xè tiếp tục chạy. Khi nào không thấy mùi cay bốc lên từ vó ngựa, có nghĩa là đã tới con dốc thoai thoải phía đông đầm lầy. Khi ấy đàn ngựa sẽ tự động chuyển hướng, men theo bờ phía đông, xuôi gió chạy về nam.
Người, ngựa, sói cùng chạy. Sói tạm ngừng tấn công, nhưng Batu vẫn căng thẳng tới mức bàn tay cầm súng ướt đẫm mồ hôi. Kinh nghiệm mười máy năm chăn ngựa đã mách anh, đàn sói sắp sửa phát động cuộc tổng công kích lần cuối, nếu không, sẽ chẳng còn dịp nào khác. Đàn sói quyết không bỏ lỡ một dịp trả thù. Chịu đựng hơi phèn đỏ mặt mũi, chúng chạy mò cùng ngựa một đoạn đường. Chỉ cần đàn ngựa chạy lên dốc là Batu nổ súng, vừa giục ngựa chay nhanh vào đưòng rẽ, vựa giết sói doạ sói, vừa báo động cho mọi người đến cứu. Batu cố kìm cho tay bớt run, nhằm chỗ sói đông nhất lẩy cò. Xaxưleng cũng làm như anh.
Batu chưa kịp trở tay, đàn ngựa bỗng hí vang, kinh hoảng tột độ. Con ngựa anh cưõi hình như bị vướng chân. Anh dụi mắt soi đèn lên phía trước. Dưới ánh đèn, mấy con sói gộc chụm vào nhau chạy tới trước ngựa anh. Chúng không sợ ngựa xéo để cản mũi anh. Batu ngoảnh lại nhìn, Xaxưleng cũng đang bị sói chặn hậu. Lũ sói bắt đầu tấn công con ngựa của Xaxưleng. Batu hươ đèn ra hiệu cho Xaxưleng chạy tới bên anh, nhưng con ngựa của cậu ta không nhích nổi một bước. Những con sói luân phiên xốc tới, con ngựa của Xaxưleng mình đầy những vết cào cấu, áo khoác của cậu cũng bị đóp mất vạt dưới. Xaxưleng vứt bỏ thòng lọng giờ đã trở thành vô dụng, dùng đèn pin làm vũ khí vụt ngang vụt dọc, đèn bẹp gí, đầu sói toé khói vẫn không chặn được cjiến thuật luân xa của bầy sói. Một con ngoạm đứt miếng thịt mông con ngựa Xaxưleng đang cưỡi. Con ngựa bất chấp mối hiểm nguy sẽ gây ra cho chủ, cố hí lên một tiếng thảm thiết rồi cắn chặt hàm thiết, chạy tháo thân về hướng tây nam. Xaxưleng không cản nổi con ngựa chưa lâm trận đã bỏ chạy. Lũ sói thấy đã tống khứ được một đối tượng kỳ đà cản mũi, liền quay lại tấn công đàn ngựa.
Lúc này chỉ còn lại Batu và đàn ngựa. Nhóm sói gộc lập tức nhằm vào anh và con ngựa ô của anh. Con ngựa thở phì phì, mắt mở to, giẫm đạp, đá hậu... liều chết chống cự. Batu lâm vào tình trạng vô cùng nguy hiểm. Anh biết có chạy cũng không thoát, chỉ còn cách chống lại. Quẳng cây thòng lọng, anh nhổm người trên cọc yên, rút cây gậy thép giắt dưới đệm, lông dây da ở đầu gậy vào cổ tay, thay hình đổi dạng từ người chăn ngựa thành dũng sĩ Mông Cổ, quyết một trận sống mái với sói. Cây gậy thép dài như thanh đao, là vật báu gia truyền của tổ tiên, một vũ khí dùng để đối phó với sói, do ông Pilich truyền lại cho anh. Thân gậy và chỗ tay cầm to bằng nhau, phần chót nẹp toàn sợi thép dẻo, các kẽ có nhiều vết ố. Đó là máu sói. Lũ sói luân phiên vồ ngựa từ hai bên, do đó anh ở vị trí dễ đánh trúng nhất, vấn đề quan trọng là phải can đảm và độ chính xác đến đâu.
Batu ý đã quyết, anh bặm môi, khẽ chuyển dịch ánh đèn sang bên phải, rồi giơ cây gậy cao quá đầu, nhằm đúng con sói lúc nó đang chững lại, anh giáng một gậy vào răng, bộ phận rắn nhất nhưng cũng yếu nhất, chí mạng nhất của con sói. Con sói nhe nanh múa vuốt nhảy lên đón trúng cây gậy từ trên quật xuống, gãy liền bốn chiếc răng cửa. Nó đã bị Batu giáng cho một đòn choáng váng và về tổn thất thì không gì có thể bù đắp.
Con sói ngã bổ chửng, há cái miệng đầy máu mà gào thảm thiết, giá như nó chết còn đỡ khổ hơn. Trên thảo nguyên mông cổ, hàm răng chính là sinh mạng của sói. Vũ khí lợi hại nhất của sói là bốn chiếc răng cửa của hàm trên hàm dưới, không còn răng thì tất cả những phẩm chất ưu việt và không ưu việt như dũng cảm, kiên cường, tinh khôn, ranh mãnh, tàn bạo, tham lam, tham vọng, dã tâm, chí lớn, sự kiên nhẫn, tính linh hoạt, tính cảnh giác, sức mạnh, dẻo dai đều bằng số không. Trong thế giới của sói, nếu chột một mắt, què một chân, mất hai tai vẫn có thể tồn tại. Nhưng nếu khuyết răng thì về cơ bản đã bị tước đoạt quyền sinh sát - cái quyền đưa nó lên vị trí chúa tể trên thảo nguyên, đẩy sói vào tình cảnh coi miếng ăn bằng trời chứ không phải quyền sinh sát bằng trời. Sói không còn răng coi như sói không có trời, không còn cái thú lớn nhất của loài sói là săn bắt gia súc lớn, không còn đủ sức phòng vệ cuộc tấn công của chó săn và tranh cướp của đồng loại, không còn khả năng xâu xé, ngoạm những miếng to, uống từng ngụm lớn máu tươi con mồi; không còn khả năng bổ sung kịp thời năng lượng cho mình trên thảo nguyên khốc liệt. Sói sẽ trắng tay, mất sạch nét kiêu hùng và chí lớn, mất sạch địa vị trong bầy sói và sự kính nể của đồng loại, nó chỉ có thể sống một cuộc sống tạm bợ, đắp đổi qua ngày. Cuộc sống có miệng mà không có ăn, giương mắt nhìn đồng loại tàn sát và yến ẩm, thu vào mắt tất cả những gì mà nó không muốn nhìn. Sau đó nó chỉ còn một con đường: cái chết. Chết gầy, chết cóng, chết vì tức giận, chết ấm ức.
Nhìn đàn ngựa bị hạ sát hết con này đến con khác, Batu những muốn dùng phương thức cực độc, cho chúng nếm mùi tàn nhẫn của con người thảo nguyên. Anh nhân lúc chúng chưa kịp có phản ứng, lại nhắm một con quật mạnh cây gậy, nhưng lần này không trúng răng mà đập trúng mũi con sói. Lá mía nát bét, con sói ngã lăn, co rúm như một quả cầu bông. Tuyệt kỹ giết sói của Batu, tiếng rú của hai con sói lớn, khiến lũ sói bâu quanh anh sững lại vì kinh hãi. Chúng không dám chồm lên, nhưng vẫn dám dàn hàng ngang trước đầu ngựa, ngăn anh tiếp cận đàn ngựa.
Batu đánh lui đợt tấn công của lũ sói nhằm vào anh. Nhìn ra anh thấy những con sói lớn đều tập trung phía đông đàn ngựa. Chúng cảm thấy thì giờ gấp gáp, đồng thời cũng thấy đồng bọn phía sau đang núng thế. Cả đàn cất tiếng hú như tiếng gió lướt trên dây điện, đậm mùi chết chóc và kích động. Dưới sự chỉ huy của sói chúa, đàn sói điên khùng đánh canh bạc dốc túi. Chúng sử dụng cách đánh tàn bạo nhất, đẫm máu nhất, không bút mực nào có thể diễn tả là tấn công tự sát, đồng loạt công kích đàn ngựa. Từng con từng con, nhất là những sói cái mất con chồm lên nhằm thóp bụng ngựa là chỗ da mỏng nhất mà đớp, bất kể cái giá phải trả cho nửa thân sau treo lủng lẳng dưới mình ngựa, dùng sức nặng nửa dưới cơ thể xé toạc mình ngựa. Đó là một tư thế nguy hiểm cho cả sói lẫn ngựa. Với sói, treo dưới bụng ngựa cầm bằng treo cổ dưới cây thập giá, ngựa chạy, nửa mình sói rơi vào nửa thân sau của ngựa, con ngựa muốn thoát thân cứ thế mà đá hậu như điên, trúng một cú là tan xương nát thịt. Chỉ những con sói lớn, răng sắc mới không cần mượn sức. Răng sắc, cơ thể nặng, chúng cắn rách bụng ngựa rồi nhảy xuống để bảo toàn mạng sống. Tuyệt chiêu này rất nguy hiểm cho ngựa, không rũ được sói thì ngựa rớt đàn vì đeo nặng rồi chết vì bị sói bổ vây; nếu đá trúng con sói thì hoá ra giúp sói giật mạnh vết cắn, rách bụng tự dẫn đến tử vong.
Đàn ngựa bị giết và đàn sói tự sát đều trong trạng thái tuyệt vọng, chúng run như giẽ.
Những con sói bị thương hoặc bị đá văng ra từ chân ngựa, hầu hết là sói cái. Chúng nhẹ hơn sói đực. Nếu chỉ trông vào sức nặng cơ thể thì khó mà xé rách bụng ngựa, chỉ còn cách liều mạng mượn sức ngựa. Những con sói cái đúng là liều mạng chỉ nghĩ đến trả thù, coi cái chết như không, can đảm đến thế là cùng. Chúng sẵn sàng tan xương nát thịt, chết cùng đàn ngựa.
Một con sói đói bị đá văng khỏi mình ngựa, bụng rách toác, gào thảm thiết. Vậy mà nó còn nhổm dậy lết bằng hai chân trước tới bên con ngựa ngã xuống nhưng chưa chết, ngoạm luôn một miếng. Nó không bỏ qua cơ hội cuối cùng. Chỉ cần còn miệng, còn răng thì dù không còn cái bụng con sói vẫn ăn, miếng thịt ngựa trôi qua họng rồi truồi ra ngoài, con sói không còn bụng làm cữ là con sói tham ăn nhất, ăn nhiều nhất, và chắc chắn nó là con sói ăn nhiều thịt ngựa nhất trong một bữa ăn tàn bạo cuối cùng của cuộc đời. Những con ngựa bị sói xé rách bụng vốn no căng, dạ dày chứa toàn cỏ non năm nay và cỏ thu năm ngoái, thuỷ phần đầy đủ nên rất nặng, một khi bụng rách, dạ dày và ruột lập tức văng ra ngoài, lòng thòng trên tuyết. Hai chân sau của ngựa vẫn chạy theo quán tính giẫm rách dạ dày, cuốn ruột vào chân, chỉ nháy mắt dạ dày vỡ toạc, thức ăn tung toé, ruột gan nát bét. Vậy mà con ngựa sợ đến mất trí vẫn lồng lên, cuốn vào chân sau tất cả nội tạng: dạ dày và ruột, cuối cùng đến tim phổi, khí quản đều bị lôi hết ra. Con ngựa chết vì chính nó giẫm lên gan ruột của nó, có thể tự giẫm phải mật, chết vì vỡ mật; có thể tự dẫm phải tim, chết vì vỡ tim; có thể tự dẫm bẹp phổi, chết vì nghẹt thở. Tự sát của sói vô cùng đau đớn và tàn khốc, do vậy sói không cho đối thủ được chết thanh thản, bắt đối thủ nếm trải nỗi kinh hoàng của tự sát Ngựa bị sói giết, nhưng một nửa cái chết của ngựa là tự sát. Cái chết của ngựa càng đau đớn càng oan khuất càng thê thảm.
Cuộc tấn công tự sát cuối cùng của đàn sói, đập tan sự chống trả có tổ chức của đàn ngựa, thảo nguyên trở thành chiến trường, những con ngựa tự dẫm lên gan ruột đang giẫy chết, khoang bụng khoang ngực vẫn nóng hôi hổi, chỉ một thoáng đã lạnh ngắt vì tuyết lọt vào. Những con khác lần lượt ngã xuống, không ngừng co giật, máu phun có vòi, nhuốm đỏ những bông tuyết bay qua. Hàng triệu viên tuyết hòn nhuốm đỏ đuổi theo những con ngựa kinh hoàng thất thố mà bỏ chạy. Bão tuyết càng mạnh lên, tiếp tục rượt theo đàn ngựa đến hơi thở cuối cùng.
Batu đứng như trời trồng trước cảnh báo thù tự sát của bầy sói, chân tay run bắn, mồ hôi trên người cũng đã đóng băng. Anh biết đại sự đã hỏng, không thể cứu vãn, nhưng anh vẫn muốn cố giữ lại vài con đầu đàn, bèn gò cương cho ngựa lấy đà rồi thúc ngựa bằng gót ủng, nhả cưong cho con ngựa ô vọt qua đầu lũ sói chặn đường, lướt tới con ngựa đầu đàn. Nhưng đàn ngựa đã bị sói quần cho tơi tả, binh bại như núi lở, toàn bộ số ngựa còn lại chạy xuôi gió tháo thân, nhanh như tên bắn, quên phắt phía nam là đầm lầy.
Con dốc xuôi về phía đầm lầy, thành ra đàn ngựa tăng tốc tự nhiên, bạch mao phong càng mạnh, đẩy sau lưng với sức mạnh khủng khiếp, đàn ngựa như vừa bay vừa chạy, ào ào núi lở đá lăn, lao tuột xuống đầm lầy. Tức thì băng mỏng vỡ vụn, bùn lầy tung toé, đàn ngựa đã sa xuống đầm. Chúng tuyệt vọng hí vang, giãy giụa điên cuồng mong thoát hiểm. Ngựa khiếp đảm trước hành động phục thù mang tính khủng bố của bầy sói, do dự một lát, rồi ra sức trườn vào nơi sâu hơn, thà chết đuối còn hơn rơi vào miệng sói, không cho kẻ thù truyền kiếp vớ bở. Những con ngựa đã bị con người diệt mất nam tính này khi cận kề cái chết đã vùng lên phản kháng lần cuối, lấy tự sát tập thể đối phó với tấn công tự sát của bầy sói. Chúng là những sinh mệnh mạnh mẽ nhất trên thảo nguyên.
Nhưng thảo nguyên tàn nhẫn coi khinh và không hề thương xót kẻ yếu. Khí ôn về đêm đã mau chóng kết thành một lớp băng mỏng trên mặt đầm, ven đầm tuy đông cứng, nhưng bên trong đầm vẫn lút một phần chiều cao của ngựa. Khi đàn ngựa lao xuống đã đụng lớp bùn đặc quánh so với lúc thường, bão tuyết và giá lạnh càng làm cho bùn đặc như keo níu chân đàn ngựa. Đàn ngựa ra sức trườn, miết, gồng mình lên mà bò, nhưng sau mỗi cử động, gió lại lùa tuyết vào khe hở giữa thân ngựa và đất bùn nhiều hơn, cuối cùng đàn ngựa kiệt sức, không cử động gì nữa. Con ngựa đầu tiên xông vào vẫn hở đầu, hở cổ, hở lưng, không lún sâu thêm. Những con phía sau thì mới lút bốn chân, mình vẫn trên mặt bùn. Lúc này đàn ngựa y hệt những tử tù trên pháp trường, băng tuyết trên mình như trói kiểu ngũ hoa, muốn chết mà không chết cho, hí thảm thiết, hơi phả ra như sương bám trên mặt lông. Đàn ngựa hiểu giờ đây không ai cứu nổi chúng, không ai cản được cuộc tàn sát tập thể đối với chúng.
Batu điều khiển con ngựa ô thận trọng tiến vào ven đầm. Chân vừa chạm bùn, con ngựa khịt khịt mũi, cúi thấp nhìn mặt đầm băng tuyết, không dám bước tiếp. Batu rọi đèn vào bên trong, trong tic tắc tuyết ngừng rơi, anh nhìn thấy bóng dáng đàn ngựa. Vài con cố lúc lắc cái đầu kêu cứu về phía chủ. Batu thúc ngựa tiến lên, con ngựa dụt dè bước lên năm sáu bước rồi hoảng hốt nhảy giật lùi cho đến khi gặp đất cứng mới dừng lại. Batu vụt con ngựa một roi vào mông, nó vẫn ỳ ra không chịu tiến. Anh định bỏ ngựa, tiếp cận đàn ngựa rồi bảo vệ chúng bằng súng. Nhưng nếu không cưỡi ngựa mà gặp sói thì mất lợi thế từ trên đánh xuống, đàn sói sẽ không sợ anh, cả người lẫn ngựa sẽ bị xé xác. Với lại, anh chỉ có mười viên đạn, bản lĩnh bằng trời thì cũng chỉ mỗi phát một con, không thể bắn chết hết. Mà dù anh có đuổi được đàn sói đi, thì chỉ qua nửa đêm bạch mao phong càng lạnh, sẽ đóng băng toàn bộ đàn ngựa dưới đầm lầy. Còn nếu như anh chạy về đại đội bộ cầu cứu thì đang lúc bão to như thế này, nhà nhà đang dốc sức bảo vệ đàn cừu, đại đội không thể điều lao động và xe đi cứu. Batu băng bám trên mặt, anh ngoảnh về phía đông, khấn: Lạy trời, lạy ông trời trường sinh bât tử! Hãy cho con trí tuệ, hãy cho con sức khoẻ như thần, hãy giúp con cứu lấy đàn sói! Nhưng ông Trời phồng mang mà thổi cho bạch mao phong át đi lời thỉnh cầu của anh.
Batu dùng bao tay bằng da cừu non lau nước mắt, lồng dây gậy vào cổ tay, sau đó anh gỡ quai, cầm súng trong tay cùng đèn pin, đứng đợi đàn sói. Lúc này, trong đầu anh chỉ một ý nghĩ: phải giết thêm mấy con nữa!
Sau đó một lúc Batu rét đến nỗi không thể ngồi vững trên yên. Bất chợt đàn sói lướt bên anh mà xuống đầm như một làn khói đen, chúng dừng lại ở rìa phía đông, làm tung lên một đám tuyết trắng. Một con sói nhỏ dáng thanh mảnh tách ra, thận trọng bò về phía đàn ngựa, thăm dò độ cứng của đất dưới chân. Batu thấy con sói nhỏ, không bắn. Con sói bò một quãng ngắn rồi chạy gằn về phía đàn ngựa, nó chưa đến nơi thì một cơn lốc hình thành từ mép đầm di chuyển về phía nó, đất trời nhập làm một, trắng xoá, cảnh tượng như bộ tộc bán khai tóc tai bù xù nhảy múa quanh đống lửa, người và gia súc bị làm vật hiến tế.
Batu không mở được mắt vì tuyết hòn. Anh cảm thấy rất lạnh, run cầm cập. Con ngựa ô khứu giác cực nhậy của anh đã bị nhiễm lạnh, run lẩy bẩy, cất tiếng hí đứt quãng. Đêm đen nặng nề, tuyết đầy trời, lại một lần nữa xoá sạch dáu vết cuộc thảm sát trên thảo nguyên.
Batu lạnh cứng người, anh lóng ngóng tắt đèn pin để bản thân anh chìm hẳn trong bóng tối, rối chĩa súng rất thấp về phía đầm lầy, nhưng sau đó đột nhiên anh nâng đầu nòng cao hơn nửa mét, lẩy ba phát: đoàng, đoàng, đoàng!
Chương cuối - Khai quật bằng lý tính
(Toạ đàm và đối thoại về tôtem sói)
Qua đường biên phòng liền trông thấy dãy Đen ẩn hiện xa xa, Dương Khắc liền cho xe chạy chậm theo con đường đất trên thảo nguyên.
Trần Trận thở dài, nói: Sự tồn tại của sói là tiêu chí tồn tại về sinh thái trên thảo nguyên. Không còn sói, thảo nguyên cũng không còn hồn. Hiện nay cuộc sống trên thảo nguyên đã biến chất, mình rât nhớ màu xanh ngọc của đồng cỏ nguyên thuỷ. Là con người hiện đại, trên đất Hán trung nguyên tối kị muốn trở lại như cũ, vì như vậy là trở lại nông canh, trở lại phong kiến chuyên chế và "nồi cơm to" (ăn tập thể). Nhưng đối với thảo nguyên, mong muốn trở lại như cũ là tình cảm hiện đại nhất của con người hiện đại.
Dương Khắc lấy ngón tay day day huyệt thái dương, nói: Mình cũng hoài cổ, về tới thảo nguyên, trong đầu mình toàn là hình ảnh du mục nguyên thuỷ. Những chuyện hai ba mươi năm về trước mà tưởng như mới xảy ra ngày hôm qua.
Dương Khắc lại nói: Sau khi về thành phố, ai làm việc người ấy, nhưng cậu nên giới thiệu cho mình biết kết quả nghiên cứu mà cậu khổ công trong bao nhiêu năm.
Trần Trận nói: Những năm gần đây, mình có cách tiếp cận và lập trường hoàn toàn mới để nhận thức lại văn hoá nông canh và quốc dân tính của dân tộc Hoa Hạ, như vậy có thể làm rõ nguồn gốc của "con bệnh Trung Quốc" thuộc phạm trù "bệnh cừu", "bệnh gia súc".
Dương Khắc nói: Chúng mình vừa qua một cuộc trải nghiệm, tinh thần du mục thảo nguyên vẫn còn, nên dùng nó để phân tích xem sao.
Trần Trận nhập cuộc ngay lập tức, anh giằn giọng, nói: Căn bệnh của Trung Quốc là ở nông canh và tính cách nông canh. Trước kia, trong giới trí thức đã có người đặt vấn đề như thế, nhưng phê phán không sâu và không triệt để, lại vấp phải sự chống đối và phê phán ngược quyết liệt. Mình cho rằng, cuộc đấu tranh tư tưởng liên quan đến vận mệnh Trung Quốc này sở dĩ kéo dài suốt một thế kỷ không kết thúc. chính là vì chưa tìm ra loại vũ khí phê phán có hiệu lực. Đối với ý thức nông canh sâu đậm và có truyền thống của Trung Quốc, phê phán linh tinh không tác dụng, mà phải phê phán và thanh toán trên bình diện lịch sử, phân tích có hệ thống, mà quan trọng nhất là phải sử dụng vũ khí tinh thần của du mục là loại vũ khí có lịch sử lâu đời hơn, sức sống mạnh mẽ hơn, sức chiến đấu kiên cường hơn nông canh.
Mình nói tinh thần du mục ở đây là tinh thần đại du mục, không chỉ khoanh lại trong tinh thần du mục thảo nguyên, trong tinh thần "du mục" trên biển, mà còn bao gồm "du mục" trong vũ trụ mà vẫn mang dáng vẻ tiến nhanh tiến mạnh của thế giới hiện đại. Trong lịch sử, tinh thần đại du mục không những xoá bỏ chế độ nô lệ dã man của La Mã và chế độ phong kiến chuyên chế đen tối trung thế kỷ, phát triển thị trường và "đồng cỏ" rộng lớn ở hải ngoại, mà còn đang hăng hái tấn công vũ trụ, nhằm phát triển "đồng cỏ vũ trụ" càng rộng lớn hơn, giành không gian sinh tồn thoáng đãng hơn cho nhân loại. Tinh thần du mục này lấy tính cách mạnh mẽ của sói làm nền tảng. Chuyện"Sói bay" trên thảo nguyên chẳng qua là muốn bay lên trời, bay vào vũ trụ đó thôi.
Dương Khắc khen: Mở đầu khá đấy, trúng phóc điều mình thích thú nhất.
Trần Trận lôi trong cặp ra một kẹp tài liệu đánh máy vi tính, hắng giọng, nói: Báo cáo của mình hơi dài, mình không đem theo bản in mà chỉ đem theo đĩa mềm. Lần này cùng cậu về thảo nguyên, minh muốn trình bày để cậu góp ý. Hôm nay chỉ trình bày vắn tắt để cậu bổ sung.
Dương Khắc nói: Được.
Trần Trận nói: Mình thấy khiếm khuyết chí mạng của văn minh nông canh Hoa Hạ là ở chỗ trong nền văn minh nông canh không có cạnh tranh sinh tồn khốc liệt sâu rộng hơn so với đấu tranh giai cấp.
Dương Khắc gật đầu, nói: Nhưng văn minh du mục thì ngược lại, sự cạnh tranh sinh tồn trong cuộc sống du mục rất tàn khốc và rất phổ biến. Xã hội nông canh làm gì có chuyện không ngừng cạnh tranh sinh tồn. Thầy nghiêm thì trò giỏi. Cạnh tranh quyết liệt sinh ra những đàn sói, những chiến mã, những dân tộc mạnh mẽ. So sánh hai hoàn cảnh sinh tồn là có thể nhận ra hai tính cách khác biệt. Quả là có sự khác biệt giữa sói và cừu. Thảo nào dân tộc thảo nguyên thường ví mình như sói, ví dân tộc nông canh như cừu. Những năm đó Lanmutrắc không gọi mình là Dương Khắc, mà gọi kèm theo tên âm "e", coi mình như cừu mới sinh, quật mình liên tiếp năm sáu cú, mấy cô gái Mông xinh đẹp nhìn anh ta cười tán thưởng. Lanmutrắc còn chỉ cô Xazânxĩxicơ, bảo mình, "Làm sao dám gả cô gái xinh nhất vùng Ơlôn cho con cứu non như cậu, cô ta nổi cơn chén béng cậu thì làm thế nào? Mọi người cười ồ, mình cũng cười. Cười nhưng nước mật đắng lên họng. Cuộc rượu hôm vừa rồi anh ta có nhắc tới chuyện đó.
Trần Trận cười buồn: Hồi áy chúng mình chẳng làm nên trò trống gì, lên thảo nguyên đã mấy năm mà vẫn không cắt được cái đuôi "cừu". Nhưng còn triệu triệu người Hán thì sao? Khi mới lên thảo nguyên, câu nói xúc phạm mình nhất là, mục dân gọi ngươi Mông Cổ là sói, gọi người Hán là cừu. Nó giáng một đòn khá mạnh vào tư tưởng "đại Hán" của mình. Chính vì bị cú đả kích về tinh thần đó, mình quyết tâm nghiên cứu sói và cừu, nghiên cứu tinh thần và tính cách hai dân tộc...
Ô tô chạy qua nơi ông già Pilich chỉ huy đánh vây xưa kia. Dương Khắc ngậm ngùi, nói: Trận đánh năm xưa vẫn như đang bày ra trước mắt. Chúng mình tận mắt chứng kiến kỵ binh thảo nguyên anh dũng thiện chiến như thế nào. Đó mới chỉ là một trận bủa vây thông thường. Bọn mình hồi học trung học cũng tham gia một cuộc đi săn của nông dân, chẳng có gì đáng học.
Trần Trận hỏi: Cậu đã suy nghĩ vấn đề này chưa? Vì sao thời kỳ Chu Tần Hán Đưòng dân tộc Hoa Hạ từng đánh cho Khuyển Nhung, Sơn Nhung, Hung Nô, Đột quyết không còn mảnh giáp? Tới Hán Đường vẫn còn mấy trăm trận ác chiến, tiêu diệt hoặc đánh đuổi Bắc Hung Nô và Tây Đột Quyết hùng mạnh. Đây là thời kỳ huy hoàng nhất của Trung Quốc cổ đại, về mặt văn hoá cũng phát triển rực rỡ. Vì sao thời kỳ ấy dân tộc Hoa Hạ lợi hại như thế, tính cách dân tộc kiên cường dũng mãnh như thế?
Dương Khắc trả lời không cần nghĩ: Mình nghĩ thời kỳ đó dân tộc Hoa Hạ đang trong giâi đoạn đi lên, giai đoạn đi lên thường tràn đầy sức mạnh.
Trân Trận nói: Mình thì cho rằng, khi ấy trong huyết quản dân tộc Hoa Hạ còn đậm "máu sói". Nhân loại thoát thai từ dã thú. Thời kỳ viễn cổ, thú tính sói tính trong con người rất mạnh. Đây là điều kiện cơ bản để con người tồn tại được trong cuộc cạnh tranh sinh tồn khốc liệt hàng mấy chục vạn năm. Không có tính cách dũng mãnh đó, nhân loại đã bị hoàn cảnh thiên nhiên ác liệt và bầy thú đào thải từ lâu. Nhưng thú tính sói tính cũng gây nguy hại rất lớn cho sự phát triển của nền văn minh nhân loại. Nếu như người trong một nước đều như sói xâu xé lẫn nhau thì tất cả sẽ chết, sẽ tuyệt diệt, Nền văn minh của nhân loại được phát triển trên cơ sở chế ngự và điều khiển thú tính và sói tinh tự thân của nhân loại. Đây là một trong những ván đề cơ bản mà các bậc thánh hiền, các nhà tư tưởng, các nhà chính trị xưa nay của Trung Quốc và nước ngoài đã suy nghĩ. Nhưng nếu tiêu diệt hoàn toàn thú tính sói tính trong nhân tính của con người, thậm chí thay vào đó bằng "cừu tính", "gia súc tính", như vậy loài người mất đi điều kiện cơ bản để sinh tồn, bị đào thải trong cuộc cạnh tranh tàn khốc, mà văn minh nhân loại cũng không còn gì để bàn.
Do vậy, nếu không có nhân loại nửa dã man thì văn minh nhân loại không được duy trì và tiến những bước dài. Con đường phát triển của các dân tộc phương tây là duy trì nửa dã man trong nhân tính, còn dân tộc Hoa Hạ thì cố sức đi theo con đường phát triển văn minh nông canh "phi dã man" trong nhân tính. Nói một cách hình tượng, phương tây đi theo con đưòng "văn minh sói", còn Hoa Hạ đi con đường "văn minh cừu", người ta phát triển thuận lợi từ "dã man sói cổ đại" lên "văn minh sói cổ đại", lên "văn minh sói hiện đại", giờ đây đang diễn tiến theo hướng "người văn minh" viết hoa, trong tương lai. Mà chúng ta thì không biết còn bao nhiêu giai đoạn nữa, hơn nữa lại còn trống đánh xuôi kèn thổi ngược.
Xưa kia các thánh hiền lương thiện chất phác của Hoa Hạ, bị hạn chế bởi các giai đoạn lịch sử, ra sức khắc kỷ phục lễ, thực hiện lý tưởng đại đồng, coi của cải trong thiên hạ là tài sản chung, cho rằng chỉ cần khắc phục sói tính trong nhân tính là lý tưởng trên được thực hiện. Vì vậy, về giáo hoá tinh cách, Nho giáo hàng ngàn năm dạy người ta: "Làm người thì phải dịu dàng đôn hậu". Thé nhưng trên đời này, tính cách bò cừu là "dịu dàng nhân hậu" nhất. Lời dạy của Nho gia rõ ràng mang nặng tính chất nông canh tôn sùng cừu, ghét bỏ sói. Đến lý học đời Tống lại càng cực đoan, ra sức cổ suý "tồn thiên lý, diệt nhân dục", ham muốn bình thường nhất cũng diệt, còn như diệt thú tính sói tính trong nhân tính thì khỏi cần phải nói. Trên cơ sở tồn tại dân tộc nông canh, trải qua hàng ngàn năm giáo hoá rèn cặp, tầng lớp trí thức Hoa Hạ đều là bậc quân tử khiêm nhường ôn hoà nhân hậu, hạ tầng Hoa Hạ nhan nhản nhứng lương dân thuận dân hèn nhát yếu đuối bị người khinh rẻ. Tính cừu trở thành quốc dân tính của người Hoa Hạ. Con đường này quá cực đoan, sau đó, đàn cừu đôn hậu gặp đàn sói thảo nguyên hung tợn, kết quả bộ "Nhị thập tứ sử" đã chép: Máu chảy thành sông! Rồi sau, thế giới trở nên nhỏ bé, "văn minh cừu "của Hoa Hạ đôn hậu gặp "văn minh sói" phương tây hung dữ, hai nền văn minh đụng nhau, đổ kểnh tất nhiên là văn minh cừu. Vì vậy con đường cổ kính của Hoa Hạ tất nhiên bị con đường phương tây đè bẹp, cuối cùng trở thành thực dân địa và nửa thực dân địa của phương tây.
Dương Khắc hào hứng bắt chuyện, hỏi: Mình quả thật không hiểu làm sao Trung Quốc cổ đại lại chọn con đường bế tắc như thế? Các thời kỳ Chu Tần Hán Đường chẳng đã rất oanh liệt đó sao?
Trần Trận bắt đầu phân tích rành rẽ: Con đường thuở ban sơ là do hoàn cảnh khách quan quyết định. Tộc Hoa Hạ sinh sống trên mảnh đất cực kỳ thích hợp cho phát triển nông nghiệp. Đó là "lưu vực lưỡng hà", tức lưu vực Hoàng hà Trường giang. Lưu vực này rộng lớn hơn nhiều so với lưu vực sông Nil của Ai cập, lưu vực lưỡng hà Babilon, lưu vực sông Hằng ấn Độ. Do đó tộc Hoa Hạ phải chấp nhận sự sắp đặt của cuộc sống nông canh lớn nhất thế giới. Đây chính là lý do tồn tại của tộc Hoa Hạ. Tính cách dân tộc cũng bị cải tạo, bị quyết định bởi tính chất nông canh.
Các dân tộc phương tây dân số ít, đất chăn nuôi rộng, kề biển, nông nghiệp không chiếm ưu thế tuyệt đối. Các nghề săn bắn, chăn nuôi, nông nghiệp, thương nghiệp, mậu dịch, hàng hải... cùng nhau phát triển; Sói thảo nguyên, sói rừng, sói núi cao, sói đồng bằng, sói biển tự do sinh sống. Phong cách du mục và tính cách hung hãn của du mục phương tây được lưu truyền lại dai dẳng, hơn nữa được tăng cường liên tục qua các trận thương chiến, thuỷ chiến và chiến tranh mậu dịch, sau này bước vào thời kỳ cạnh tranh sinh tồn tàn khốc, sói tính không ngừng phát huy, vì vậy tính cách hăng hái cầu tiến của các dân tộc phương tây chưa bao giờ bị yếu đi. Sự tồn tại dân tộc quyết định tính cách dân tộc, còn tính cách dân tộc quyết định số phận dân tộc. Tính cách này là nguyên nhân chủ quan khiến các dân tộc phương tây vươn lên đứng đầu thế giới.
Thế giới từ xưa tới nay đại để có sáu nghề và sáu loại dân tộc: Săn bắn, du mục, nông canh, thương nghiệp, hàng hải, công nghiệp, trong đó nông canh rất đặc thù, vì rằng chỉ nông canh mới tự cấp tự túc, tự phong bế, hoa tự thụ phấn, tự thoái hoá, về cơ bản không cần cạnh tranh, không cần trao đổi hoặc tạp giao. Trừ nông canh, năm nghề khác không "hoà bình" chút nào, không thể tự cấp tự túc, buộc phải cạnh tranh, trao đổi, giết chóc mới mong tồn tại phát triển. Năm nghề này đều là những nghề cạnh tranh quyết liệt, đầy bất trắc, một mất một còn. Nếu năm dân tộc này không có tính cách ngoan cường như sói thì không thể sinh tồn. Do đó từ sáu nghề lớn này nảy sinh sáu loại dân tộc, trừ dân tộc nông canh, năm dân tộc khác là săn bắn, du mục, kinh thương, hàng hải và công nghiệp đều là những dân tộc dũng mãnh có chí tiến thủ nhất trên thế giới.
Hơn nữa, giữa năm nghề và năm loại dân tộc có quan hệ kế thừa, từ săn bân du mục phát triển lên kinh thương hàng hải, từ kinh thương hàng hải phát triển lên công nghiệp cận hiện đại. Năm nghề đòi hỏi dũng mãnh chuẩn bị cho dân tộc dũng mãnh ra đời, và chỉ có dân tộc dũng mãnh mới làm những nghề này. Những nghề buộc phải làm từ cấp thấp đến cấp cao chính là dòng chính của lịch sử thế giới. Thế giới phương tây về cơ bản phát triển từ thời đại săn bắn du mục lên kinh thương hàng hải, lên công nghiệp hiện đại.
Lịch sử các dân tộc nông canh cổ đại là dòng phụ của lịch sử theo ý muốn chủ quan, tự cung tự cấp. Họ đã sáng tạo văn minh cổ đại rực rỡ. Nhưng dân tộc du mục và hậu duệ đã tràn vào lưu vực của dân tộc nông canh, cướp đi những phát minh sáng tạo của họ, diệt nước họ, giết hoặc bắt dân tộc họ làm nô lệ, và tiếp tục giương buồm tiến xa hơn trong sóng gió kinh hoàng, sáng tạo một nền văn minh tiên tiến hơn. Dân tộc Hoa Hạ vừa cất bước là đã bị lún trong ruộng đất, sa ngay vào dòng chảy phụ của phát triển lịch sử, càng đi càng yếu, tất nhiên về tính cách dân tộc cũng bị thiệt thòi.
Tính cách dân tộc của tổ tiên Hoa Hạ không thua kém các dân tộc phương tây, cũng dũng cảm tài trí, mạnh mẽ kiên cường, cũng đầy tham vọng, nhưng một khi rơi vào ruộng đất phì nhiêu, nơi ôn hoà đôn hậu nhất thế giới, thì dù muốn cũng không thể hung hãn. Đồng ruộng mênh mông của Trung Quốc cổ đại là nơi thuần hoá sói và tính cách sói thảo nguyên.
*
Ô tô chạy vào đồng cỏ phía nam đường biên phòng, cỏ đã thưa tới mức trông thấy đất, y như cỏ trên bãi tập lái xe. Thảo nguyên tây bắc, nhất là thảo nguyên Nội Mông, là một trong những nơi phát tích của nên văn hoá cổ đại Trung Quốc. Theo "Lịch sử địa lý cổ Nội Mông", những phát lộ khảo cổ cho thấy ngay từ thời kỳ đồ đá mói, Nội Mông đã có hoạt động của con người. Tính trường tồn của "văn hoá hang động" khiến thế giới kinh ngạc. Di chỉ đại diêu tai ngoại thành đông bắc thành phố Hồi Hột, là một trong những địa điểm văn vật quan trọng được nhà nước bảo vệ. Di chỉ đại diêu có một xưỏng chế tác đồ đá của con người thời viễn cổ từ thời kỳ đồ đá cũ tảo kỳ (sớm) sang trung kỳ cho tới vãn kỳ (muộn), trước sau mấy chục vạn năm, di tích sớm nhất cách nay 70 vạn năm, sớm hơn di chỉ người vượn Bắc Kinh từ 10 đến 15 vạn năm. Sang thời đại đồ đá mới, phạm vi hoạt động của người xưa ở Nội Mông càng rộng, đến nay đã phát hiện trên 1000 di chỉ, mà về hình dáng và phong cách men màu của hiện vật đã phát lộ, thì khác với văn hoá Ngưỡng Thiều và văn hoá Long Sơn.
Còn nữa, người Lam Điền phát lộ ở tây bắc Thiểm Tây cách đây khoảng 80 đến 60 vạn năm, có lịch sử lâu đời hơn người vượn Bắc Kinh. Tuy là người vượn Bắc Kinh nhưng không thuộc người trung nguyên lưu vực Hoàng Hà, mà là người phương bắc viễn cổ. Thời kỳ viễn cổ, cao nguyên và thảo nguyên phương bắc cỏ xanh tốt, khí hậu ẩm, thích hợp với cuộc sống của con người. Cuộc sống săn bắn, du mục, hái lượm của người viễn cổ trên thảo nguyên, còn trung nguyên, trung và hạ lưu Hoàng Hà trước khi Hạ Vũ trị thuỷ, định kỳ hoặc không định kỳ thuộc "vùng lũ sông Hoàng", rất nhiều nơi không thích hợp cho con người cư trú. Trung nguyên là cao nguyên hoang thổ bị bào mòn, được phù sa sông Hoàng bồi đắp thành đồng bằng. Do đó cao nguyên tây bắc và thảo nguyên là cha, Hoàng Hà là mẹ của trung nguyên. Về lịch sử, người thảo nguyên tây bắc lâu đời hơn người trung nguyên. Tổ tiên của người trung nguyên đến từ cao nguyên tây bắc và thảo nguyên.
Những ngưởi thảo nguyên đầu tiên ở Trung quốc, chắc chắn là với tinh thần và tính cách du mục mạnh mẽ và đặc tính lưu động bành trướng, dấn dà thâm nhập trung nguyên, ảnh hưởng sâu sắc đến sự hình thành và phát triển văn minh các bộ tộc trung nguyên và dân tộc Hoa Hạ.
Viêm đế và Hoàng đế thuỷ tổ nhân văn dân tộc Trung Hoa, xuất thân từ bộ tộc du mục tây bắc. Theo truyền thuyết, Viêm đế và Hoàng đế xuất thân từ bộ tộc Thiếu Điển thời viễn cổ. Phạm Văn Lan tổng hợp các truyền thuyết mà sử sách đã ghi, cho rằng: Viêm đế họ Khương, một chi của tộc KhươngTây Nhung, du mục từ phía tây vào trung bộ trước tiên", dần dà bắt đầu nông canh. Tộc Khương cổ điển hình cho các tộc du mục, là một trong những tộc tổ người Hán. Tộc Tây Khương tính cách mạnh mẽ không phải trong truyền thuyết, mà là trên thực tế. "Hậu Hán thư. Tây Khương truyện", chép: "Tây Khương... coi chết trận là chuyện tốt, chết bệnh là chuyện dở, chịu rét chịu khổ như cầm thú, phụ nữ sinh nở cũng không kiêng gió, tuyết. Tính cách mạnh mẽ dũng cảm, chắc là nhận được khí của hành kim." Những lời nhận xét hay tuyệt, đúng là đang nói về sói, khái quát cao tính cách sói thảo nguyên và dân tộc du mục trên thảo nguyên. Vì rằng chỉ sói thảo nguyên và dân tộc du mục thà chết trận còn hơn chết vì bệnh tật. Đoạn ghi chép và lời bình đã chỉ ra một cách sinh động có chung đặc trưng tính cách sói của tộc Tây Khương và tộc du mục Trung Quốc; và cũng chỉ ra nguồn gốc tính cách dân tộc du mục tây bắc: "Giống như cầm thú", cũng có nghĩa là dũng mãnh như cầm thú, như chim ưng như sói thảo nguyên.; và cũng chỉ ra xuất xứ của khí chất cương cường thuộc hành kim của dân tộc Trung Hoa là khu vực du mục phía tây và tây bắc. Mình cảm thấy tự hào và phấn khởi vì tổ tiên người Hán tính cách kiên cường dũng cảm như thế.
Tộc Khương là dân tộc lâu đời đáng kính nể và là một trong những tộc tổ của dân tộc Hoa Hạ Trung Quốc. Nó không chỉ sản sinh phần lớn các tộc Tây Nhung bao gồm "Khuyển Nhung", "Bạch Cẩu" (chó trắng), "Bạch Lang" (sói trắng), mà còn sản sinh ra các tộc Hán, Đảng Hạng, Thổ Phiên, Tạng, hơn nữa một chi của tộc Khương du nhập thảo nguyên Mông Cổ tham dự vào sự hình thành của dân tộc thảo nguyên Mông Cổ. Theo công trình nghiên cứu của một chuyên gia, ngữ hệ Hán Tạng đơn âm tiết và có thanh điệu, bắt nguồn từ tiếng Khương cổ đơn âm tiết. Cho đến bây giờ có rất nhiều chữ Hán còn mang dấu vết huyết thống du mục của người Khương - tổ tiên người Hán. Thí dụ, chữ "mỹ" (đẹp) là do hai chữ "dương" (con cừu) và chữ "đại" (to) hợp thành. Hứa Thận trong "Thuyết văn giải tự" giải thích: "mỹ" thuộc bộ "dương", con cừu to". Từ Huyền chú thích: Cừu to ắt đẹp mắt, do vậy thuộc bộ "đại". Có thể thấy quan điểm thẩm mỹ của tổ tiên Hoa Hạ là quan điểm thẩm mỹ của dân du mục. Hai chúng mình từng làm dương quan (người chăn cừu), có thể lĩnh hội mỹ cảm này. Thịt cừu là thức ăn chính của dân du mục, nuôi một đàn cừu non thành một đàn cừu lớn, đẹp lòng lắm chứ! "Cừu to" cũng là quan điểm thẩm mỹ cúa sói thảo nguyên Khi một con sói lớn bắt được một con cừu lớn, nó rất đẹp lòng nên sủa lung tung. Nếu tổ tiên người Hán là nông dân, thì chữ "mỹ" không viết "cừu to" mà phải là "gạo nhiều". Thời viễn cổ thi cừu đẹp, bây giờ thi người đẹp, nhưng bản thân chữ "mỹ" vẫn là "cừu to".
Sự vĩ đại của tộc Khương là ở tính cách cương cường và trí tuệ siêu việt. Những tộc cùng thời như Hung Nô đều đã bị diệt vong, vậy mà tộc Khương vẫn tồn tại một cách ngoan cường cho đến ngày nay, các tộc con cháu với dân số khiến thế giới kinh ngạc: trên một tỉ người...
Ta hãy trở về thời kỳ Viêm Hoàng. Sau khi Viêm đế vào trung nguyên, Xuy Vưu tộc Cửu Lê "mình thú nói tiếng người" trong truyền thuyết phương nam cũng tiến lên trung nguyên, xung đột dữ dội với tộc Viêm đế. Tộc Viêm đế mới bắt tay vào nghề nông bị tộc Cửu Lê Xuy Vưu bức bách, "Tộc Cửu Lê đuổi tộc Viêm đế đến tận Trác Lộc". Viêm đế bèn liên kết với Hoàng đế dũng mãnh cùng nhau tác chiến, đánh bại Xuy Vưu tại Trác Lộc. Và đuổi Tộc Cửu Lê ra khỏi trung nguyên.Tộc Hoàng đế sau khi đánh bại tộc Viêm đế, đẩy tộc Viêm đế xuống lưu vực Trường giang, mới chính thức định cư tại trung nguyên. Sau đó tộc Hoàng đế lại liên kết vói tộc Viêm đế, cùng nhau chống lại các tộc man rợ phương nam.
Mình cho rằng, sở dĩ tộc Hoàng đế chiến thắng tộc Cửu Lê XuyVưu là do tính cách dân tộc. Đó là khi ấy tộc Hoàng đế vẫn còn là tộc du mục. "Sử ký. Tam hoàng bản kỷ" giải thích: Viêm đế Hoàng đế đều là con trai Thiếu Điển, mẹ là con gái Oa thị... Khương Cơ nhị đế đều là con Thiếu Điển thị. Mẹ Hoàng đế lại là mẹ Thần nông". Vì vậy tộc Hoàng đế và tộc Viêm đế là một họ. Tộc Viêm đế bắt nguồn từ tộc Khưong Tây Nhung, vậy tộc Hoàng đế cũng bắt nguồn từ cao nguyên tây bắc. Sử ký chép rằng, tộc Hoàng đế trong truyền thuyết phát tích từ khu du mục tây bắc, phạm vi hoạt động tại tây bắc, những sự tích và công tích chủ yếu đều tại tây bắc. Trang tử nói: Côn Lôn lở, Hoàng đế nghỉ". "Sơn hải kinh" chép: "Côn Lôn hư, Hoàng đế dời đô". "Sử ký. Ngũ đế bản kỷ" chép: "Tộc hoàng đế luôn di chuyển, lấy quân doanh làm nhà" Hơn nữa, có thổ đức, nên hiệu là Hoàng đế". Sử ký chú thích: Thổ đức, thổ màu vàng, nên xưng là Hoàng đế". Đất màu vàng tức hoàng thổ, cao nguyên hoang thổ tây bắc là đất du mục. Phạm Văn Lan cho rằng: Tộc Hoàng đế vốn cư trú trong núi vùng Trác Lộc, sống cuộc sống du mục nay đây mai đó. Trong truyền thuyết, Hoàng đế và Viêm đế đánh bại Cửu Lê Xuy Vưu ở Trác Lộc; Ba trận đánh lớn giữa Hoàng đế và Viêm đế xảy ra tại Bản Tuyền, mà Bản Tuyền thuộc Hoài Lai Hà Bắc, xưa có tên là Hoài Nhung, là khu du mục, cách Trác Lộc mấy chục dặm về phía đông. Trác Lộc là phần đất phía tây của Hoa bắc, là mảnh đất mỏ vẹt từ Nội Mông cắm vào Hoa bắc, thời thượng cổ là khu du mục điển hình. Thời thượng cổ, Trác Lộc Hoài Lai, Nguỵ Hà và Yên Sơn là địa bàn của các tộc du mục. Về sau Hoàng đế định đô ở Trác Lộc. Cuối cùng Hoàng đế lá rụng về cội, "Hoàng đế băng, táng tại Kiều Sơn", mà Kiều Sơn ai cũng biết là ở tây bắc. Viêm Hoàng nhị đế phát tích từ tộc du mục tây bắc và khu vực du mục, do vậy chắc chắn là sùng bái Trời, cũng là sùng bái thảo nguyên và Tăngcơli của dân tộc du mục. "Sử ký" chép: Hiên Viên Hoàng đế sau khi giết Xuy Vưu, được "chư hầu tôn làm vua".
Trần Trận lấy trong cặp tờ phiếu, nói: Tộc du mục tây bắc Trung Quốc đời nọ tiếp đời kia sùng bái Tăngcơli, điều này đã được khảo chứng. Cậu có nghe nhà nghiên cứu lịch sử châu Á nói gì không? Ông nói rằng, nửa cuối thể kỷ thứ ba, người Hung Nô tổ chức thành một dân tộc thống nhất mạnh mẽ, thủ lĩnh của họ xưng là Thuyền Vu, tên gọi đầy đủ là Xânglicutu Thuyền Vu, dịch ra Hán văn là "thiên tử". Ta có thể tách bạch Xângli là Đột Quyết - gỗc chữ Mông Cổ, Tăngcơli (Trời) là dịch âm từ chữ Đột Quyết và chữ MôngCổ. Cậu thấy đấy, từ Hung Nô tới Đột Quyết rồi tới Mông Cổ đều sùng bái Tăngcơli. Hung Nô là dân tộc lâu đời nhất, thời cổ có tên là "Huân Chúc", đời Hạ xưng là "Đôn Duy", thời Ân Thương xưng là "Quỉ Phương", đến thời Hán mới xưng là Hung Nô. "Sử ký" chú thích: "Huân Chúc" là biệt danh của Hung Nô. Thời kỳ Hoàng đế từng kết thân với Huân Chúc. "Sử ký. Ngũ đế bản kỷ" chép: "Hoàng đế... giao hảo với Huân Chúc phía bắc". Từ đó có thể đoán định rằng, thời kỳ Hoàng đế, tộc du mục tây bắc sùng bái Tăngcơli, nếu không các bộ tộc đương thời không suy tôn Hoàng đế làm thiên tử (con trời). Sùng bái Tăngcơli và tên gọi Thiên tử có từ tộc du mục tây bắc thời cổ đại.
Do tộc Hoàng đế là tộc du mục nên có tính cách mãnh thú như sói. "Ngũ đế bản kỷ" chép: Hoàng đế huấn luyện... đánh nhau với Viêm đế ở Bản Tuyền". Trong truyền thuyết, quân đội của Hoàng đế toàn là mãnh thú, mang rõ đặc tính của quân đội du mục. Cần chú ý là, trong sáu loại mãnh thú trên không có sói, vì rằng sói không thể dạy, ngay cả nửa thần nửa người như Hoàng đế cũng không dạy được sói, hơn nữa, tộc du mục sùng bái sói thảo nguyên không khi nào sai khiến sói.
Vì vậy, người Hán chúng ta thực tế là hậu duệ của dân tộc du mục tây bắc. Sau đó tộc Hán khinh rẻ dân tộc du mục, như vậy là vong bản, quên cả tổ tiên. Tộc Hán xuất thân từ dân tộc du mục, và có thể khẳng định trong huyết quản vẫn còn sói tính. Đó là nguồn phục hưng dân tộc Trung Hoa, phải giữ nó như giữ lửa và phát huy sức mạnh của nó.
*
Dương Khắc mắt sáng lên: Thảo nào dân tộc thảo nguyên đời đời sùng bái Tăngcơli, dân tộc nông canh Hoa Hạ đời đời sùng bái "trời". Thì ra tục "sùng bái trời" của tộc Hoa Hạ là do Viêm Hoàng nhị đế đem từ quê hương thảo nguyên, từ chỗ tổ tiên du mục tới Hoa Hạ.
Trần Trận mỉm cười: Đúng vậy. Các dân tộc du mục Trung Hoa sở dĩ cùng nguồn gốc là vì trời là cha thảo nguyên là mẹ sinh ra hai anh em, dân tộc thảo nguyên là anh, dân tộc Hoa Hạ là em, hai dân tộc lâu đời châu Á này cùng sùng bái trời, sùng bái Tăngcơli. Sự sùng bái tối cao này ảnh hưởng sâu sắc và lâu dài đối với văn minh Trung Hoa. Giờ nhìn lại ta thấy, lịch sử Trung Hoa sau Viêm Hoàng chứng tỏ, những dân tộc anh em cùng nguồn gốc cùng sùng bái trời, dù đánh nhau máu chảy thành sông, nhưng vẫn là cùng nhau sáng tạo văn minh và lịch sử Trung Hoa. Một khi dân tộc Hoa Hạ trong hoàn cảnh nông canh bạc nhược, đấng cao xanh Tăngcơli cử dân tộc du mục đầy sói tính tiến vào trung nguyên, tiếp máu cho dân tộc nông canh. Được tiếp máu, dân tộc Hoa Hạ cứ mối làn tiếp là một lần trỗi dậy. Sau đó, vì ông em quá dặt dẹo vực không dậy nổi, nên ông anh tiến vào làm chủ trung nguyên, làm chủ một nửa Trung Quốc, thậm chí toàn bộ Trung Quốc, thay ông em giữ gìn xã tắc, bảo vệ văn minh Hoa Hạ cho đến khi gặp văn minh phương tây. Hai dân tộc anh em đã dùng phương thức đặc thù, cùng nhau sáng tạo nền văn minh xán lạn Trung Hoa, và cũng là sáng tạo kỳ tích duy nhất trên thế giới. Bốn nền văn minh cổ lớn nhất thế giứi, chỉ còn mỗi văn minh Trung Hoa không bị đứt đoạn, tiếp tục tồn tại đến bây giờ. Hơn thế, cón tiếm ẩn khả năng phục hưng dân tộc.
Con đường văn minh Trung Hoa là một con đường đặc biệt được sản sinh từ thảo nguyên mạnh mẽ lớn nhất thế giới và từ đồng ruộng yếu đuối nhất thế giới.
Còn điều này nữa, trong cuộc đại chiến Viêm Hoàng, cuối cùng Hoàng thắng, nguyên do: Tuy cùng là tộc du mục, nhưng tộc Viêm vào khu vực nông canh ở trung nguyên trước mấy trăm năm, tự xưng "Thần nông thị", là bộ tộc tiến hành sản xuất nông nghiệp qui mô lớn nhất trong các bộ tộc Hoa Hạ thời thưọng cổ. Do đó Viêm đế bị tính cách nông canh làm cho mềm yếu sớm hơn tộc Hoàng đế. Tinh thần du mục liên tiếp chiến thắng, cuối cùng chiến thắng tinh thần nông canh, qui luật khách quan này trên thế giới cũng đúng với lịch sử Trung Hoa. Đại chiến Viêm Hoàng trở thành khởi điểm của dòng chính cực kỳ quan trọng trong lịch sử văn minh Trung Hoa, dòng chính đó là cuộc đấu tranh, dung hoà và phát triển giữa dân tộc du mục và dân tộc nông canh, giữa tinh thần du mục và tinh thần nông canh. Cuộc đấu tranh này có lịch sử lâu đời hơn, dai dẳng hơn lịch sử đấu tranh giai cấp. Nó bắt đầu từ khi giai cấp chưa hình thành. Hơn nữa, dòng chính này của lịch sử ảnh hưởng sâu sắc tới văn minh Trung Hoa, đến nay vẫn còn phát huy tác dụng.
Dương Khắc vô cùng hào hứng, nói: Hay lắm! Xem ra, nếu không đến đất tổ thảo nguyên, gặp gỡ dân tộc thảo nguyên, sói thảo nguyên và tôtem sói, thì chúng ta sẽ không thể đứng trên lập trường mới toanh như thế này để làm rõ cội nguồn văn minh Trung Hoa và nội dung của nó là những gì. Từ sau ngày lên thảo nguyên đánh bạn với sói, chủ nghĩa sô vanh đại Hán của mình xẹp đi nhiều.
Trần Trận nói: Những năm gần đây mình suy ngẫm và nghiên cứu nhưng vấn đề này. Trong khoảng năm nghìn năm, sự hình thành và diễn biến tính cách dân tộc Hoa Hạ trong lịch sử tương đối phức tạp. Nhưng chắc chắn là có thể tìm ra qui luật, giờ đây đã lần ra đầu mối.
Dương Khắc nói: Nói tiếp đi, nếu cậu không mệt, mình tháp tùng cậu đến cùng.
Trần Trận nói: Mình cũng đang muốn nói với cậu, nói ra thì lý giải rõ ràng hơn. Cậu nghe khiến mình càng có hứng...Để lát nữa nói tiếp, sắp đến nhà cũ của sói con rồi. Mình phải báo cáo với ông thầy sói con về kết quả nghiên cứu của mình. Sói con đúng là ông thầy của mình, còn một thầy nữa là ông Pilich. Sói thảo nguyên và ngưòi thảo nguyên đều là thầy mình.
*
Bãi sậy dày đặc dưới chân núi đã biến mất từ lâu. Ô tô chạy trên những cây sậy mọc lúp xúp, vàng úa rồi leo lên con dốc thoai thoải dưới chân núi Đen.
Dương Khắc hỏi: Cậu còn nhớ hang sói không?
Trần Trận khẳng định: Học trò làm sao quên cổng nhà thầy? Phải dừng xe ở chân dốc rồi đi bộ lên một đoạn.
Ô tô chậm chạp leo dốc, ngày càng tới gần hang sói con.Trần Trận chợt thấy bối rối, tâm trạng y hệt một tội phạm chiến tranh đến tạ tội trước lăng mộ. Trong lăng mộ ấy chôn cất bảy sói thảo nguyên Mông Cổ bị chính anh giết chết, năm con chưa mở mắt, một con chập chững biết đi, còn một con thì bị dùng kim đầu cọp bẻ gãy răng nanh, dùng xích sắt tước mất tự do của một cuộc đời ngắn ngủi, lại còn chính tay đập chết. Vốn thích tự do và ngày càng tôn sùng tự do, Trần Trận không dè lại gây ra một tội ác của kẻ chuyên chế độc tài. Anh quả thật không làm sao chấp nhận tội ác đẫm máu đó của chính mình, đôi lúc anh căm ghét cả công trình và kết quả nghiên cứu của anh. Chính vì tính hiếu kỳ và lòng say mê nghiên cứu mà anh đã cắt đứt niềm vui và tự do của bảy sói con, bản thảo cúa anh viết bằng máu của chúng, dòng máu cao quí của sói chúa Bạch lang trên thảo nguyên Mông Cổ... Hơn hai mươi năm nay, trong lòng anh thường xuyên bị giày vò và hối hận sâu sắc về món nợ máu này. Anh ngày càng hiểu tâm trạng của người thảo nguyên trong khi giết sói, hiểu vì sao khi chết họ tự nguyện đem thi thể mình giao lại cho đàn sói. Đó không chỉ là linh hồn lên trời, và cũng không phải "ăn thịt trả bằng thịt", mà có thể trong đó bao hàm ý nghĩa trả giá cho sự sai lầm, vì tình yêu đối với sói... Nhưng nay không còn bãi thiên táng nữa.
Hơn 20 năm nay, sói con đáng kính nể, đáng yêu và đáng thương luôn xuất hiện trong giấc mơ, trong ý nghĩ của anh, nhưng sói con chưa hề cắn anh, chưa hề trả thù anh, thậm chí cắn ý nghĩ của anh cũng không. Sói con cứ cười khà mà chạy trước mặt anh, ôm chân anh, dụi đầu vào gối anh, và lại còn liếm tay anh, liếm mặt anh. Một bận Trần Trận mơ thấy anh nằm ngủ trên bãi cỏ đột nhiên tỉnh dậy thấy sói con nằm ngay bên cạnh, anh hốt hoảng lấy tay che họng, nhưng sói con thấy anh tỉnh dậy liền nằm lăn chổng bốn vó lên trời cho anh gãi ngứa. Không biết bao nhiêu giấc mơ trong hơn hai mươi năm qua, sói con bao giờ cũng lấy ân báo oán, đến bên anh thân mật như con đến với cha... Một điều anh không hiểu nổi là, sói con không những không ghét anh, không nhe răng nhe lợi với anh, không gầm gừ uy hiếp anh, trái lại luôn tỏ ra thân thiện, yêu mến anh, tình yêu biểu hiện qua ánh mắt sói rất thuần khiết không bao giờ thấy ở người. Dương Khắc trông thấy sườn dốc đất đá lởm chởm hình như nhớ lại hành động diệt chủng cách đây hai bảy hai tám năm, cũng cảm thấy hối hận. Xe dừng lại trên đỉnh dốc, Trần Trận chỉ bãi đất bằng phẳng không xa, nói: Chỗ đó là cái hang tạm của lũ sói con, chính mình đã đào chúng lên, mình là thủ phạm. Khi mình rời Ơlôn, con sói đã cào bằng, không còn vết tích gì nữa. Chúng mình đi bộ đến cái hang cũ đi. Hai người xuống xe. Trần Trận xốc ba lô lên vai dẫn Dương Khắc đi vòng đến quả núi nhỏ.
Mỏm núi giờ đây trơ trụi, không còn đầy gai góc và cỏ thanh khoả như xưa, dưới chân núi cũng không còn bãi sậy như tấm bình phong, đi thêm mấy chục bước, miệng hang cũ trông rõ mồn một hình như to hơn trước, trông xa y như cái động bỏ phế trên cao nguyên hoàng thổ Thiểm bắc. Trần Trận nín thở bước tới, thấy cái hang không rộng ra mà do trụi hết cỏ xung quanh nên tưởng như rộng ra. Đại hạn liên miên khiến cái hang về cơ bản vẫn giữ được nguyên dạng, chỉ đáy hang có một ít đá sỏi rơi xuống. Trần trận bước tới quì xuống trước miệng hang, định thần nhìn kỹ vào bên trong, đường trong hang đã bị cỏ lông chông lấp kín, lấy đèn pin ra soi, chỗ rẽ trong hang đã bị đá sỏi lấp quá nửa. Trần Trận ngẩn ngơ ngồi xuống lưỡi đất trước cửa, mắt nhìn miệng hang không chớp.
Dương Khắc cũng soi đèn pin xem xét hồi lâu, nói: Đúng rồi, chính là cái hang này. Cậu chui vào từ chỗ này. Khi ấy mình có hai cái sợ, thứ nhất sợ sói mẹ cắn cậu, thứ hai sợ sói bên ngoài cắn mình. Hồi ấy chúng mình đúng là ăn quả liều. Nói thật, lập luận của cậu đã đi sâu vào vấn đề cốt lõi của thảo nguyên, rút ra từ hang sói.
Dương Khắc lại cúi xuống gọi: Sói con ra ăn cơm! Trần Trận và tôi đến thăm sói đây! Dương Khắc gọi như gọi sói con ra ăn cơm hồi ở đồng có mùa hè. Nhưng không bao giờ còn thấy sói con từ trong hàng chui ra nữa...
Trần Trận đứng lên phủi bụi đất trên người rồi lại ngồi xuống chậm rãi vặt cỏ trên lưỡi đất, lấy trong ba lô bảy cái lạp sường kính cẩn bày trên mặt đất, trong đó có một cái rất to dành riêng cho sói con, lấy ra bảy nén hương, châm lửa cắm trên lưỡi đất, lại lấy tờ bìa 2 của tác phẩm đốt theo. Lưỡi lửa liếm ba chữ "Lang đồ đằng" cùng tên tác giả, Trần Trận hi vọng linh hồn sói con cùng ông già Pilich ở trên trời chấp nhận lời hứa và sự hối hận của anh. Ngọn lửa cháy đến gần tay anh mới tắt. Trần Trận lại lấy ra chai rượu "Nhị oa đầu" mà ông già Pilich rất thích, tưới rượu trên lưỡi đất và cỏ xung quanh. Anh biết, bên mỗi hang sói cũ trên thảo nguyên Ơlôn đều có dấu chân ông già Pilich. Cậu không nghe lời ông già, kiên trì nuôi sói con khiến ông chạnh lòng. Lỗi lầm này không bao giờ sửa được.
Hai người giơ hai tay, lòng bàn tay ngửa lên trời ngưỡng vọng Tăngcơli, dõi theo làn khói đi tìm linh hồn ông già và sói con.
Trần Trận rất muốn kêu lên rõ to: Sói con ơi! Bố ơi! Con đến thăm sói con và bố đây!... Nhưng anh không dám, anh không xứng đáng được phép gọi như thế. Anh cũng không dám đánh động linh hồn ông già và sói con, chỉ sợ họ thức dậy nhìn xuống "thảo nguyên" khô héo.
Tăngcơli muốn khóc mà không có nước mắt...
*
Trời hãy còn sớm, hai người trở lại bên xe lấy giỏ thức ăn xuống ăn dưới bóng xe. Trần Trận buồn quá uống rượu cho vợi nỗi đau, rượu bốc lên mắt cay xè.
Dương Khắc nói: Cậu đừng nên thương cảm quá. Hãy viết ra tất cả, đó chính là sự an ủi và bù đắp lớn nhất đối với sói con và ông già. Thực tế là sau đó sói con rất thân với chúng ta, nhất là thân với cậu, nó coi cậu như cha đẻ. Chính là Tăngcơli nói rõ chân tướng sự việc, nên nó không giận cậu. Thời bây giờ, ngày càng không thể tin vào tình cảm con người, hành nghề luật sư mười mấy năm. mình ngày càng thất vọng về người Trung Quốc. Ông bố chưa chết, vậy mà con cái tranh giành tài sản bên giường bệnh khiến ông không thể trút hơi thở cuối cùng. Tiếng khóc thật sự não lòng ở thành phố hiện nay là khóc con chó thân yêu bị chết... Sau này người ta chỉ có thể tìm chân thiện mỹ ở thế giới động vật.
Trần Trận nói: Đâu chỉ có chân thiện mỹ mà thôi.
Dương Khắc nói: Tiếp tục trình bày đi. Trên sa trường quê hương của sói thảo nguyên, toạ đàm về lang đồ đằng, là lễ cầu hồn tốt nhất đối với các tử sĩ và tráng sĩ thảo nguyên. Sói con ở trên trời chắc chắn sẽ nghiêng đầu lắng nghe cậu luận bàn về nó.
Trần Trận tợp một ngụm rượu, một luồng khí sói xông lên đầu, anh thao thao bất tuyệt tại cuộc toạ đàm tại hiện trường thảo nguyên:
Nói chung, hoàn cảnh thảo nguyên, sói tính có khả năng tạo huyết cho tính cách và huyết dịch sói; hoàn cảnh ruộng đất cừu tính có khả năng tạo huyết cho tính cách và huyết dịch cừu. Khi Viêm hoàng nhị đế soái lĩnh bộ tộc tiến vào trung nguyên, tình thế khi đó như thế này: Thứ nhất, Viêm Hoàng nhị đế sẵn có tính cách hung hãn của sói và dòng máu mang tính sói; Thứ hai, trung nguyên và tây bắc khi đó còn là vùng chăn nuôi, mãnh thú từng đàn. Do đó dân tộc Hoa Hạ vẫn còn khả nằng tạo huyết mạnh mẽ dòng máu sói. Thứ ba, ruộng đất khai phá rộng lón khiến khả năng tạo huyết dòng máu cừu tính phát huy tác dụng. Thứ tư, Nho gia Khổng học chưa ra đời, Nho gia mà sau này xuất hiện là tập đại thành ý thức nông canh, ảnh hưởng to lớn đến sự hình thành hình thức tính cách dân tộc Hoa Hạ. Điều cần nói rõ là, Nho gia thời kỳ đầu sản sinh trên mảnh đất nửa chăn nuôi nửa trồng trọt, vì vậy, tuy Nho gia sâu đậm ý thức nông canh tam cương ngũ thường, bảo thủ phục tùng, nhưng Nho gia kinh điển vẫn còn rót lại phong cách du mục và tính cách sói, như "thiên hành kiện, quân tử dĩ tự cường bất tức", khác xa Nho gia thuần nông canh thời kỳ Tống, Minh.
Do vậy thời kỳ đầu, dòng máu sói tính của các tiên dân Viêm Hoàng chưa bị pha loãng bởi cuộc sống nông canh an nhàn. Tính cách hung hãn của sói và tinh thần du mục chưa bị mềm yếu bởi hoàn cảnh an nhàn của cuộc sống nông canh.
Bộ tộc Viêm Hoàng bắt đầu nửa chăn nuôi nửa trồng trọt. Như vậy, họ vừa có tính cách dũng mãnh trong chiến đấu và tài năng quân sự trác việt, vừa có điều kiện lao động sản xuất tương đối yên ổn, cung ứng đầy đủ tư liệu cho cuộc sống, do vậy dân tộc mới này sản sinh ra năng lượng to lớn. Từ đó, các tiên dân Viêm Hoàng trỗi dậy ở trung nguyên, dân số gia tăng nhanh, đất đai mở rộng mau chóng từ lưu vực Hoàng Hà xuống tận Trường giang. Lăng Đại Vũ là ở giang nam.
Thế nhưng cuộc sống nông canh mở rộng dần thui chột tính cách sói còn rớt lại trong dân tộc du mục, và cũng phá hoại dần khả năng tạo huyết sói tính trong vùng du mục ngày càng bị thu hẹp ở trung nguyên. Đến cuối đời Thương, tộc Chu ở miền tây bắt đầu nổi lên, khi đó Chu đã bắt dầu làm ruộng, nhưng do nước Chu ở miền tây, nên cư dân trong nước phần lớn là bộ tộc du mục Nhung Địch. Những người cầm quyên nhà Chu từng mất bao nhiêu thời gian cải tạo tập tục Nhung Địch, xây dựng quan hệ mới sản xuất phong kiến. Nói chung, dân tộc du mục thượng võ thiện chiến; dân tộc nông canh thượng văn trọng giáo hoá. Trong nước Chu tồn tại hiện tượng tạp cư giữa tộc du mục và tộc nông canh, khiến nước Chu về mặt tính cách có ưu thế về tạp giao nửa cừu nửa sói giữa tộc du mục và tộc nông canh. Lại nữa, nước Chu thường xuyên bị dân tộc Nhung Địch xâm lấn, bị buộc phải chiến đấu, nên về mặt tính cách và quân sự được rèn luyện qua thực tiễn. Do đó dân tộc Chu tương đối toàn diện về tính cách, kết hợp giữa sói và cừu, nửa dã man nửa văn minh, văn thao vũ lược, trí dũng song toàn, khiến dân tộc này dòng máu mang nhiều sói tính hơn, tính cách cũng mạnh mẽ hơn dân tộc nông canh là chính ở trung nguyên, Dân tộc Chu còn có mền văn minh lễ nghi tương đối cao và một sức hướng tâm khoan dân yêu dân.
Thế kỷ 11 trước công nguyên, Chu Vũ vương liên kết tám nước Nhung Địch, đích thân chỉ huy "ba trăm cỗ xe trận, ba ngàn dũng sĩ, bốn ngàn năm trăm giáp sĩ tiến sang phía đông phạt Trụ". Xe trận (nhung xa), dũng sĩ (hổ bôn) là đặc trưng quân đội du mục hổ sói nhà Chu. Chu Vũ vương trước khi quyết chiến với bảy mưoi vạn đại quân của Trụ vương nhà Thương, từng trỏ lên trời mà thề, hiệu triệu toàn quân "chiến đấu như hổ như gấu như sài", dũng cảm diệt địch. "Sài" tức sói. Quân Chu dữ như hổ như sói, lấy ít thắng nhiều, giành thắng lợi lón diệt Thương Trụ, dựng nên vương triều Tây Chu ảnh hưởng cực lớn tới văn minh Trung Hoa.
Tây Chu trong quá trình tạp cư cùng dân tộc Nhung Địch, chịu ảnh hưởng sâu sắc tín ngưỡng sùng bái trời của dân du mục, sau đó, nhà Chu đem ảnh hưởng này vào Hoa Hạ, tiếp tục phát triển sùng bái trời thành sự sùng bái cao nhất của dân tộc Hoa Hạ, quân vương cao nhất của nhà Chu được gọi là Thiên tử.
Ưu thế tạp giao nửa cừu nửa sói của nước Chu và triều Chu, không những khiến nước Chu và nhà Tây Chu được tiếp một đợt dòng máu sói tính của dân tộc du mục, mà toàn thể dân tộc Hoa Hạ cũng được tiếp một đợt như thế, khiến dòng máu sói tính bị pha loãng bởi dòng máu cừu tính trong nghìn năm nông canh, lại đậm đà sói tính như cũ. Lần tiếp máu này sản sinh ra Chu Văn vương, Chu Vũ vương và Chu Công, những nhân vật vĩ đại ảnh hưởng sâu sắc đến dân tộc và văn minh Hoa Hạ. Các thánh hiền của dân tộc Hoa Hạ thời đó đều có tinh thần du mục: Tính cách mạnh mẽ, tấm lòng rộng mở, tầm nhìn rộng. Tinh thần thời đại "Thiên hành kiện,dĩ tự cường bất tức" sản sinh trong thời kỳ này và cũng phản ánh chính xác tính cách dân tộc đương thời, và, trong tinh thần dân tộc đó có tinh thần du mục Trung Hoa.
Văn minh nông canh sản sinh tư tưởng cầu an, là nguyên nhân bên trong khiến nhà Thương diệt vong. Nhà Chu luôn phấn đấu vươn lên, tất yếu thay thế nhà Thương là phải lẽ. Thời kỳ thịnh trị của Tây Chu sử dụng cả văn lẫn võ, văn trị võ công xán lạn, đặt nền móng cho sự hình thành và phát triển dân tộc Hoa Hạ.
Trần Trận ngồi tựa bánh xe duỗi thẳng hai chân, nói tiếp: Từ đó trở đi, dân tộc Trung Hoa phát triển theo con đường riêng biệt. Nông canh tất nhiên làm mềm yếu tính cách dân tộc nông canh, còn du mục thảo nguyên tất nhiên làm mạnh mẽ tính cách dân tộc du mục. Sự phát triển và duy trì nền văn minh Trung Hoa cổ đại phải dựa vào sự tiếp máu định kỳ và không định kỳ của dân tộc du mục. Đây là qui luật phát triển của văn minh Trung Hoa cổ đại mấy ngàn năm, mà qui luật này liên quan đến vấn đề sinh tồn và phát triển dân tộc, tức vấn đề tính cách dân tộc.
Lịch sử Trung quốc và thế giới đã chứng minh, lịch sử quyết không phải một đống sự kiện ngấu nhiên tích tụ lại, mà trong đó nó phát triển theo qui luật khách quan. Vậy mà qui luật đặc thù về sự thịnh suy của văn minh Trung Hoa cho đến bây giờ vẫn bị "một đống những sự kiện ngẫu nhiên" che khuất. Nếu như không từ góc độ và phương pháp nghiên cứu "tồn tại dân tộc và tính cách dân tộc" để phân tích cái "đống" này, người Trung Quốc sẽ không bao giờ nắm được qui luật phát triển đặc thù của nền văn minh và vận mệnh Trung quốc.
Với cá nhân mà nói, tính cách là nhân tố quyết định anh ta thành công hoặc phát triển. Với dân tộc mà nói, tính cách dân tộc là vấn đề lớn của đất nước liên quan chặt chẽ với sự tồn vong của dân tộc. Nhìn vào lịch sử thành bại hưng vong của các dân tộc trên thế giới, tính cách dân tộc thuộc vấn đề cốt lõi của dân tộc. Lịch sử đã chứng minh, dân tộc nào mạnh mẽ vươn lên thì cơ hội sinh tồn và phát triển càng nhiều hơn lớn hơn.; dân tộc nào tính cách hèn yếu, khả năng bị đào thải lớn hơn. Nhìn vào tiêu chuẩn giá trị những dân tộc thực sự tồn tại trên thế giới, tính cách dân tộc ươn hèn là khiếm khuyết chí mạng của một dân tộc. Vì rằng, tính cách dân tôc ươn hèn là nguyên nhân sinh ra mọi cái xấu: Nó sẽ dẫn đến hàng loạt những tội sác đáng xấu hổ không thể tha thứ, không cầu tiến, ếch ngồi đáy giếng coi trời bằng vung, làm nhục quốc thể, cắt đất cầu hoà, bán nước cầu vinh, cúi đầu làm tôi tớ; Nhân dân bị giết hại, bị bán rẻ, bị nô dịch. bị phân biệt đối xử.; Dân tộc bị cải giống, văn hoá bị lai căng, tên họ bị thay đổi, thân phận bị coi thường...Rất nhiều dân tộc nông canh lâu đời trên thế giới vì tính cách ươn hèn nên bị thế giới tàn nhẫn đào thải không thương tiếc. Thế giới phát triển cho đến nay, dân số tăng mạnh, không gian sinh tồn và tài nguyên ngày càng thiếu, tính cách dân tộc lại càng nổi bật. Vì vậy càng phải hết sức coi trọng vấn đề tính cách dân tộc. Vậy nên phải từ góc độ tính cách dân tộc mà xem xét lại lịch sử phát triển văn minh Trung Hoa.
Mình cho rằng, cống hiến vĩ đại cúa dân tộc du mục Trung Hoa đối với dân tộc và nền văn minh Trung Hoa, quan trọng nhất là cống hiến về tinh thần và tính cách. Một khi tính cách dân tộc mạnh mẽ tiến thủ, ắt sáng tạo và là cột trụ bảo vệ văn văn minh Trung Hoa. Dân tộc nông canh Hoa Hạ sáng tạo đầu và tay văn minh Trung Hoa cổ đại, còn tinh thần du mục và tính cách du mục là xương sống của toàn bộ dân tộc Trung Hoa và văn minh Trung Hoa.
Cần đặc biệt chỉ rõ, từ sau Tây Chu, một qui luật về thịnh suy có tính chủ đạo cũng bắt đầu. Một khi cừu tính trong tính cách dân tộc Hoa Hạ mạnh hơn sói tính, Hoa Hạ liền bị dị tộc xâm lược, giang sơn đổ nát, bị người xâu xé; một khi sói tính trong tính cách dân tộc Hoa Hạ mạnh hơn cừu tính, Trung Quốc Hoa Hạ thực hành bạo chính, quân phiệt hỗn chiến, dân chúng nổi lên như ong, loạn lạc không dứt. Chỉ khi nào Hoa Hạ về tính cách dân tộc cừu tính và sói tính cân bằng, sói tính nhỉnh hơn cừu tính một chút thì khi đó cương vực mở rộng, dân giàu nước mạnh, kinh tế văn hoá thịnh vượng phồn vinh.
Dưới đây, ta hãy xem thử lịch sử Trung Quốc có phát triển theo qui luật đó không, và những sự kiện lịch sử có mang dấu ấn của qui luật đó không?
Đến cuối đời Tây Chu, do hoàn cảnh nông canh hoà bình trong một thời gian dài, khiến nhà vua hoang dâm vô độ, chơi trò đốt phong hoả lâu để bỡn cợt chư hầu. Nhà vua tính cách ươn hèn, không lo cho dân giàu nước mạnh, kết quả Chu U vương bị tộc Khuyển Nhung hùng mạnh giết chết, sủng phi Bao Tự bị bắt sống, bảo khí "chín đỉnh" tương trưng cho quyền lực tối cao Hoa Hạ bị Khuyển Nhung cướp về thảo nguyên, tây bắc đô thành Phong, Cảo bị Khuyển Nhung chiếm lĩnh. Nhà Tây Chu cường thịnh ba trăm năm bị diệt. Từ đó, Khuyển Nhung trở thành kẻ thù đáng sợ nhất của dân tộc Hoa Hạ. Cho đến đời Đường, dân tộc trung nguyên vẫn gọi tất cả các dân tộc tây bắc là "Khuyển Nhung" hoặc "Nhung Địch". Đời Đại Tôn nhà Đường, Thái Thường Bác Sĩ Liễu Kháng dâng sớ nói rằng: "Khuyển Nhung vượt Quan Lũng, không đánh mà chiếm được kinh sư"... Trong những năm đời Đường Đức Tôn, đại thần Liễu Hồn tâu lên Đức Tôn: "Nhung Địch là loài lang sói, không thể kết minh". Chữ "khuyển" trong "Khuyển Nhung" hàm ý cực kỳ khinh miệt, hơn nữa, bảo Nhung Địch là "sài lang", rõ ràng là chỉ sói tính của dân tộc "Nhung Địch" hoặc "Khuyển Nhung". Đến thời kỳ đầu Xuân thu, Khuyển Nhung lại trở thành kẻ địch mạnh của nước Tần, sau đó, một chi của Khuyển Nhung di cư lên thảo nguyên Mông Cổ phía bắc, trở thành một trong những dân tộc du mục sớm nhất trên thảo nguyên. Nghiên cứu dân tộc du mục, tinh thần du mục và tôtem của dân tộc du mục Trung Quốc, nên bắt đầu từ Huân Chúc cổ Hung Nô và Khuyển Nhung.
Theo cứ liệu lịch sử, dân tộc Nhung Địch tự kể về tổ tiên là hai chó trắng, và coi dân tộc du mục cổ xưa nhất ở tây bắc tôtem chó trắng, thuộc tộc Tây Khương, là thân cận với tổ tiên tộc Viêm Hoàng. Ngay từ thời Viêm Hoàng, Khuyển Nhung đã là kẻ thù mạnh của tộcViêm Hoàng Hậu Hán thư chép: "Xưa Cao Tân thị có giặc Khuyển Nhung, nhà vua sợ bị xâm lược, đem quân chinh phạt mà không thắng". Cao Tân thị là chắt của Hoàng đế, bố của Nghiêu đế. Sử liệu chỉ chép tôtem của tộc Khuyển Nhung là chó trắng, không ghi rõ chó hoang hay chó nhà.Có điều, chó trắng là chó hoang hay chó nhà liên quan rất lớn đến vấn đề tính cách dân tộc và hoàng loạt vấn đề then chốt vè nguồn gốc thờ tôtem của dân tộc du mục và dân tộc Trung Hoa.
Mình cho rằng, chó trắng chính là sói trắng, theo ghi chép của "Hậu Hán thư", đến triều Hán, trong phạm vi hoạt động của Khuyển Nhung trước kia xuất hiện nước sói trắng Tây Nhung dân số rất đông (Tây Nhung Bạch lang quốc). Đến đời Minh đế (Đông Hán) có trên trăm nước sói trắng, số hộ một triệu ba mươi vạn, dân số trên sáu triệu người, tình nguyện qui thuộc nhà Đông Hán. Vua sói trắng còn sai người làm ba bài thơ, gộp lại thành"Bạch lang ca" dâng Đông Hán hoàng đế. Do đó, mình cho rằng, nước sói trắng là biến giống từ nước chó trắng, vua sói trắng là hậu duệ của Khuyển Nhung, mà tộc sói trắng thì sùng bái sói trắng, lấy sói trắng làm tôtem của bộ tộc. Sự tồn tại của nước sói trắng cũng có thể chứng minh chó trắng mà Khuyển Nhung sùng bái rất có thể chính là sói trắng.
Bàn lùi một chút, ngay dù chó trắng không phải sói trắng, thì chó trắng phải như chó ngao Tây Tạng, to lớn và hung dữ hơn sói thảo nguyên. Theo cứ liệu lịch sử, tộc Khuyển Nhung cực kỳ hung tợn. Nhiều năm nghiên cứu các tộc du mục, mình thấy tộc Khuyển Nhung dã man nhất lâu đời nhất trong lịch sử, xét về tính cách dân tộc mà nói, không khi nào thờ chó nhà là con vật dễ sai bảo. Cũng như dân tộc sống trên lưng ngựa trên thảo nguyên xưa nay không khi nào thờ ngựa. Vì rằng ngựa là con vật thuần dưỡng, dân tộc thảo nguyên Trung Hoa không khi nào sùng bái con vật do mình thuần dưỡng, cũng không bao giờ đưa chó nhà lên làm linh vật của dân tộc. Hơn nữa, tôtem là sự sùng bái về tinh thần của dân tộc thảo nguyên, còn gia súc là nô bộc thường bị con người đánh đập sai khiến, chẳng thiêng liêng gì hết. Chúng mình ở thảo nguyên trên mười năm đều biết, mục dân tuy yêu chó, nhưng trong thâm tâm họ, địa vị sói và chó khác nhau xa. Chó là bạn chiến đấu của người thảo nguyên, còn sói là thần linh của người dân thảo nguyên.
Do đó mình cho rằng: Tộc Khuyển Nhung sùng bái chó trắng, hoặc sói trắng hoặc chó hoang trắng, một loại chó hoang cùng họ với sói, hình dáng giống sói, hung dữ như sói. Cho nên "tôtem chó" của tộc Khuyển Nhung thời đó cúng như "tôtem sói". Khuyển Nhung cổ được ghi chép trong lịch sử Trung Quốc, là một trong những bộ tộc du mục sùng bái sói sớm nhất.
Nói Khuyển Nhung là một trong những bộ tộc sùng bái tôtem sói sớm nhất, là vì, theo lịch sử ghi chép, tộc mẹ của Khuyển Nhung là tộc Khương cổ cũng sùng bái tôtem chó. "Tư trị thông giám", quyển 190 chép:'Đời Đường có Bạch Giản, Bạch cẩu Khương vào tiến cống', hơn nữa, Đường còn ‘cắt đặt dất Khương Bạch cẩu thành hai châu'. Điều này chứng tỏ tộc Khương cổ sùng bái chó trắng. Trên thực tế, dùng phép qui loại dân tộc mà xét, tộc Khuyển Nhung chính là tộc Tây Khương. Hứa Thận tại "Thuyết văn giải tự" giải thích: "Khương là người chăn cừu Tây Nhung", do đó Khuyển Nhung chính là Tây Khương, Tây Khương bao gồm Khuyển Nhung. Vậy thì các tộc "Khuyển Nhung", "Bạch cẩu", và "Bạch lang" (sói trắng) nói trên đều là tộc Tây Khương. Do đó có thể đoán dịnh rằng, tộc Tây Khương chính là dân tộc du mục lấy tôtem là chó trắng hoặc sói trắng. Tộc Khương cổ dũng mãnh "lấy chết trận là chuyện tốt lành, chết bệnh là chuyện dở" không khi nào sùng bái chó nhà tức chó đã thuần dưỡng, do đó "bạch cẩu" (chó trắng) mà tộc Khương cổ sùng bái không phải sói trắng thì cũng là chó rừng hung dữ hơn sói. Do vậy, tộc Khương cổ là dân tộc cổ xưa nhất sùng bái tôtem sói. Do một trong những thuỷ tổ nhân văn của Hoa Hạ là tộc Viêm đế họ Khương, một chi của tộc Khương cổ, mà Hoàng đế lại cùng họ với Viêm đế, vậy thì, nếu truy ngược lên, tôtem chó trắng, hoặc tôtemsói, là tôtem nguyên thuỷ chính yếu nhất của dân tộc Trung Hoa.
Sùng bái tôtem sói bắt đầu từ tộc Khương cổ xưa nhất của Hoa Hạ, tộc Khuyển Nhung và tộc cổ Hung Nô Hồn Chúc, rối đến các tộc du mục Bạch Lang (sói trắng), Hung Nô, Cao Xa, Tiên Ty, Đột Quyết, Khiết Đan, tiếp tục cho đến dân tộc Mông Cổ hiện nay. Đây là tôtem của các tộc du mục lâu đời nhất thế giới, trên thảo nguyên tây bắc và thảo nguyên Mông Cổ có sức sống mạnh mẽ, từng dân tộc du mục bị tộc du mục khác mạnh mẽ hơn đánh bại, tộc nọ thy thế tộc kia, nhưng tôtem sói và tinh thần sói thì vĩnh viễn tồn tại. Loại văn hoá tôtem và tinh thần này chưa bao giờ đứt đoạn, thậm chí có bề dày hơn cả lịch sử văn minh nông canh. Tiếc rằng giá trị tinh thần to lớn bao hàm trong tôtem sói, xưa nay chưa được người Hán sợ sói ghét sói coi trọng và nghiên cứu, thậm chí còn cố ý bỏ quên.
Đặc biệt quan trọng là hai nền văn hoá ở đại lục Trung Hoa "chưa từng đứt đoạn" này, văn hoá tôtem sói của dân tộc du mục có sức sống mạnh mẽ hơn, có giá trị hơn. Nếu không có tinh thần và văn hoá tôtem sói "chưa từng bị gián đoạn", thì văn hoá nông canh của dân tộc Hoa Hạ mầy nghìn năm có thể bị đứt đoạn. Văn minh mấy nghìn năm của Trung Quốc chưa khi nào bị đứt đoạn là một kỳ tích đã được công nhận trong lịch sử văn minh thế giới, mà kỳ tích đằng sau kỳ tích trên là nền văn minh tôtem sói lịch sử càng lâu đời hơn chưa từng bị đứt đoạn. Tôtem sói sở dĩ trở thành tôtem của rất nhiều bộ tộc du mục trên thảo nguyên tây bắc và thảo nguyên Mông Cổ bởi sức mạnh chinh phục không thể không sùng bái, sức hấp dẫn về trí tuệ không thể cưỡng lại. Tinh thần tôtem sói mạnh mẽ này là tinh tuý của tinh thần du mục Trung Hoa, nó ảnh hưởng sâu sắc đến tinh thần và tính cách dân tộc du mục tây bắc, ảnh hưởng sâu sắc đến dân tộc và văn minh Trung Hoa và cũng ảnh hưởng sâu sắc đến thế giới.
Mình cho rằng, tôtem sói và tinh thần tôtem sói có lịch sử lâu đời, chính là nguồn gốc sức sống bất diệt của tinh thần du mục cổ và hiện đại. Người Trung Quốc hiện nay phải cảm thấy may mắn và tự hào vì có một di sản tinh thần lâu đời vĩ đại và quí báu như thế. Giờ đã đến lúc lột bỏ cái vỏ nông canh cừu tính để tinh thần ấy toả sáng chói lọi. Nó là nguyên liệu tinh thần bản thổ quí báu nhất của công trình chuyển đổi tính cách dân tộc Trung Hoa đương đại. "Con sư tử ngủ phương đông" sẽ do tinh thần tôtem sói mà sống lại, thức tỉnh và vươn lên.
*
Hay lắm! Nữa đi! Dương Khắc khen rố rít rồi bật nắp lon bia đưa cho Trần Trận, bản thân cũng bật nắp một lon ngửa cổ uống một ngụm lớn, nói: Cậu đào sâu vấn đề này còn sâu hơn sói đào hang, đụng đến tận tổ tộc Viêm Hoàng. Mình đồng ý với kết luận của cậu. Mình cũng cho rằng, "bạch khuyển" (chó trắng) mà Khuyển Nhung Tây Khương sùng bái chính là chó rừng hoặc sói trắng. Minh hiện giờ vẫn rất sùng bái con Nhị Lang. Tôtem mà tộc Khương và Khuyển Nhung sùng bái là loại chó rừng như thế hoặc hung dữ như chó ngao Tạng, không khi nào sùng bái loại chó lớn nhưng chịu sai khiến, nếu không, sẽ khó lý giải do đâu các dân tộc du mục phương đông có sức mạnh như thế. Mình bị thuyết phục hoàn toàn. Nói tiếp đi!
Lon bia vào bụng, Trần Trận càng hào hứng. Anh ngồi xếp bằng tròn, lưng thẳng, tiếp tục thuyết trình: Sau Tây Chu, lịch sử bước vào thời đại chiến quốc, do tính cách mạnh mẽ của tổ tiên Hoa Hạ di truyền lại còn mạnh, do vẫn còn một số bộ tộc du mục ở Thiểm Tây, Sơn Tây Hà Bắc và vùng bắc Hoa bắc, thậm chí dải đất Bình Sơn thuộc huyện Định - Hà Bắc còn bảo lưu đồng cỏ chăn nuôi và dân tộc du mục, có một nước Trung Sơn trứ danh được thành lập từ thời Hung Nô đã mấy trăm năm, nổi tiếng thế giới về sản phẩm "Sói Trung Sơn", do đó tính cách dân Trung Sơn mạnh mẽ, xưng vương cùng với Hàn, Yên, Tống, còn chiếm một vùng rộng lớn của Yên. Thế mới biết trung nguyên Hoa bắc hồi đó còn rất nhiều đất đai và tính cách sói. Hơn nữa, khi đó trung nguyên thường xuyên bị các dân tộc du mục xâm nhập và tiếp máu, nên trong thời kỳ xuân thu chiến quốc, tính cách của toàn thể dân tộc Hoa Hạ vẫn mạnh mẽ, thậm chí mạnh mẽ tới mức sản sinh ra một chế độ chuyên chế trung ương tập quyền. Thời kỳ Xuân thu Chiến quốc, sói đàn đuổi hươu ở trung nguyên, chư hầu tranh bá Hoa Hạ, máu đẫm đại địa trung nguyên. "Nếm mật nằm gai, phấn đấu vươn lên", đó là hình ảnh tả chân của tính cách và tinh thần dân tộc thời bấy giờ, từ tính cách ấy mà tuôn trào những ý tưởng sắc bén, những sức mạnh tiến thủ như hoả diệm sơn liên tiếp trong 500 năm. Thời kỳ này, về tư tưởng văn hoá càng giống như một cuộc tạo sơn trời long đất lở, các "sói gia" như Nho gia, Đạo gia, Mặc gia, binh gia... trăm nhà đua tiếng, nhan nhản khắp nơi, một thời rrực rỡ chưa hề có về tư tưởng văn hoá trong lịch sử cổ đại Hoa Hạ. Về sau, Trung Quốc có mấy cuộc phục cổ về văn hoá, mưu toan khôi phục tinh thần và tính cách dân tộc thời ấy tuy không thành công, nhưng cũng đạt được nhiều thành tựu. Phong trào phục cổ của Hàn Dũ đời Đường, Âu Dương Tu, Tô Thức đời Bắc Tống đã dấy lên khí thế "Hàn triều Tô hải" ngất trời. Lịch sử đã chứng minh, không thể phục cổ về kinh tế chính trị, vì nếu làm vậy là thụt lùi, nhưng về tinh thần và tính cách dân tộc nhát thiết phải thường xuyên "phục cổ". Phong trào"Văn hoá phục hưng" của phương tây là một thành công vĩ đại.
Đến đời Tần, nước Tần lại có sự mở đầu tương tự mà không giống Tây Chu. Nước Tần cũng ở vào phía tây, do đó Tần cũng có khu vực du mục rộng nghìn dặm và cơ sở kinh tế nửa chăn nuôi nửa nông canh Tần Xuyên, Hán Trung, Ba Thục và một tính cách quốc dân pha tạp nửa sói nửa cừu trên cơ sở hình thành dân tộc này. Tính cách mạnh mẽ yêu cầu cải cách và nguyện vọng biến pháp. Thương Ưởng nhà Tần biến pháp lúc đầu thành công. Sáu nước lấy nông canh làm chính và tin theo Chu lễ, do cuộc sông nông canh quá dài nên tính cách quốc dân mềm yếu. Nước Tần mau chóng xác lập ưu thế áp đảo với sáu nước, đến đời Tần Thuỷ Hoàng quét sạch sáu nước, thống nhất Hoa Hạ. Năm 221 tcn, Tần Thuỷ Hoàng dựng nên một nhà nước trung ương tập quyền đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc. Tần Thuỷ Hoàng khai thác tính cách nhanh nhẹn của sói, dĩ kim phi cổ, đốt sách chôn nhà nho, cưỡng chế thực thi "viết cùng loại chữ, xe cùng loại trục, hành động cùng qui tắc", lại đắp trường thành, làm đường dũng đạo, thành lập kỵ binh, tấn công Hung Nô. Dám nói dám làm, khí thế dời non lấp biển, sáng tạo một thời đại hoàn toàn mới mạnh mẽ xốc tới. Cần nói thêm là, "ba cùng" về chữ viết, về xe cộ, về hành động, đã đặt nền móng cho sự thống nhất dân tộc Hoa Hạ. Trung Quốc "đại thống nhất" đầu tiên không phải do Nho gia thực hiện, trái lại, do Tần Thuỷ Hoàng - kẻ đốt sách chôn nhà nho dựng nên. Cũng cần nói thêm rằng, sự thành lập vương triều phong kiến chuyên chế trung ương tập quyền đầu tiên ở Trung Quốc, chứng tỏ tính cách quốc dân của dân tộc nông canh Hoa Hạ đã bắt đầu bộc lộ sự ươn hèn.
Thế nhưng Tần dựng nước trên đất đai Nhung Địch, đời Tần Mục Công diệt 12 Nhung quốc, mở rộng hàng ngàn dặm, trở thành "Tây Nhung bá vương", sử dụng phong tục tập quán và luật pháp của dân tộc du mục Tây Nhung. Tư Mã Quang nói Tần "ăn tham như sói", có thể thấy nước Tần chịu ảnh hưởng sâu sắc tính cách sói và tôtem sói của dân tộc Tây Nhung. Nước Tần khi ấy đã là một nước lớn ở phía tây, Tần Nhương Công từng được Chu Bình vương công nhận là chư hầu. Nhưng các nước chư hầu Hoa Hạ khác lại cho Tần là man rợ, quyết không thừa nhận Tần là một nước chư hầu Hoa Hạ, không cho Tần tham gia minh ước. Thành phần dân tộc du mục trong nội bộ nước Tần quả thực rất lớn, vậy nên sói tính trong tính cách quốc dân nước Tần quá mạnh. Sinh ra trên mảnh đất như thế, Tần Thuỷ Hoàng rất dễ trở thành bạo quân. Kết quả, bạo hành dẫn tới bạo loạn, những hảo hán sói tính tiềm phục tại sáu nước phất cờ nổi dậy, dân tộc Hoa Hạ mà tính cách đã bắt đầu ươn hèn, lại trở nên mạnh mẽ, khởi nghĩa vũ trang khắp nơi trên toàn quốc, khiến nhà Tần đến Tần Nhị thế thì suy vong.
Giai đoạn nhà Tần, dân tộc thảo nguyên tiếp cho dân tộc Hoa Hạ một đợt máu mang sói tính, làm nhạt máu cừu qua nghìn năm cuộc sống nông canh tràn đầy huyết quản, khiến dân tộc Hoa Hạ lại một phen trỗi dậy sói tính trong tính cách dân tộc.
Năm 206 tcn, Lưu Bang dựng nên vương triều Tây Hán. Thời kỳ Tây Hán, "Hán thừa Tần chế", thừa kế sói tính triều Tần, tính cách Hán Vũ đế thì như Tần Thuỷ Hoàng thứ hai, các sử gia đánh giá Vũ đế" không khác Tần Thuỷ Hoàng là mấy". Hung hăng hiếu chiến, dốc toàn bộ binh lực tài lực chinh chiến liên miên, không chịu thoả hiệp, diệt bằng được Hung Nô mới thôi. Triều đình nhà Hán bấy giờ phái chủ chiến chiếm ưu thế tuyệt đối, "những người hăng hái không sợ chết đầy triều", mang đậm tính cách dân tộc, coi chết trận là chuyện hay, chết bệnh là chuyện dở". Hán Vũ đế còn mạnh dạn dùng những tướng lĩnh đầy sói tính như Lý Quảng, Vệ Thanh, Hoắc Khứ Bệnh, lấy kỵ binh chống kỵ binh, lấy kỵ xạ chống kỵ xạ, hung hãn quả cảm, rong ruổi đường dài, thâm nhập thảo nguyên huyết chiến cùng Hung Nô trên chục năm, đánh cho Hung Nô mất hết sĩ khí. Hán Vũ đế hùng tài thao lược, biến trường thành vốn có tác dụng chống thâm nhập trở thành phòng tuyến bao vây kinh tế, một thứ vũ khí phong toả, nghiêm cấm xuất vũ khí đạn dược qua cửa quan, từng giết rất nhiều người vi phạm lệnh cấm.
Đương thời sinh trưởng trên mảnh đất màu mỡ, Nho gia đã lớn thành đại thụ, chui vào quan trường chủ đạo hình thái ý thức. Nho gia chủ trương lấy nghề nông làm gốc,khoan dưỡng sức dân, thuế má nhẹ nhàng; Chủ trương thực thi nhân chính, lấy thuần hoá để mềm hoá tính cách đổi lấy sự ổn định cho đất nước và xã hội. Chủ trương này được nhà vua tin dùng. Lấy điển chế trị quốc an dân, cầu được hoà bình phát triển. Về nhận thức, Hán Vũ đế cao hơn Tần Thuỷ Hoàng, ông ta hiểu vai trò của Nho gia. Do đó thời Tây Hán sói cừu kết hợp, bá đạo vương đạo đan xen, máu sói máu cừu đại để cân bằng. Thời Tây Hán, tính cách dân tộc Hán từ "sói dã man" thời Tần, phát triển thành "sói văn minh" thời Hán, đạt tới trình độ tốt nhất của "sói văn minh" thời cổ, gần như tương đương với tính cách dân tộc La Mã cổ đại, về mặt cường thịnh cũng không hơn kém nhau là mấy. Thời ấy dân tộc Hán dũng cảm ngoan cường, khai sơn phá thạch, hăng hái chống kẻ địch mạnh, tráng khí ngất trời. Thời ấy đất nước thịnh vượng, nước mạnh dân giầu, văn sử triết kinh, nghệ thuật khoa kỹ phát triển rực rỡ. Cuộc chinh phục tây bắc và tây vực lần thứ nhất đã mở rộng đất đai du mục của Hoa Hạ, cắt đứt nguồn tài chính của Hung Nô, tiêu diệt quân chủ lực Hung Nô, mở ra một thời đại huy hoàng 400 năm. Đế quốc đại Hán là một trong những thời đại rất đáng tự hào của dân tộc Hoa Hạ. Tiếc rằng những thời đại sau đó, tính cách dân tộc thuần Hán chưa khi nào đạt tới đỉnh cao như thế, từ đó trở đi, một mình Hán tộc không thể chông đỡ lâu đài văn minh Hoa Hạ.
Cùng với chính sách đồn khẩn thú biên được thực thi, nông canh xâm lấn thảo nguyên và những cuộc tấn công bằng quân sự đối với dân tộc thảo nguyên, và với "chính sách đuổi Nhung" tàn nhẫn, dùng vũ lực đuổi dị tộc ra khỏi biên giới, khiến dân tộc du mục chống trả quyết liệt, cuối cùng, dân tộc thảo nguyên tích luỹ được một lực lượng to lớn. Đến cuối đời Tấn, năm dân tộc thảo nguyên Hung Nô, Yết, Để, Khương và Tiên Ty trước sau tiến vào Trung nguyên, lần lượt thành lập 16 nước, sử gọi là "năm Hồ mười sáu nước". Tần Hán mấy trăm năm trở lại nông nghiệp phát triển mạnh, nông nghiệp Hoa Hạ chiếm ưu thế, toàn bộ tộc Hán đã trở thành tộc nông canh tiêu chuẩn, tính cách dân tộc cừu hoá, sợ chiến trận, sợ chết, không đỡ nổi một cú đánh. "Năm Hồ" như sói xông vào đàn cừu, toàn bộ trung nguyên biến thành thiên hạ của sói thảo nguyên khoảng 120 năm. Trong khoảng thời gian đó, sói tính ở trung nguyên cực thịnh, do đó tàn sát lẫn nhau, máu chảy thành sông, xương cốt đầy đồng, dân số giảm mạnh. Nhưng nguyên nhân nội tại vẫn tại bản thân văn minh nông canh, tính cách nông canh ôn hoà đôn hậu không thể chống lại kẻ xâm lược hung hãn.
Bắc Nguỵ thành lập nước năm 386, là một nước kết hợp tưong đối tốt sói tính và cừu tính. Mình rất thích Bắc Nguỵ. Tộc Tiên Ty và sau này là tộc Mông Cổ dựng nên Bắc Nguỵ đều thuộc Đông Hồ, hai dân tộc này có chung ngôn ngữ. Bắc Nguỵ xuất xứ tại núi Tiên Ty thuộc Bắc Lộc, dãy Đại Hưng An. Tiên sinh Hàn Nho Lâm, nhà nghiên cứu có uy tín, Hội trưởng Hội nghiên cứu lịch sử nhà Nguyên, nói: "Theo các học giả hiện đại, Tiên Ty chính là tộc Mông Cổ".
Ngay từ thời Hoà Đế đời Đông Hán, đại tướng Đậu Hiến đánh bại Hung Nô, Tiên Ty thừa cơ chiếm lĩnh đất cũ của Hung Nô, hơn mười vạn hộ Hung Nô tự xưng là Tiên Ty, gia nhập tộc Tiên Ty cùng với văn hoá Hung Nô và sự sùng bái nguyên thuỷ của người Hung Nô. Do đó Tiên Ty lại là dân tộc hỗn hợp Đông Hồ và Tiên Ty. Thác Bạt Bộ Tiên Ty cực kỳ hung hãn, nhưng văn hoá Tiên Ty cực kỳ lạc hậu, chữ viết chưa có. Thế nhưng họ có tính cách mạnh mẽ và cái đầu thông minh như sói thảo nguyên Mông Cổ, tài năng quân sự siêu việt, là một chi cự phách trong Đông Hồ. Bắc Nguỵ Thái Vũ Đế Thác Bạt Đào giống hệt thần sói oai vệ lạ thường. Ông ta dựa vào kỵ binh Tiên Ty dũng mãnh quét sạch đàn sói, chưa đầy mười năm đã thống nhất miền bắc Trung Quốc. Sau nhà Tây Chu, trong lịch sử Trung Quốc đã mở ra một triều đại đầu tiên do dân tộc thảo nguyên thiết lập.
Một điều thú vị nữa, Tiên Ty Thác Bạt rất thích dùng mưu như sói thảo nguyên, say mê văn hoá Hán, thêm một biểu hiện nữa về ý chí tiến thủ của dân tộc du mục trong việc khai thác và học tập. Thời kỳ Phùng Thái hậu và Hiếu Văn Đế ra sức đề xướng học tập văn hoá Hán, cổ vũ kết hôn với người Hán. Sau đó, hàng triệu Tiên Ty thiên đô về Lạc Dương, hoàn toàn sử dụng tiếng Hán, y phục Hán, chế độ Hán., thậm chí đổi họ Tiên Ty sang họ Hán. Thí dụ đổi họ Thác Bạt thị sang họ Trường Tôn thị, khiến sứ giả Giang nam người Hán không biết mình đến nước Hồ hay nước Hán.
Cần phải nói rõ một điều, dân tộc thảo nguyên chủ động tiếp thụ văn hoá Hán là có căn nguyên sâu sắc về chủng tộc. Trong văn hoá Hán cao nhất là sùng bái trời, tức sùng bái Tăngcơli, mà sùng bái trời trong văn hoá Hán bắt nguồn từ sùng bái Tăngcơli trong dân tộc thảo nguyên, là sự sùng bái nguyên thuỷ mà tổ tiên Viêm Hoàng đem từ thảo nguyên tới. Do đó sự sùng bái tối cao của dân tộc thảo nguyên Mông Cổ không mâu thuẫn với văn hoá sùng bái trời của dân tộc Hán, trái lại, do có mối căn duyên thời sùng bái nguyên thuỷ, nên tình cảm gần gũi dễ dàng tiêp thu. Về sau, tộc Mông Cổ bản thổ và tộc Hán Hoa Hạ không theo đạo Cơ đốc và Ixlam giáo mà đều theo Phật giáo vì có chung mối quan hệ lớn là sùng bái trời; Hai là, trong giới Nho học thời kỳ đầu một số có tinh thần mạnh mẽ vươn tới của dân tộc du mục, chẳng hạn như "thiên hành kiện, quân tử dĩ tự cường bất tức", "phú quí bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất", tinh thần kiên cường bất khuất này phù hợp với tính cách dân tộc du mục thảo nguyên; Ba là, Nho gia hoàn toân ủng hộ "thiên tử", tức "Con củaTăngcơli". Tóm lại văn hoá Hán vốn là văn hoá từ sau khi dân tộc du mục vào khu vực nông canh phát triển lên, vì vậy, sau này dân tộc thảo nguyên làm chủ trung nguyên, không cần làm lại văn hoá từ đầu, chỉ cần đem tới những thành quả văn hoá của lớp người đi trước và lớp người bây giờ là đủ. Đương nhiên, sau đó các tộc Tiên Ty, Mông Cổ đều nhìn thấy khiếm khuyết của văn hoá Hán, đã chọn lọc rất kỹ khi tiếp thu, và tăng thêm vào đó rất nhiều nội dung văn hoá du mục.
Cần giải thích một điều, quan điểm truyền thống cho rằng dân tộc du mục tuy có thể chinh phục trung nguyên bằng vũ lực, nhưng tộc Hán có thể chinh phục dân tộc du mục bằng văn hoá Hán. Đây là quan điểm sô vanh đại Hán tộc. Sai lầm lớn nhất của quan điểm này ở chỗ phủ định nhân tố phi văn hoá căn bản nhất - tác dụng chinh phục của ruộng đất Hoa Hạ. Đồng ruộng mênh mông của Hoa Hạ có thể chinh phục và mềm hoá tất cả những dân tộc du mục dũng mãnh, tác dụng chinh phục của đồng ruộng Hoa Hạ lớn hơn tác dụng chinh phục của văn hoá. Tính chất phiến diện trong quan điểm dân tộc du mục bị văn hoá Hán chinh phục, còn ở chỗ đã phủ định thành phần du mục trong văn hoá Hán, phủ định quyền sở hữu cục bộ của dân tộc du mục trong văn hoá Hán. Vả lại, trên thực tế dân tộc du mục cũng không bị văn hoá Hán chinh phục một cách bị động, mà dân tộc du mục chủ động chọn lọc văn hoá Hán, mà nguyên nhân quan trọng là trong văn hoá Hán có thành phần văn hoá du mục.
Cuộc cải cách của Thác Bạt Tiên Ty tương đối thành công, chính trị Bắc Nguỵ ổn định, kinh tế phồn vinh, dân số tăng vọt, quan hệ quốc tế rộng rãi mang dáng dấp một nước lớn ở phương đông. Hơn nữa, văn hoá phát triển, phật giáo thịnh hành, các hang động Vân Cương, Long Môn đến nay vẫn khiến người ngưỡng mộ, khiến các quốc gia Hán tộc Nam triều hủ bại, nội loạn triền miên không thể so sánh với Bắc Nguỵ, đến nỗi người Trung Quốc sau này phần lớn chỉ biết đến Bắc Nguỵ tiếng tăm lừng lẫy, mà rât ít biết những nước của người Hán cùng thời ở Nam triều như Tống, Tề. So sánh Bắc Nguỵ với Nám triều, thấy rõ văn hoá nông canh và tính cách dân tộc đã bộc lộ những yếu kém chí mạng của cừu tính. Dân tộc du mục một khi tập hợp được sức mạnh của cả dân tộc, hễ có thời cơ là chiếm trung nguyên bằng vũ lực,chỉ qua vài đời ngắn ngủi đã nắm trong tay thành quả văn hoá dân tộc Hoa Hạ sáng tạo trong mấy nghìn năm, thậm chí còn hơn hẳn một cái đầu. Còn dân tộc Hán thiếu tinh thần tiến thủ, tuy tiên tiến hơn dân tộc thảo nguyên về văn hoá, nhưng vẫn phải tiếp máu định kỳ hoặc không định kỳ để sống. Nếu trong khoảng vài trăm năm mà không được một lần tiếp máu qui mô lớn, xương cốt nó mềm đến nối không đỡ nổi ngôi nhà Hoa Hạ. Cổ nhân có câu: "500 năm tất có bậc vương giả". Trên thực tế, bậc "vương giả" đó chính là tinh thần và tính cách du mục, "vương giả" cụ thể là những người đại diện cho tinh thần và tính cách du mục.
Tiên Ty thống trị bắc Trung Quốc hơn 140 năm, lần tiếp máu và lai tạp dòng máu của dân tộc thảo nguyên đối với dân tộc ho Hạ nông canh só ý nghĩa rất quan trọng, ảnh hưởng rất sâu. Tiếp máu và pha máu thể hiện chủ yếu trên hai mặt: Một là ảnh hưởng sâu sắc về tinh thần và tính cách du mục đối với dân tộc nông canh sau khi dân tộc du mục xâm nhập trung nguyên. Cái gọi là "tiếp máu" chính là sự tiếp nhận tinh thần du mục; Hai là pha máu tạp giao đã tăng cường ưu thế lai, tăng số lượng người mang tính cách mới. "Ngũ Hồ nhập Trung Hoa" gây ra chiến tranh liên miên ở trung nguyên, Lạc Dương bị đốt cháy, máu chảy thành sông, nhân dân tan tác, dân số giảm mạnh. Chiến tranh loạn lạc lần đầu tiên tạo nên một cuộc thiên di lớn của dân tộc Hoa Hạ. Sử chép, trung châu, tức trung nguyên, chừng sáu bảy mươi phần trăm người Hán tản cư về Giang nam, dân số người Hán ở miền bắc càng ít đi. Sau đó,dòng người bất tận cuả dân tộc du mục, nhất là dân tộc Tiên Ty đổ về trung nguyên và Lạc Dương hoang vắng. "Trung Quốc thông sử giản biên" viết: "Dân số Quan trung một triệu người, Để Khương và Tiên Ty chiếm một nửa ". Nguỵ Hiếu Văn đế thiên đô từ Bình Thành về Lạc Dương, các quan văn võ và quân đội, kể cả hoàng gia, chỉ vẻn vẹn một triệu người. Để học tập văn hoá Hán và tăng cường dân số, tập đoàn thống trị Tiên Ty đích thân thực hiên chính sách thông hôn Tiên - Hán. Do ở địa vị thống trị, dân tộc du mục chiếm ưu thế về tài sản và quyền lực, nên tha hồ thông hôn nạp thiếp sinh con đẻ cái, khiến dân số du mục tăng trưởng nhanh hơn dân số nông canh. Vì vậy thông qua 260 năm tiếp máu và tạp giao, mười sáu nước Bắc triều trên thực tế đã trở thành vùng dân tộc hỗn hợp, số dân Hán tương đương số dân du mục nhưng ảnh hưởng của dân tộc Tiên Ty đặc biệt lớn.
Lần tiếp máu và pha máu này khiến tính cách và tinh thần dân tộc Hoa Hạ trung nguyên đã bị hèn yếu và cừu tính, mạnh mẽ trở lại. Nhưng cần phải chỉ ra rằng, dân tộc du mục Trung quốc tiếp máu và thông hôn với dân tộc nông canh Trung Quốc, với dân tộc nông canh mà nói, là sự việc đau khổ và tàn nhẫn, nhưng với "con bệnh Trung Quôc" thì lại là cấp cứu điều trị cần thiết, khách quan mà nói, nếu không có cuộc tiếp máu và thông hôn lâu dài và rộng khắp này, sẽ không có Tuỳ Đường vĩ đại sau này.
Bắc Nguỵ về sau chia cắt thành Đông Nguỵ và Tây Nguỵ, hai nước vẫn do tộc Tiên Ty chấp chính. Năm 550 Cao Dương phế Đông Nguỵ Đế, tự lên ngôi, đặt quốc hiệu là Tề, sử gọi Bắc Tề. Năm 556, người Tiên Vũ Văn Giác phế truất Tây Nguỵ Cung đế, tự lập làm vua, quốc hiệu Chu, sử gọi Bắc Chu, chính quyền Tiên Ty vẫn y nguyên. Thời kỳ Chu Vũ đế, một ông vua hùng tài thao lược lại diệt Bắc Tề, lại thống nhất bắc Trung Quốc.
Năm 581, đại thừa tướng Bắc Chu Dương Kiên phế truất Chu Tịnh đế cướp vương triều Bắc Chu,dựng nên nhà Tuỳ, ông chính là Tuỳ Văn đế nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc. Do đó nhà Tuỳ được thiết lập trên cơ sở nhà nước Tiên Ty. Sau Bắc triều, do năm tộc du mục được tiếp máu trong khoẩng 260 năm, dân tộc Trung Quốc là một dân tộc hỗn hợp do dân tộc Tiên Ty bao gồm dân tộc Hán và dân tộc du mục hợp thành. Và cũng do Dương Kiên cướp ngôi, lập ra nhà Tuỳ, nên tập đoàn thống trị Tiên Ty Bắc Chu vẫn được giữ lại về cơ bản, triều đình nhà Tuỳ đầy quan lại người Tiên Ty, ngay Hoàng hậu Tuỳ Văn đế là Độc Cô hoàng hậu cũng là người Tiên Ty. Độc Cô hoàng hậu là con gái đại tướng Độc Cô Tín, đại quí tộc Tiên Ty. Do vậy, từ triều Tuỳ trở đi, về mặt tổ chữc chính quyền và cơ cấu xã hội, tỉ trọng Tiên Ty cực lớn. Từ thành phần dân tộc mà xét, Tuỳ là triều đại vĩ đại do tộc Tiên Ty và tộc Hán cùng nhau dựng nên. Thời Tuỳ Văn đế, dân tộc trung nguyên tính cách mạnh mẽ, văn hoá phát triển, cũng là thời kỳ kết hợp tương đối tốt cừu với sói.
Vậy nên, triều Tuỳ hùng mạnh, sáng tạo, lập nhiều kỳ công đáng kính nể; thực hiện quân điền chế, đào sông, mở khoa thi, đánh bại 40 vạn quân kỵ của Đột Quyết hùng mạnh, chinh phục nam Trung Quốc, kết thúc tình trạng rối ren, chia cắt trong bao nhiêu năm, dưng nên một quốc gia thống nhất rộng lớn.
Có điều đặc biệt là, miền bắc Trung Quốc trải qua chiến tranh liên miên do các tộc du mục xâm nhập, lẽ ra phải lạc hậu hơn Nam triều không bị dị tộc xâm lấn, vậy mà trên thực tế hoàn toàn ngược lại. Tại Nam triều, các chính quyền Hán tộc Tống Tề Lương Trần đều hủ bại, yếu đuối bất lực, nội bộ lục đục. Sau đó, chính quyền Hán tộc nam Trung Quốc bị nhà Tuỳ diệt gọn dễ như trở bàn tay.
Từ đó, Trung Quốc cổ đại lại xuất hiện một qui luật: Trung nguyên phía bắc được các tộc du mục tiếp máu và thông hôn, cho dù bị chiến tranh tàn phá nghiêm trọng, nhưng vẫn có thể tiêu diệt hoặc bức hàng chính quyền Hán tộc nam Trung Quốc, còn chính quyền Hán tộc cuối cùng ở nam Trung Quốcdễ dàng bị quốc gia phương bắc tiêu diệt, không một ngoại lệ. Qui luật này còn thích ứng ngay từ thời Tần trở đi. Tần diệt Sở Ngô, Nguỵ diệt Thục, Tấn diệt Ngô, Tuỳ diệt Lương Trần, Tống diệt Hậu Thục Nam Đường Ngô Việt, Nguyên diệt Nam Tống, cho đến Thanh diệt Nam Minh, Tam Phiên Thái bình thiên quốc. Qui luật này đã chứng minh, tính cách du mục mạnh hơn rất nhiều so với tính cách nông canh. Tính cách mạnh mẽ là nhân tố có tính quyết định cho một dân tộc đứng vững trong một rừng dân tộc. Nam Trung Quốc thuần nông một khi đã mất đi tinh thần du mục Viêm Hoàng mà lại không được tiếp máu từ tinh thần du mục, là mất đi xương sống của dân tộc, thì dù kinh tế văn hoá phát triển, cũng không cách gì bảo vệ quốc thổ và nền độc lập quốc gia.
*
Trần Trận nhìn hang sói trên sườn núi thở dài, nói: Nhưng triều Tuỳ cũng chết yểu, nguyên nhân cơ bản là tỉ lệ sói cừu không cân bằng. Tập đoàn thống trị nhà Tuỳ sói tính quá mạnh so với cừu tính. Bản thân Tuỳ Dạng đế là con lai giữa người Hán và người Tiên Ty. Mẹ ông ta là Văn hiến Độc Cô hoàng hậu là một phụ nữ Tiên Ty hung hãn ngay cả Tuỳ Văn đé cũng sợ. Gia đình Độc Cô hoàng hậu đã cung cấp ba hoàng hậu (bao gồm cả Độc Cô trong đó) và một Hoàng Thái hậu. Chị ruột bà là Hoàng hậu Chu Minh Đế Bắc Chu, con gái lớn của bà là hoàng hậu Chu Tuyên Đế, chị em họ của bà là mẹ đẻ Đường Cao Tổ Lý Uyên nhà Đường. Dòng họ Tiên Ty nhà bà tính cách mạnh mẽ, thế lực to lớn, ảnh hưởng sâu sắc cá ba triều đại: Bắc Chu, Đại Tuỳ và Đại Đường. Bà ta ở hoàng cung, hậu cung không dám dâng phi tần cho vua, bà ta dám giết mỹ nữ mà vua yêu thích. Người phụ nữ đầy sói tính này nắm quyền lớn trong triều, cùng với Tuỳ Văn Đế xưng "nhị thánh". Độc Cô hoàng hậu còn lập mưu bỏ con trưởng lập con út Dương Quảng mà bà rất yêu, làm Hoàng Thái tử. Về sau, Độc Cô hoàng hậu trở thành người mẫu cho Võ Tắc Thiên bắt chước. Do vậy, Tuỳ Dạng Đế Dương Quảng do bú "sữa sói" mà thành "sói". Do kế thừa quá nhiều gen sói của mẹ, Tuỳ Dạng Đế là một bạo quân ít thấy trong lịch sử Trung Quốc, thích dùng vũ lực, tàn bạo ác độc, thuế má nặng nề, dân tình đói khổ. Tuỳ Dạng Đế huy động vài triệu quân, ba lần đi đánh Cao Ly thua cả ba, tổn thất nặng nề, sức nước suy kiệt, khiến cả nước chống lại ông ta. Nhà Tuỳ được 37 năm thì mất, tương tự nhà Tần. Năm 618, Lý Uyên quí tộc Hán đã Hồ hoá, lập nên nhà Đường.
Triều đại Đường mà người Trung Quốc rất tự hào, thực tế là một vương triều vĩ đại do hai tộc Tiên Ty và Hán cùng nhau tạo dựng nên, là sự kết tinh vĩ đại của tính cách sói với tinh tuý của văn minh Hoa Hạ, là đỉnh cao của văn minh Hoa Hạ cổ đại. Cũng giống như "Hán kế thừa chế độ nhà Tần", triều Đường kế thừa chế độ triều Tuỳ. Vương triều Lý Đường kế thừa hoàng tộc triều Tuỳ, đặc biệt là tính cách Tiên Ty hung hãn của phụ nữ hoàng triều Tuỳ. Về mặt tính cách huyết thống, ông vua khai quốc và và những bậc quân chủ trong vương triều Lý Đường, đều là con lai giữa người Hán đã Hồ hoá với phụ nữ quí tộc Tiên Ty. Mẹ đẻ, hoàng hậu và một con dâu Đường Cao Tổ Lý Uyên là người Tiên Ty. Bà nội, mẹ đẻ và Hoàng hậu Đường Thái Tôn Lý Thế Dân là người Tiên Ty. Cụ nội, bà nội, mẹ đẻ Đường Cao Tôn Lý Trị là người Tiên Ty. Còn mẹ đẻ Lý Uyên chính là chị em họ của hoàng hậu Độc Cô khét tiếng. Nhiều đời liên tục tạp giao, ảnh hưởng lâu dài về tính cách sói của gia tộc Tiên Ty, khiến máu Hán trong huyết thống gia tộc Lý Đường giảm xuống chỉ còn dưới một phần tư. Vì vậy giống lai chiếm ưu thế khác thường. Thái Tôn Lý Thế Dân lại càng nổi bật. Dũng mãnh ngoan cường, tính cách sói của ông ta được coi là nhất trong các đế vương. Thậm chí, gia đình họ Lý còn cho con trai thái tử đi học tiếng Hồ, ăn món ăn Hồ, ngưỡng mộ lá quân kỳ đầu sói của Đột Quyết. Những chuyên cực đoan này chứng minh huyết thống dân tộc thảo nguyên trong gia tộc Lý Đường và ảnh hưởng sâu rộng của nó.
Mình lấy mấy thí dụ trong "Tư trị thông giám" cho cậu nghe: Một bận, Lý Thế Dân cùng Lý Uyên xuất kích, Lý Uyên tiến quân bất lợi, Lý Thế Dân đích thân dẫn quân tiến đánh địch từ phía sau, sử dụng song đao đi trước sĩ tốt, tự tay giết chết mấy chục quân địch, giết đỏ mắt, đao mẻ mấy miếng, hai tay áo đẫm máu địch. Ông ta rũ sạch máu, tiếp tục xung sát cho đến khi quân địch bị đánh tan, chuyển bại thành thắng. Lại có lần Lý Thế Dân đánh nhau với Đậu Kiến Đức, Lý Thế Dân chỉ đem theo viên đại tướng Uất Trì Kính Đức và vài chục binh sĩ dụ địch. Năm nghìn quân kỵ của Đậu Kiến Đức lướt tới, Lý Thế Dân thiện xạ, bắn chết luôn một viên tướng và mấy tên địch. Uất Trì Kính Đức cũng bắn chết hơn mười quân địch, khiến mấy nghìn quân địch sợ không dám đuổi theo. Lại nữa, trong sự biến Huyền Vũ môn, vì lợi ích Đại Đường, Lý Thế Dân ra tay trước, bố trí quân mai phục giết anh và em ruột là Kiến Thành và Nguyên Cát. Lý Thế Dân bắn chết Kiến Thành mà không run tay, dũng mãnh như sói, đoạt lại ngôi Thái tử.
Lý Thế Dân dũng cảm thiện chiến, đại trí đại dũng, ngay cả kỵ binh Đột Quyết quân kỳ thêu đầu sói vàng, thậm chí Khan Đột Quyết cũng phải nể sợ. Đường Thái Tôn còn được phong là "Vua trời", cũng có nghĩa là "Vua Tăngcơli". Sau này nhà Đường hàng phục được Đột Quyết là nhờ ở sói tính trong gia tộc Lý Đường. Trong triều nhan nhản hiền thần danh tướng người thảo nguyên, trong đó nổi tiếng nhất là Trường Tôn Vô Kỵ. "Cựu Đường thư. Trường Tôn Vô Thị truyện" chép: Trường Tôn Vô Kỵ là người sắp đặt "Sự biến Huyền vũ môn" thâm hiểm, chính ông ta ra sức khuyên Lý Thế Dân ra tay trước, còn ông ta đích thân dẫn 9 người trong đó có Uất Trì Kính Đức, Hầu Quân Tập phối hợp Lý Thế Dân giết Kiến Thành và Nguyên Cát. Trường Tôn Vô Kỵ là đệ nhất công thần đưa Lý Thế Dân lên ngôi vua, đảm nhiệm chức Tể tướng trong suốt 30 năm. Trường Tôn Vô Kỵ là người Tiên Ty, tổ tiên là hoàng tộc Tiên Ty Bắc Nguỵ, là dòng họ thế gia,đại thần trong các triều Bắc Nguỵ, Tây Nguỵ, Bắc Chu, được phong vương, thế tập tước Công, bố ông ta là Hữu Kiêu Vệ Tướng triều Tuỳ. Trường Tôn Vô Kỵ lại là anh ruột Văn Đức Trường Tôn hoàng hậu Đường Thái Tôn. Bà nội, mẹ đẻ, Hoàng hậu, thậm chí Tể tướng đều là người Tiên Ty. Cậu thấy đấy, huyết thống và tính cách Tiên Ty trong vương triều đại Đường đậm như thế nào.
Sự vĩ đại của vương triều Đại Đường bắt nguồn từ tinh cách dân tộc vĩ đại, và cũng bắt nguồn từ những người phụ nữ vĩ đại trong triều. Ba người phụ nữ thời Đường sơ không chỉ sinh ra ba bậc đế vương kiệt xuất, mà còn đích thân thành lập đội nữ binh, một "Nương tử quân" đầu tiên ở Trung Quốc. Nữ hoàng đầu tiên ở Trung Quốc cũng bắt đầu từ triều Đường. Chúng mình lên thảo nguyên chẳng đã lĩnh hội rồi đấy sao? Dân tộc thảo nguyên rất tôn trọng phụ nữ, phụ nữ có địa vị rất cao, phần lớn phụ nữ dám nói dám làm, người như Caxưmai không hiếm. Dòng máu Tiên Ty trong triều quyết định công trạng lớn lao của những phụ nữ trong triều Đường. Theo "Tân Đường thư. Truyện các công chúa": Bình Dương công chúa, con gái Đường Cao Tổ Lý Uyên, khi Lý Uyên nổi dậy chống nhà Tuỳ, công chúa đến Quan Trung thành lập đội nữ binh liên tiếp đánh thắng quân Tuỳ và phát triển nghĩa binh đến 7 vạn người, tiếng tăm vang dội, lập công lớn khi Lý Uyên đánh chiếm Tràng An. "Tân Đường thư" chép: "Công chúa (Bình Dương công chúa - Lời người dẫn) dẫn một vạn tinh binh, hội quân với Tần vương tai Vị Bắc... tên gọi 'Nương tử quân'." Sơn Tây có cửa quan nổi tiếng tên gọi "Nương tử quan", sở dĩ có tên ấy là do Bình Dương công chúa từng trú quân nơi này. Mẹ đẻ Bình Dương công chúa là Thái mục Hoàng hậu Đậu thị người Tiên Ty, vợ Lý Uyên. Bình Dương công chúa là người phụ nữ kiệt xuất cùng cha cùng mẹ cùng tính cách cùng gây dựng giang sơn với Lý Thế Dân. Nương tử quân có ảnh hưởng sâu rộng tới phái nữ Trung Quốc, mà tinh thần Nương tử quân bao hàm tinh thần sói và tinh thần du mục phóng khoáng, khao khát tự do.
Lại nữa, Võ TắcThiên, nữ hoàng duy nhất ở Trung Quốc là ở đời Đường. Võ Tắc Thiên sinh ra ở Sơn Tây thấm đậm tinh thần du mục, có truyền thống cưỡi ngựa bắn cung. Tỉnh Sơn Tây là một trong những căn cứ địa của tộc Tiên Ty. Đô thành củaTiên Ty Bắc Nguỵ thời kỳ đầu đặt ở thành Sơn Tây. Bố đẻ Võ Tắc Thiên từng theo Lý Uyên khởi nghĩa chống Tuỳ, sau được phong ứng quốc công. Vì vậy cũng nên coi Võ Tắc Thiên là sói nữ trong dòng tướng.Về sau, Võ Tắc Thiên chịu ảnh hưởng tinh thần du mục của hoàng tộc Lý Đường, trở thành nhà chính trị kiệt xuất tính cách sói ở Trung Quốc. Về tính cách, dũng cảm kiên cường, trí tuệ siêu việt, tầm nhìn xa rộng, cứng rắn rất mực; về chính sách: Đả kích sĩ tộc, đẩy mạnh khoa cử, phá cách chọn người tài, khuyến khích nông tang, phát triển dân số. Duy trì suốt nửa thế kỷ sự hưng thịnh của triều đại Trinh Quan do Đường Thái Tôn khai sáng.
Trần Trận dừng một lát, đột nhiên hỏi Dưong Khắc: Cậu có chú ý bức hình Võ Tắc Thiên không?
Dương Khắc hơi bõ ngỡ, lắc đầu, nói: Không chú ý, cậu thấy có điều khác à?
Trần Trận nói: Mình đã xem chân dung bà ta, khuôn mặt phúc hậu, có tướng làm mẫu nghi thiên hạ. Tượng đá cao to nhất Lạc Dương được khắc theo lệnh bà ta. Bức tượng thần thái siêu nhiên, đẹp mà đoan trang, đầu và cổ đầy đặn. Nghe nói nhà điêu khắc thời ấy căn cứ vào người thật mà tạc, người Trung Quốc ai cũng biết. Về tiêu chuẩn thẩm mỹ, đời Đường coi béo là đẹp. Các vua đời Đường đèu tuyển người béo vào hậu cung. Đường Thái Tôn tuyển Võ Tắc Thiên làm phi. Con trai Đường Thái Tôn là Đường Cao Tôn Lý Trị theo đuổi Võ Tắc Thiên đến khi lập bà ta làm Hoàng hậu. Sau đó Đường Huyền Tôn lập Dương Ngọc Hoàn làm Quí phi. Các triều vua đều thích những phụ nữ béo tốt, hoàn toàn ngược lại tiêu chuẩn thẩm mỹ của các vua tộc Hán. Các vua Hán đa số tích những phụ nữ mảnh mai, tỉ như: "Sở vương thích eo nhỏ, hậu cung chết đói bỏ". Sủng phi Triệu Phi Yến của Hán Thành đế, "eo lưng chưa đầy chẹt tay", về sau được nhà vua đưa lên làm Hoàng hậu.
Vậy Hán Đường hai triều đại cùng nổi tiếng trong lịch sử, vì sao tiêu chuẩn thẩm mỹ lại khác nhau đến thế? Nguyên nhân là hoàng tộc nhà Đường và lịch đại các triều Hoa Hạ, huyết thống dân tộc khác nhau. Đời Đường "coi béo là đẹp", phản ánh sâu sắc huyết thống và dấu ấn dân tộc Tiên Ty. Mình trước kia vẫn thắc mắc hoài về chuyện vì sao triều đại trước thì chuộng gầy mà triều đại sau thì chuộng béo? Về sau, sau khi làm rõ huyết thổng Tiên Ty của vương triều Lý Đường thì mới vỡ nhẽ, rồi liên tưởng tới cuộc sống của chúng ta trên thảo nguyên, liền rất thông. Lúc đầu khi chúng ta mới lên thảo nguyên đã phát hiện người Mông Cổ coi béo là đẹp, thí dụ cô gái tròn xoay Zânxixicơ biệt hiêu "thùng tô nô" thì quả là béo, ngay Dương Quí phi cũng không béo bằng. Hồi đó có đến hơn nửa số mã quan vây quanh lấy lòng cô ta. Những cô gái Mông Cổ được mục dân coi là người đẹp vùng Ơlôn đều béo. Dân tộc Tiên Ty và dân tộc du mục thảo nguyên Mông Cổ có mối quan hệ nhân duyên với nhau. Chắc chắn dân tộc Tiên Ty truyền Lang đồ đằng cùng với tiêu chuẩn thẩm mỹ "béo đẹp" cho dân tộc Mông Cổ. Trên thực tế, dân tộc du mục vẫn coi nuôi béo gia súc là một nghề, coi "to béo" là đẹp, đương nhiên thẩm mỹ dân tộc cũng nhìn nhận như thế.
Dương Khắc gật đầu lia lịa rồi cười, nói: Đúng thế!... Nhưng hình như hơi xa đề thì phải?
Trần Trận nói: Không xa tí nào. Đời Đường coi "béo là đẹp", ý thức dân tộc trên bình diện thẩm mỹ chứng minh nguồn gốc tính cách vĩ đại vì sao mạnh mẽ như thế?. Người Hán luôn né tránh tinh thần du mục và huyết thống thảo nguyên đời Đường, trên thực tế người Hán rất không muốn ghi nhận quá nửa công tích của triều Đường thuộc về dân tộc thảo nguyên.
Mình nói tiếp... Lý Thế Dân hơn người ở chỗ ông ta đặc biệt coi trọng văn trị, chấp thuận chính sách "ngưng binh bị, lo văn giáo" do Nguỵ Trưng đề xuất, mở khoa thi, trọng can gián, ra sức giáo hoá, cải cách chính trị, giảm sưu thuế, khuyến khích làm kinh tế, mở ra triều đại Trinh Quan thịnh trị nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc, cương thổ nhà Đường rộng lớn hơn bất cứ thời đại nào trước đó.
Mình đặc biệt nhấn mạnh: Lý Thế Dân là vị vua đầu tiên ở Trung Quốc đề xuất chính sách "Hoa Di bình đẳng". Ông ta nói: "Xưa nay quí trọng Hoa, khinh rẻ Di Địch, riêng Trẫm yêu cả hai như nhau, nên chúng coi Trẫm như cha mẹ". Chính sách "Hoa Di bình đẳng" được đưa ra trông bối cảnh Hoa Di thông hôn, sói tính cừu tính cân bằng về tính cách trong vương triều Lý Đường. Xưa kia và sau này, tư tưởng Nho gia chính thống ra sức" tôn Hoa biếm Di" (đề cao Hoa, bài xích các dân tộc không phải Hoa), là không nhận thấy giá trị to lớn của tinh thần du mục và tính cách dân tộc thảo nguyên và sự cống hiến có tính cứu nguy đối với dân tộc và văn minh Hoa Hạ. Nho gia còn đưa tinh thần và tính cách đó thành đối tượng chính để đả kích. Chỉ mỗi Lý Thế Dân mang trong mình dòng máu du mục, mới nhìn thấy cả ưu lẫn khuyết của dân tộc Hán và dân tộc thảo nguyên, và đích thân thực hành chính sách "Hoa Di bình đẳng". Triều Đường sở dĩ đạt tới đỉnh điểm huy hoàng của nền văn minh cổ đại, nguyên nhân cơ bản là đã kết hợp được tính cách dũng mãnh cầu tiến của dân tộc thảo nguyên với tinh hoa Nho gia của dân tộc nông canh. Tiếc rằng, đất đai Trung Quốc quá rộng, tư tưởng trác việt "Hoa Di bình đẳng" của Lý Thế Dân nhanh chóng bị ý thức nông canh hẹp hòi Hoa Hạ và tư tưởng chính thống Nho gia bóp chết.Về sau,cuộc tiếp máu mới cấp cứu dân tộc Hoa Hạ vân do dân tộc thảo nguyên cưỡng chế, nhưng con bệnh nông canh tộc Hán đã trầm trọng, tiếp máu kiểu nào cũng không vực dậy được phong cách dân tộc hào mại, dũng mãnh thời kỳ thịnh trị Hán Đường. "Sư tử ngủ phương đông" là trạng thái ngủ đông bắt đầu từ Trung Đường, mà đồng ruộng bao la Hoa Hạ chính là "chiếc giường êm" cho sư tử ngủ say, còn Nho học là liểu thuốc ngủ.
Bắt đâu từ loạn An Sử cho đến Năm Đời Mười Nước trong khoảng 200 năm, Hoa Hạ trở lại cừu tính, đất nước rối ren. Từ đó dân tộc nông canh Hoa Hạ bắt đầu xuống dốc, tuy đôi lần xuất hiện đỉnh nhỏ, nhưng xu thế xuống dốc không thể cứu vãn. Duy trì bảo vệ văn minh và quốc thổ Hoa Hạ ngày càng dựa vào dân tộc thảo nguyên.
Tuy toàn bộ dân tộc nông canh đang hèn đi, nhưng soi tính di truyền trong dòng máu Viêm Hoàng của tổ tiên, cùng với những cuộc tiếp máu thông hôn không ngừng, trong đông đảo nông dân Hoa Hạ vẫn còn giữ lại được một ít hạt giống kiên cường dũng mãnh. Những cuộc khởi nghĩa của nông dân trong lịch sử Trung Quốc, chính là sự phản kháng của nông dân do một số hảo hán mang sói tính cầm đầu. Nhưng khởi nghĩa nông dân chỉ là công cụ để thay đổi triều đại, một khi khởi nghĩa thắng lợi, cũng không đem lại chút gì mới mẻ cho vương triều mới. Cuộc đại khởi nghĩa nông dân do Hoàng Sào lãnh đạo cuối đời Đường coi như một hành động quan trọng phục hưng dân tộc, không thành công. Tìm nguyên nhân, khởi nghĩa nông dân là "sản phẩm phụ" sản sinh từ mảnh đất nông canh, nó không tránh khỏi những hạn chế do tính chất ươn hèn của vương triều nông canh. Đại quân khởi nghĩa Hoàng Sào thế như chẻ tre, mà lại còn ngu xuẩn đốt cháy thành Tràng An, công trình hùng vĩ nhất của Trung Quốc cổ đại, nhưng nó vẫn bị kỵ binh Sa Đà không tên tuổi của Tây Đột Quyết tiêu diệt. Đó là do kẻ được tiếp máu cơ địa không bằng kẻ tiếp máu. Từ sau Hán Đường, dân tộc nông canh Hoa Hạ bất luận quân chính phủ hay quân khởi nghĩa nồng dân giao chiến với kỵ binh du mục đều thua nhiều thắng ít.
Đến Năm Đời Mười Nước là thời kỳ động loạn dữ dội do sói tính mạnh hơn cừu tính quá nhiều. Trong Năm Đời Lương Đường Tấn Hán Chu, Hậu Đường Hậu Tấn Hậu Hán, đều là chính quyền Sa Đà Tây Đột Quyết. Cùng thời, còn có nước Liêu hùng mạnh, là đất nước của dân tộc du mục do Khiết Đan - hậu duệ của Tiên Ty, dựng nên.
Năm 960, Triệu Khuông Dận không tốn một giọt mồ hôi, vong ân bội nghĩa cướp Bắc Tống do Chu Thế Tôn dựng nên sau khi đánh chiếm trung nguyên. Thời kỳ đầu, Bắc Tống ăn theo cuộc tiếp máu thời kỳ Năm Đời, còn có chút sinh khí. Nhưng Tống Thái Tổ không có chút nhuệ khí của "sói văn minh" như Hán Vũ đế và Đường Thái Tôn. Tống Thái Tôn hai lần bắc phạt đều bị nước Liêu đánh cho tơi tả, nhưng khi ông ta thu phục các nước Hán tộc phương nam thì dễ như trở bàn tay.
Từ sau Trung Đường, trọng tâm kinh tế Trung Quốc từ miền bắc chuyển xuống miền nam. Thời kỳ Đường mạt, Năm Đời kinh tế miền bắc bị phá hoại nghiêm trọng, sự cách biệt giữa hai miên nam bắc càng lớn. Thực lực kinh tế lớn mạnh của các nước Hán tộc miền nam không vực nổi tính cách dân tộc đã nhu nhược. Các vị đế vương phương nam từ lâu xương cốt đã nhũn ra vì "xuân hoa thu nguyệt", "điêu lan ngọc thế" và phong cảnh giang nam. Do đó, miền bắcđã được tiếp máu mang sói tính, dễ dàng tiêu diệt hoặc thu phục các nước Hán tộc miền nam. Lý Hậu chủ, Ngô Việt vương lần lượt đầu hàng. Hán Đường xuân thu, các nước miền nam Trung quốc mà khí thế và tính cách "dời non lấp biển", "khí tráng sơn hà", "ba nghìn giáp sĩ nước Việt nuốt chửng Ngô", "Sở tuy ba hộ, nhưng diệt Tần chính là Sở"... nay không còn nữa. Môi trường nông canh lâu dài cộng với Nho giáo, đã "nhũn hoá" miền nam Trung Quốc không thảo nguyên.
*
Trần Trận tiếp tục nói: Triều Tống là thời kỳ tính cách quốc dân Hán tộc có sự chuyển biến về chất. Ngoại trừ tích luỹ rất nhiều nhân tố bất lợi, sự chuyển biến về tính cách đối với Hán tộc triều Tống, có hai tác dụng quan trọng và đặc thù:
Trước hết, Bắc Tống không còn sức thu hồi thảo nguyên vốn có từ Hán Đường. Gọi là Đại Tống, nhưng cương thổ không bằng một nửa thời Hán Đường. Phía bắc bao gồm nước Liêu Khiết Đan khuôn viên vạn dặm gồm miền bắc Hoa bắc và thảo nguyên Mông Cổ. Phía tây là Đảng Hạng Tây Hạ dũng mãnh và Khương tộc Thổ Phiên. Phía tây nam là nước Đại Lý của dân tộc Bạch. Cục diện đó dẫn đến hậu quả nghiêm trọng. Vốn là từ Viêm Hoàng tới Hán Đường, Hoa Hạ có khu chăn nuôi gồm thảo nguyên lớn Bắc bộ và Tây bắc hoàn toàn có khả năng tạo máu với tính cách mạnh mẽ. Thảo nguyên rộng lớn trong lịch sử đã đàp tạo cho dân tộc Hoa Hạ biết bao quân hùng tướng mạnh và những đế vương kiệt xuất. Xưa có câu: "Quan Tây sản sinh ra tướng võ, Quan Đông sản sinh tướng văn". "Lương Châu quan võ, phong thổ binh nhung" (Tống sử. Lý Cương truyện). Lại nói: "Tự cổ trung hưng tự tây bắc, nhưng chiếm cứ trung nguyên thì phải đông nam". Thời Hán Đường, các đế vương hùng tài đại lược sở dĩ tha hồ kinh doanh tây vực, nắm chắc thảo nguyên tây bắc, vì hiểu sâu sắc nơi đây bảo vệ cái gốc nền văn minh Trung Hoa, còn tinh thần và tính cách du mục là xương sống của Trung Hoa. Thời kỳ Hán Đường, hạ tầng cơ sở bán nông bán mục (nửa trồng trọt nửa chăn nuôi) duy trì mạng sống của tính cách nửa sói nửa cừu của dân tộc Hoa Hạ. Triều Tống bất lực không thể thu hồi thảo nguyên tây bắc - mạng sống của dân tộc Hoa Hạ, đã ảnh hưởng chí mạng tới sự chuyển biến tính cách cuối cùng của dân tộc Hán.
Thứ đến, sự thịnh hành của "lý học" triều Tống. Do Hoa Hạ triều Tống chỉ còn quốc thổ thuần nông canh, cây đại thụ Nho giáo Trung Quốc bị mảnh đất thuần nông canh càng phát triển càng nông canh hoá, ngày càng cực đoan. Sự xuất hiện "lý học" triều Tống làm yếu hẳn đi tinh thần vươn lên của Nho gia thuở ban đầu, trái lại, tăng cường đè nén áp chế "tinh thần mới" trong tính cách dân tộc. Tai hại nhất là đề xuất "tồn thiên lý, diệt nhân dục": Tam cương ngũ thường là thiên lý, phải dùng "thiên lý" này diệt trừ nhân dục. Với sói tính và sói dục thì lại càng phải đào tận gốc trốc tận rễ. Chỉ có bịt đường sói thì mới thênh thang đường cừu. Lý học áp chế dân tộc Hán tới mức chỉ biết vâng lời như trâu ngựa đã thuần hoá, bất chấp tất cả, khiến sức sản xuất dưới triều Tống phát triển mạnh mẽ, còn chế tạo ra vũ khí nổ tiên tiến nhất có sức uy hiếp nhất thế giới hồi ấy, như súng hoả mai, hoả tiễn, hoả tật lê, tích lích pháo, súng phun lửa ...Mặc dù vậy, vẫn không cứu vãn nổi sự khuyết khiếm trong tính cách dân tộc ngày càng ươn hèn, càng cừu hoá.
Lịch sử đã chứng minh, một dân tộc muốn phục hưng và giàu mạnh, phải phát triển sức sản xuất, nhưng không thể "duy sức sản xuât". Phát triển sức sản xuất là cơ sở chấn hưng dân tộc, nhưng vẫn chưa phải là cơ sở của cơ sở, phải bồi dưỡng tính cách dân tộc cùng với phát triển sức sản xuất, mới chắp đủ hai cánh cho dân tộc bay lên.
Đến triều Tống, về tính cách, Hán tộc Hoa Hạ thuần nông canh rốt cuộc chuyển hoá từ "văn minh sói" mạnh mẽ thời Hán Đường, xuống "văn minh cừu" nhu nhược.
Vậy mà Bắc Tống vẫn có 160 năm ổn định và phồn vinh. Nhưng đó không phái tự thân nó lớn mạnh, mà do kẻ địch mạnh Khiết Đan nước Liêu phát sinh chuyển biến to lớn về tính cách dân tộc. Nước Liêu trước khi triều Tống thiết lập mười mấy năm, đã chiếm khu vực nông nghiệp Hán tộc ở 16 châu U Vân Hoa bắc. Sau đó, nông nghiệp Liêu phát triển mạnh mẽ, lan rộng ra vùng đất đen phía đông bắc. Qua mấy chục năm khai khẩn trồng trọt, dẫn đến tỉ lệ nông nghiệp trong kinh tế nước Liêu ngày càng cao,đông đảo mục dân biến thành nông dân. Vậy là từ một đất nước thuần du mục dần trở thành nước bán canh bán mục lấy nông nghiệp làm chính. Thế là qui luật thép nông canh làm yếu tính cách dân tộc cũng tác động mãnh liệt nước Liêu Khiết Đan, tính cách sói của tộc Khiết đan bắt đầu yếu đi. Thời kỳ Tiêu Thái hậu, hai nước Liêu Tống ký kết hoà ước bất bình đẳng "Minh ước Đàn Uyên". Triều Tống mỗi năm cống nộp Liêu một khoản kếch sù, Tống Chân Tôn còn gọi Tiêu Thái hậu bằng thím, nhưng chiến tranh lâu dài cơ bản chấm dứt, hai nước "hoà bình hữu nghị", yên tâm ngủ ngon, hai nước yên ổn trong hoàn cảnh nông canh, cả hai cùng giàu lên và cùng yếu đi về tính cách.
Nhưng cừu muốn lặng mà sói chẳng dừng, qui luật này vẫn chi phối thế giới. Trong khi nông nghiệp nước Liêu ngày càng phát triển, Nữ Chân một dân tộc du mục sinh sống trên lưu vực Hắc Long giang và Tùng Hoa Giang trỗi dậy mau chóng. Để thoát khỏi sự áp bức của nước Liêu, lãnh tụ Nữ Chân Wan En A Cu Ta dẫn kỵ binh Nữ Chân hung dữ như sói tấn công nước Liêu, nhanh chóng chiếm lĩnh một khu vực rộng lớn của Liêu và thành lập nước Kim. 20 năm sau, triều Kim Thái Tôn, Kim diệt Liêu. Nước Liêu bán canh bán mục cũng không cản nổi kỵ binh dũng mãnh như sói của Kim, nói gì đến Bắc Tống lúc này tuy giàu có nhưng yếu đuối kiểu "văn minh cừu"!
Con cừu đầu đàn của "văn minh cừu" Tống Huy Tôn đã "văn minh" tới mức trở thành một hoạ sĩ kiệt xuất, vẽ chim muông hoa lá mềm mại hơn thêu. Kim Thái Tôn có con mắt tinh đời, nhìn ra ngay chất "cừu" của triều Tống. Quân Kim sau khi diệt Liêu, không cần chỉnh đốn quân sĩ, tiến thẳng xuống phía nam khiến Tống Huy Tôn sợ quá lập tức thoái vị, nhường ngôi cho con trai là Triệu Hoàn, đó là Tống Khâm Tôn. Đây là hai vị vua hủ bại bất tài nhất Trung Quốc. Năm sau. Quân Kim lại tấn công nước Tống, quân Tống bạc nhược như cừu thấy sói, chạy tán loạn. Khai Phong gần như mở cổng thành rước địch, quân Kim đánh chiếm dễ dàng, bắt sống cả hai vua Huy Khâm, bạc vàng châu báu trong kho bị vét sạch, mấy nghìn mỹ nữ hậu cung bị đem về Kim làm thê thiếp. Bắc Tống, một nước mà khi ấy dân số lớn nhất thế giới, sức sản xuất phát triển nhất, có vũ khí lửa tiên tiến nhất, có "Tôn tử binh pháp" trí tuệ nhất, gần như không đánh đã thua, hai năm thì mất nước. Nước Tống khi ấy gì cũng có, nhưng cái mà họ thiếu là tính cách dân tộc mạnhmẽ, "xương sống" của dân tộc.
"Nỗi nhục Tịnh Khang" là sự sỉ nhục lớn nhất của tộc Hán Hoa Hạ, thậm chí còn nhục hơn nỗi nhục của Thanh mạt sau này. Mãn Thanh chí ít còn dám đánh nhau vài trận với liệt cường, cầm cự vài chục năm, và cũng không nhường ngôi cho liệt cường. Một dân tộc nếu như không coi tăng cường tính cách dân tộc là quốc sách cơ bản, thì dù kinh tế văn hoá phát triển đến đâu, dân số quân đội đông đảo đến mấy, kết cục sẽ như vết xe "Bắc Tống".
May mà Trung Quốc khi đó rất xa văn minh Cơ đốc giáo và văn minh Ixlam. Nếu như quân Kim hồi đó là quân đội văn minh cao cấp thì dân tộc Hoa Hạ có thế đã đổi tên, đổi văn hoá, đổi nòi giống, đổi tín ngưỡng. Các dân tộc Tây vực vốn tìn ngưỡng Phật giáo, về sau bị buộc phải theo đạo Ixlam mà thay đổi tất cả đó sao? Chuyện nàycũng không can hệ đối với Tống, vì khi đó Tống đã không đủ sức thu hồi Tây vực.
Cùng với sự tăng trưởng tính nông canh, tính cách dân tộc Hoa Hạ ngày càng ươn hèn, đất đai rộng lớn bị mất, thủ đô Hoa Hạ từ nơi tiếp cận khu vực du mục bỏ chạy về khu vực thuần nông, từ tây bắc rút về đông nam, càng rút càng ươn hèn, càng ươn hèn càng rút chạy. Từ Tràng An của thời kỳ Tần Hán Tuỳ Đường, rút về Lạc Dương của Đông Hán Tây Tấn, lại rút về Khai Phong của Bắc Tống, cuối cúng rút chạy về Nam Kinh, Hàng Châu của Nam Tống. Hàng Châu khi ấy là quê hưong của nhứng lời ca điệu múa mượt mà, tự nhiên trở thành quốc đô cuối cùng của tộc Hán triều Đại Tống. Nếu một dân tộc chỉ đầu và tay phát triển mà không có xương sống rắn chắc, cũng chỉ có thể trở thành một con vật nhuyễn thể không xương. Nam Tống ươn hèn bất tài cuối cùng chỉ còn cách dâng ngọc tỉ truyền quốc cho vương triều Mông Cổ, cả nước đầu hàng. Tình trạng bắc mạnh nam yếu kéo dài cho đến thời cận đại sau khi văn minh phương tây đổ vào nam Trung Quốc kinh tế, kỹ thuật và tư tưởng, mới thay đổi về căn bản.
Trần Trận thở dài, nói: Nhưng mình ngưỡng vọng Tăngcơli, nghĩ kỹ thấy Tăngcơli là đúng. Một dân tộc tính cách ươn hèn mà làm chủ đất đai rộng lớn và phì nhiêu đến thế, Tăngcơli cũng xấu mặt, lẽ trời lồng lộng, khó có thể dung tha một dân tộc mà tính cách "tròn trịa" như thế này. "Lẽ tròi" không sai, những nông phu nhu nhược đừng kêu thiên hạ tàn nhẫn, trên thực tế các nông phu cũng căn cứ vào lẽ trời mà đối xử với hoa màu, quyết không để cây xấu cây tồi chiếm chỗ đất tốt, mà phải cuốc bỏ, nhường chỗ cho những cây tốt cây khoẻ. Có điều, Tăngcơli chưa khai trừ dân tộc "tròn trịa" này, vì rằng đầu và tay dân tộc Hoa Hạ rất nổi tiếng, thuần hoá sớm nhất quả lật và cây lúa, sáng tạo ra kỹ thuật tiên tiến nhất cung cấp cho bốn phát minh lớn: tơ, trà, đồ sứ, nghề nhuộm và văn sử triết kinh mênh mông như biển. Đặc biệt là bốn phát minh lớn: La bàn giúp các dân tộc trở thành nhà hàng hải chân chính, giúp họ trở thành sói biển nhận rõ phương hướng trên đại dương, giúp họ phát hiện đại lục mới, tích luỹ nguyên thuỷ cho chủ nghĩa tư bản; Làm giấy, kỹ thuật in, và thuốc súng thì lại giúp các dân tộc phương tây đánh sập thành luỹ phong kiền phương tây ngu muội và ngoan cố hồi trung thế kỷ. Dân tộc Hoa Hạ đã cống hiến to lớn cho văn minh thế giới, nên ông trời có mắt, Tăngcơli sai người con cả - dân tộc du mục thảo nguyên dạy dỗ cẩn thận thằng em nông canh hèn đớn, liên tục tiếp máu, cứng hoá xương sống cho nó, để nó lại đứng vững.
Nông canh tiếp tục phát huy tác dụng to lớn mềm hoá tính cách dân tộc. Khiết Đan sau khi diệt Liêu, nước Đại Kim hùng mạnh lại sa váo vết xe đổ của nước Liêu. Nước Kim hồi đó nông nghiệp rất phát triển, khi cực thịnh, diện tích canh tác lớn hơn cả nước Tống. Nhân khẩu nông nghiệp bột phát gia tăng, từ 3 triệu hộ ban đầu, phát triển lên 7,6 triệu hộ, dân số 45 triệu người, vượt dân số cả nước thời Tống Chân Tôn. Kết cục, dân tộc Nữ Chân cũng ngày càng bạc nhược.
Mặt trời đã trở màu vàng, thảo nguyên Ơlôn giống như một đại sa mạc màu vàng kim, thung lũng mà xưa kia đàn sói thường lui tới, bóng râm đã phủ quá nửa. Trần Trận đứng dậy rồi theo bản năng, nhìn lên hang sói trên sườn núi. Thời làm dương quan, mặt trời trở màuvàng là phải đề phòng sói ra bắt cừu. Sói gây ấn tưọng trong anh sâu sắc hơn bị rắn cắn. 20 năm đã qua, lúc này, trên sống lưng lại tái hiện cảm giác lạnh toát. Anh duỗi chân duỗi tay, bảo Dương Khắc: Đã về được chưa? Caxưmai chắc sốt ruột lắm rồi đấy.
Dương Khắc đang hào hứng nghe, vội xua tay: Không sao, Caxưmai biết rõ chúng mình có cái tật là đã trò chuyện là bất kể sớm tối. Lúc đi mình đã nói với chị ấy, có thể đêm nay không về nhà ngủ, đi thăm một đội. Cậu đã học được cách kể chuyện của ngưòi kể chuyện rong, đến đoạn gay cấn nhất, lại "Muốn biết sự thể ra sao, xin xem hồi sau sẽ rõ". Mình biết, hồi sau là kỵ binh Mông Cổ vào chuyện. Lên xe đi! Mình ngả ghế, cậu nửa ngồi nửa nằm mà nói, còn mình cũng vậy mà nghe. Tiếp tục đi!
Trần Trận lên xe, nửa nằm nửa ngồi, nói: Không ngờ mở hội thảo ngay tại nơi sói con ra đời, rất dễ nhập vai. Mình đã tiếp nhận địa khí của hang sói.
Trần Trận lập tức kể tiếp: Đến khi dân tộc thảo nguyên Mông Cổ trỗi dậy, đừng nói gì dân tộc nôngcanh Trung Quốc bạc nhược tới mức không chịu nổi một đòn, mà tất cả nhứng dân tộc nông canh trên thế giới không còn đủ sức đánh trả. Mười mấy vạn kỵ binh Mông Cổ sở dĩ càn quét châu Âu là do hai nguyên nhân chính:
Nguyên nhân thứ nhất, dân tộc Mông Cổ là dân tộc du mục tin thờ linh vật sói chân thành nhất, coi sói là tôtem, thú tổ, thần chiến tranh, tông sư, hình mẫu và hộ pháp của các dân tộc du mục.
Người Mông Cổ không chỉ thừa nhận tổ tiên mình là "sói xanh "từ trên trời xuống, hơn nữa, lãnh tụ của những bộ tộc hạt nhân, thậm chí bản thân những bộ tộc hạt nhân còn gọi mình là sói. Vì vậy nhà sử học Ba Tư Laxthơ trong quyển I danh tác "Sử tập" chỉ ra rằng, Gia tộc Lục tổ Hai Đô Khan sinh ra Thành Cát Tư Khan (quen gọi Thành Cát Tư Hãn), Ngũ tổ Basânnhi Khan và Tứ tổ Đônpinai Khan phát triển đến đời Tứ tổ Thành Cát Tư Khan,đã xuất hiện một bộ lạc hạt nhân trực hệ vương tộc Mông Cổ - "bộ lạc xinaxư". Hai lãnh tụ của bộ lạc này chính là hai con trai của Tứ tổ Thành Cát Tư Khan Đônpinai Khan, một người tên Kiên Đô - Xíchna, một người tên Anlukhơsân - Xíchna. Tiếng Mông Cổ, Xíchna nghĩa là "sói". Laxthơ nói: "Kiênđô Xíchna" nghìa là sói đực, "Anlukhơsân Xíchna" là sói cái. Do vậy tên của hai vụ lãnh tụ này là sói đực và sói cái. Không chỉ có thế, họ còn gọi tên bộ lạc của họ là "Xíchnasư", có nghĩa là đàn sói. "Bộ lạc Xíchnasư" có nghĩa là "bộ lạc sói đàn". Nhà sử học hàng đầu về Mông Cổ Hàn Nho Lâm tiên sinh giải thích: "Xíchnasư là số nhiều, có nghĩa là tập đoàn sói".
Hơn nữa, bố đẻ ông chú Thành Cát Tư Khan cũng lấy sói để đặt tên. Laxthơ chỉ ra rằng: Xaxưhơ Lincôn sau khi anh trai chết, lấy chị dâu làm vợ... Người vợ đầu của ông ta lại sinh thêm mấy người con trai, trong đó một người thừa kế ngôi vị của cha và rất nổi tiếng, tên ông ta là Xuơnhâytuhu - Xíchna. Ông ta ở cùng Đônpinai Khan. Con trai ông ta và người kế vị là Enbakhai Hơhan. Enbakhai là chú ruột Thành Cát Tư Khan, và như vậy bố đẻ chú ruột Thành Cát Tư Khan tên là Xuơnhâytuhu - Xichna. Xuơnhâytuhu tiếng Mông Cổ không rõ nghĩa, nhưng "Xichna" nghĩa là "sói". Do đó, bố đẻ của chú ruột Thành Cát Tư Khan tên là "Sói".
Người Mông Cổ đặt tên "Xichna", tức "Sói" rất nhiều. Có thể thêm một ví dụ: "Sử tập" chép, cụ tổ ba đời của Thành Cát Tư Khan là Hơbulơ Khan, con trai thứ tư của cụ tên Hơđan, thông gia của Hơđan có tên là Alihây - Xichna, "Alihây" không rõ nghĩa, còn "Xichna" nghĩa là "Sói".
Có thể thấy, sói trong con mắt người Mông Cổ rất cao quí, mà người Hán thì không ai đặt tên cho con là "sói". Sự thực nói trên có thể chứng minh, Thành Cát Tư Khan nổi tiếng thế giới không chỉ lớn lên trên thảo nguyên sói, mà còn lớn lên giữa đàn "người sói".
Do đó Mông Cổ là dân tộc lấy sói làm tổ tiên, coi sói như thần, vinh dự vì sói, so mình với sói, hiến thân cho sói ăn thịt, nhờ sói đưa lên trời, là một dân tộc dũng cảm kiên cường, khôn ngoan mưu trí trong thế giới cổ đại. Kỵ binh Mông Cổ là đội quân hung hãn nhất, mưu trí nhất thiện chiến nhất do sói thảo nguyên huấn luyện nên.
Nguyên nhân thứ hai khiến Thành Cát Tư Khan có thể càn quét thế giới là, văn minh nông canh cổ đại đã chín nhũn từ hạt điều cứng thành hạt điều thối. Còn kỵ binh Mông Cổ được vũ trang bằng tinh thần linh vật sói thảo nguyên dã sáng tạo kỳ tích trên thế giới:dựng nên một đại đế quốc Mông Cổ trên bản đồ lịch sử thế giới, đạt tới đỉnh cao nhất có thể đạt của sức mạnh du mục thảo nguyên.
Cần lưu ý là, đế quốc La Mã cổ mà bản đồ trong lịch sử chỉ nhỏ hơn bản đồ đại đế quốc Mông Cổ, là đế quốc sùng bái tinh thần sói, tấm huy hiệu có hình con sói cái, đến nay vẫn khắc sâu trong "tinh thần du mục" của người Tây Âu. Hai đế quốc có bản đồ lớn nhất trong lịch sử cổ đại, đều sùng bái tinh thần sói. Chẳng lẽ không thể chứng minh ảnh hưởng và vai trò vĩ đại của sói?
Sự bạc nhược của nước Kim, diệt vong của Nam Tống, thắng lợi của kỵ binh Mông Cổ không liên quan gì đến sức sản xuất cao hay thấp, mà liên quan trực tiếp tới sự tồn tại của dân tộc nông canh và tính cách dân tộc mà họ quyết định. Một dân tộc nếu không muốn rơi vào số phận bị đào thải, thì phải bảo tồn một phần hoặc sáng tạo phương thức sản xuất có thể đào tạo tính cách dân tộc và sự tồn tại của dân tộc. Tóm lại, một dân tộc chỉ có rèn luyện cho mình một tính cách dân tộc kiên cường dũngcảm, thì mới nắm được số phận của mình.
Triều Nguyên ở Trung Quốc do Mông Cổ lập nên đã góp phần to lớn trong việc giao lưu văn hoá giữa phương đông và phương tây. Đối với Trung Quốc và dân tộc Hoa Hạ, công lao cũng không thể mai một:
Trước hết, Mông Cổ đã đem lại cho Trung Quốc một cương vực chưa bao giờ rộng lớn đến thế, diện tích vượt cả thời Hán Đường, một lần nữa trưng ra cho thế giới thấy phạm vi không gian sinh tồn của người Trung Quốc. Triều Nguyên giữ vai trò quan trọng trong cuộc bảo vệ lãnh thổ Trung Quốc, nếu không, khoảng hai ba trăm năm sau Hán Đường nhiều vùng không còn dưới sự quản hạt của chính phủ Trung Quốc, có khả năng mất vĩnh viễn, trở thành lãnh thổ của nền văn minh khác, khiến Trung Quốc mất đi tấm bình phong che chắn cho khu vực nông canh. Thời Minh, đế quốc Đột Quyết hùng mạnh Xưtan Thiếp Mộc Nhĩ từng rêu rao sẽ bắt người Trung Quốc cải theo đạo Ixlam. Thiếp Mộc Nhĩ đại Khan suýt dẫn một triệu quân kỵ tấn công Trung Quốc. Sau đó, Thiếp Mộc Nhi bị ốm chết, Trung Quốc mới thoát đại hoạ này. Giả dụ Thiếp Mộc Nhĩ không chết, giả dụ tây nắc không còn trong tay Trung Quốc mà bị dân tộc Ixlam chiếm giữ, lại giả dụ hàng triệu quân từ Cam Túc Ninh Hạ tấn công Trung Quốc, lãnh thổ và nền văn minh Trung Quốc có còn không? Vì vậy, triều Nguyên khôi phục lãnh thổ Trung Quốc mở rộng từ thời Hán Đường, có công lớn trong việc mở rộng tấm bình phong tây bắc, đảy lùi rất xa đường biên các nước có nên văn minh cao mà hung hãn, đồng thời đặt nền móng cho hai triều Minh Thanh sau này tiếp tục thu hồi, bảo vệ và mở rộng lãnh thổ, điều này rất quan trọng cho người Trung Quốc sinh tồn và phát triển thời hiện đại.
Thứ nữa, là một cuộc tiếp máu to lớn về tính cách dân tộc. Điều này có thể xem xét từ bốn phương diện sau: Một, Mông Cổ làm chủ Hoa Hạ, đem theo tinh thần du mục dũng cảm kiên cường và phong tục thảo nguyên: đấu vật, cưỡi ngựa bắn cung, đua ngựa, săn bắn, ăn thịt bò cừu, ăn uống thả giàn, phụ nữ không bó chân, phụ nữ xuất đầu lộ diện nơi công cộng, quét sạch những hủ tục thời Bắc Tống như tục bó chân chẳng hạn; Hai, tuy một số trong tầng lớp trên như Hốt Tất Liệt đa bị lún sâu trong tinh thần Nho gia, nhưng đông đảo âun chức và binh sĩ Mông Cổ vẫn không thay đổi tính cách thảo nguyên, chống lại có hiệu quả thế lực Nho gia, khiến một bộ phận dân tộc Hoa Hạ được giải phóng; Ba, dân tộc thống trị bao giờ cũng áp đặt tính cách, phong tục tạp quán dân tộc mình lên dân tộc bị trị, còn tính cáchphong tục tập quán dân tộc bị trị lại là đối tượng bị dân tộc thống trị bắt chước. Mối quan hệ hai chiều áp đặt và mô phỏng ấy chính là "tiếp máu" và "nhận máu" về tính cách dân tộc. Ngoài ra, giữa các dân tộc, thông hôn lai tạo ngày càng nhiều, tăng cưòng một bước huyết tính và tính cách dân tộc Hoa Hạ; Bốn, Do triều Nguyên là một triều đình lớn do dân tộc du mục thảo nguyên lần đầu tiên trong lịch sử thiết lập trên cả nước Trung Quốc, dân tộc thảo nguyên dân số ít ỏi đã đánh bại dân tộc Hán dân số khổng lồ trên thế giới, thống trị toàn bộ Hoa Hạ. điều này là một cú sốc đối với dân tộc Hán vốn tự cao tự đại, khinh rẻ các dân tộc khác. Do đó, dân tộc Hán cũng cảm thấy xấu hổ về tính cách ươn hèn và thất bại của dân tộc mình, từ đó kích phát những người con ưu tú của dân tộc Hoa Hạ tự giác hành động, học tập tính cách mạnh mẽ của dân tộc Mông Cổ. Chu Nguyên Chương là một ông vua người Hán rất khâm phục người Mông Cổ.
Vì vậy mình cho rằng, dân tộc Mông Cổ triều Nguyên đã làm một cuộc tiếp máu kịp thời và có hiệu quả, ảnh hưởng và tiếp máu non một thế kỷ, khiến dân tộc Hoa Hạ trỗi dậy lần nữa. Đến cuối triều Nguyên đã xuất hiện hàng loạt những lãnh tụ nghĩa quân dũng cảm kiên cường. Đó là kết quả trực tiếp của lần tiếp máu này.
Nguyên nhân thất bại sau đó của dân tộc Mông Cổ cũng giống như Bắc Nguỵ Tiên Ty, nước Liêu Khiết Đan, nước Kim Khiết Đan. Một dân tộc dù dũng mãnh đến mấy, nhưng một khi sa vào thế giới ruộng đồng mênh mông của dân tộc Hoa Hạ, đèo lên cổ tinh thần Nho gia, qua vài thế hệ là sói tính bị thoái hoá. Do đồng ruộng Hoa Hạ lớn nhất thế giới, nên sức mạnh mềm hoá của nó cũng lón nhất thế giới. Dân tộc Mông Cổ thiết lập trên thế giới bốn nước Khan, nhưng triều Nguyên ở Trung Quốc thất bại sớm nhất.Người Hán chỉ trong tám chín mươi năm là đã đuổi được người Mông Cổ về thảo nguyên. Năm 1368 Chu Nguyên Chương lật đổ triều Nguyên, thành lập vương triều Minh.
Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương và con trai Minh Thành Tổ Chu Đệ là những ông vua Trung Quốc kiệt xuất ra đời trên đại lục Hoa Hạ sau khi tiếp máu. Trong người họ, sói tính trong máu họ rất ít thấy ở người Hán: dũng mãnh, trí tuệ, ngoan cường, tàn nhẫn, khí phách và chí lớn. Chu Nguyên Chương có thể làm được như Đường Thái Tôn xung phong hãm trận, đi đầu quân sĩ. Sau khi chiếm lĩnh Nam Kinh, không ở lại hưởng lạc như lãnh tụ nghĩa quân nông dân Hồng Tú Toàn, mà dốc hết quân mạnh tướng giỏi tiến lên đánh chiếm Đại đô. Sau đó đánh chiếm Tứ Xuyên, bình định Vân Nam, cơ bản hoàn thành thống nhất cả nước. Ông ta không nương tay, giết đại tướng tham quan và công thần phạm pháp, cực kỳ tàn nhẫn. Chu Đệ luôn đi đầu trong những cuộc giao chiến với kỵ binh Mông Cổ, rèn luyện được tính cách dữ như sói. Ông ta thoán quyền đoạt ngôi tàn ác kinh người, sáng tạo hình phạt "giết 10 họ" thảm khốc chưa từng thấy. Hành động chuyên chế bạo ngược của cha con Chu Nguyên Chương cần phê phán, nhưng tính cách sói mạnh mẽ của cha con ông ta trong chiến đấu cũng cần khẳng điịnh. Hai người hoàn toàn không giống các vua triều Minh sau đó chỉ tàn bạo với dân chúng mà không dám chống lại kẻ địch mạnh, các vị này không còn là sói thảo nguyên, mà là lũ chuột đồng, khi hữu sự, cháy nhà ra mặt chuột.
Vì sự nghiệp vĩ đại khôi phục trung nguyên, đuổi kỵ binh Mông Cổ về thảo nguyên, Chu Đệ dám từ bỏ Nam Kinh gạo trắng nước trong, khí hậu ấm áp, dời đô lên phòng tuyến quân sự số một Bắc Kinh, hơn nữa còn năm lần thân chinh cầm quân đánh giặc cho đến khi ốm chết trên đường tiến quân. Một vị hoàng đế đang tại vị mà dám từ bỏ hưởng thụ, sốg cuộc đời quân ngũ "da ngựa bọc thây". Người như thế không chỉ mình ông. Vĩnh Lạc đại đế không thẹn với danh hiệu đại đế Hán tộc, "Vĩnh Lạc đại điển" là bộ đại điển ưu tú nhất, khoan dung độ lượng nhất, dàm thu thập cả những bất đồng chính kiến.
Hai ông vua hùng tài đại lược nhà Minh so với các vị vua hủ bại bạc nhược Nam Tống, khác nhau một trời một vực. tính cách sói của họ rất khó sẩn sinh từ mảnh đất nông canh Hoa Hạ sau thời Hán Đường. Cuộc tiếp máu lớn của dân tộc Mông Cổ không những đã tạo nên tính cách sói của cha con Chu Nguyên Chương, còn tạo nên những tướng người Hán đại trí đại dũng như Từ Đạt, Thường Ngộ Xuân v.v... đậm sói tính. Triều Minh lúc cực thịnh, cương vực mở rộng tới đảo Khố Diệp Hắc Long giang phía bắc, Tây vực và Tây Tạng. Trừ thảo nguyên Mông Cổ, đã thu phục toàn bộ đất đai thời Hán Đường, chấm dứt thế yếu. Lần phục hưng này của dân tộc Hán phải cảm ơn dân tộc Mông Cổ đã cho máu, cảm ơn tôtem sói một lần nữa sống lại trên đất Hoa Hạ.
Thế nhưng về tính cách mà xét, người nhận máu bao giờ cũng yếu hơn người cho máu. Triều Minh mạnh mẽ ban đầu sau đó không thắng nổi Nguyên Mông phía bắc. Thảo nguyên sói tính là nguồn sức mạnh của kỵ binh Mông Cổ. Sau khi rút về thảo nguyên, kỵ binh Mông Cổ lập tức trở lại mạnh mẽ. Minh Thành Tổ năm lần thân chinh, trừ một lần thắng, bốn lần kia đều không đạt hiệu quả, quân Minh không tìm thấy kỵ binh chủ lực Mông Cổ hành tung bí ẩn như bầy sói. Trái lại, kỵ binh Mông Cổ liên tiếp đả thương quân Minh, đánh bại đại quân chủ lực của Từ Đạt, diệt gọn 10 vạn quân sĩ do Khưu Phúc chỉ huy, đánh tới trường thành mà Minh tu sửa dã hơn 200 năm, bi thảm nhất là trong trân Tumubao, 2 vạn quân kỵ khu Oaxưbu tiêu diệt 50 vạn đại quân do Minh Anh Tôn chỉ huy và bắt sống Đại Minh hoàng đế Minh Anh Tôn. Nếu không có Vu Khiêm chỉ huy quân dân hăng hái chiến đấu bảo vệ Bắc Kinh thì triều Nguyên có thể tái lập. Từ đó căn bệnh cừu tính cũ một lần nữa lại phát tác, lý học Tống Minh lại khiến tinh thần dân tộc không gượng dậy nổi, vương triều Đại Minh ngày càng suy yếu, đất chăn nuôi rộng hàng ngàn dặm bên ngoài quan ảilại bị mất, cho đến khi bị Mãn Thanh tiêu diệt. Còn điều này nữa, nghĩa quân nông dân của Lý Tự Thành mà các sử gia hiện đại ca ngợi, cũng không chịu nổi một đòn, bị kỵ binh dũng mznhx Mông Cổ diệt gọn, trượt theo vết xe đổ của nghĩa quân nông dân Hoàng Sào. Một chút nguyên khí do dân tộc Mông Cổ triều Nguyên tiếp cho, đã lại cạn kiệt, rốt cuộc dân tộc Hán không thể đơn độc chống đỡ ngôi nhà Hoa Hạ, phải nhường trọng trách này cho Mãn Thanh, dan tộc du mục phương bắc.
*
Trần Trận lật trang bản thảo, nói tiếp, triều đại Thanh do tộc Nữ Chân dựng nên là vương triều đế chế cuối cùng ở Trung Quốc. Đây là một triều đại làm nên hiều chuyên đáng kính nể trong lịch sử Trung Quốc. Mình đặc biệt thích vương triều Thanh. Cậu thử nghĩ coi, dân tộc Mãn chỉ vài chục vạn dân mà dựng nên triều Đại Thanh, thống trị mẩy trăm triệu người Hán, đất đai chỉ kém đôi chút so với đất đai rộng lớn của đại đế quốc triều Nguyên Mông, hơn nữa, còn sáng tạo ra thời "thịnh trị Khang Càn" (Khang Hy, Càn Long) khoảng 120 năm, dài gấp đôi hai giai đoạn thịnh trị của hai triều cộng lại ("Thịnh trị Văn đế Cảnh đế" đời Hán, "thịnh trị Trinh Quan đời Đường"). Mãn Thanh là triều đại làm nên nhiều chuyện, có nhiều vị vua văn thao vũ lược nhất, tiếp nối ngôi tốt nhất trong các triều đại Trung Quốc. Nếu như thịnh trị Khang Càn đối mặt không phải các nước phương tây thời đại thuyền buồm, mà đã phát triển lên thiết giáp hạm, mình tin rằng thời đại Khang Càn sẽ xuất hiện một Minh Trị Thiên hoàng Trung Quốc, duy tân thắng lợi. Và với tính cách du mục cầu tiến sẽ du nhập văn minh, chế độ và công nghiệp phương tây, thay đổi triệt để tồn tại và tính cách dân tộc, cạnh tranh quyết đấu vói văn minh sói phương tây, thay đổi số phận trì trệ của dân tộc. Tiếc rằng sau khi Mãn Thanh bị nông canh Hoa Hạ và Nho gia làm cho bạc nhược, các nước phương tây mới bước sang thời đại đại công nghiệp thiết giáp hạm. Số phận xui xẻo của Tung Quốc, đó là chuyện sau này.
Vậy vì sao một tộc Mãn bé tí mà làm nên kỳ tích Khang Càn vượt cả Hán Đường? Mình cho rằng, thời cổ đại, chỉ có tầng lớp trên của dân tộc Mãn mới nhận thức được qui luật thịnh suy mạnh yếu của Trung Quốc, ưu khuyết điểm của văn minh nông canh và văn minh du mục và kết hợp chặt chẽ những ưu điểm của cả hai; Chỉ tộc Mãn mói nhìn ra tính chất quyết định của tính cách dân tộc đối với vận mệnh dân tộc, hiểu rất rõ tính chất cực kỳ quan trọng của việc duy trì sói tính trong tính cách dân tộc và đã duy trì được gần hai thế kỷ. Họ rất hiểu chỉ cần duy trì đươc tinh thần và tính cách kiên cường bất khuất, hăng hái vươn lên như sói, thì việc học tập và nắm lấy văn hoá và văn minh Hoa Hạ không khó, hơn nữa có thể vượt.
Để duy trì tính cách dân tộc du mục, tập đoàn thống trị Mãn rút ra những bài học thất bại từ Tiên Ty Bắc Nguỵ, Khiết Đan Liêu quốc, đặc biệt từ nươc Kim do tổ tiên sáng lập và từ triều Nguyên Mông, không hoàn toàn Hán hoá mà thêm vào đó một số nội dung có tính sáng tạo, thực hiện 7 chính sách duy trì tính cách dân tộc: Một là, duy trì truyền thống cưỡi ngựa bắn cung đấu vật từ nhỏ của tộc Mãn, toàn dân tham gia, kể cả hoàng tử cũng không ngoại lệ. Hai là, định kỳ tổ chức săn bắn, nhà vua thân chinh, con em tám Kỳ tham gia, dùng săn bắn để luyện quân, cận chiến với sói để duy trì sói tính. (Nhà trưng bầy sơn trang Thừa Đức có giới thiệu Khang Hy Đại Đế sinh thời đã hạ thủ mấy trăm con sói). Ba là,duy trì phương thức sản xuất du mục ở đông bắc, tây bắc và thảo nguyên Mông Cổ. Hai khu vực hai cách cai trị, du mục cai trị kiểu du mục, nông canh cai trị kiểu nông canh, nghiêm cấm nông dân lên thảo nguyên vỡ hoang nhằm duy trì khả năng tạo huyết dịch sói tính của thảo nguyên. Duy trì thảo nguyên tức duy trì gốc và nguồn tính cách mạnh mẽ của dân tộc du mục. Nhìn bản đồ nhà Thanh ta thấy đây là một quốc gia bán canh bán mục, quá nửa diện tích là vùng du mục của dân tộc du mục, bao gồm đông bắc, đông và tây Sibia, Nội ngoại Mông, Ninh Hạ, Cam Túc, Thanh Hải, Tây Tạng và Tân Cương. Những thảo nguyên sói tính rộng lớn có thể cung cấp biết bao binh mã dũng mãnh đầy sói tính. Bốn là, thông hôn giữa người Mãn với người Mông, cấm thông hôn với người Hán, nhằm đảm bảo tính thuần khiết của huyết thống, tránh bị huyết dịch mang tính cừu đồng hoá. Trong lịch sử, tữ xưa dân tộc Mãn và dân tộc Mông đã có quan hệ máu thịt, bộ lạc Diệp Hách và Cáp Đạt Nữ Chân đã có quan hệ hôn nhân với Mông Cổ. Đến triều Thanh, mượn sức mạnh của kỵ binh Mông Cổ để thống trị hàng trăm triệu Hán tộc, đã thực thi chính sách liên hôn đại qui mô nhiều tầng lớp giữa quí tộc và hoàng tộc Mãn - Mông. Hoàng thái hậu Lý Trang là một phụ nữ kiệt xuất người Mông Cổ. Năm là, thượng võ hiếu chiến, khuyến khích lập quân công, lấy chiến đấu để nuôi dưỡng tính cách, lấy chiến trận để tăng cường sức mạnh quân đội. Thời Khang Hy thịnh trị cũng là thời kỳ binh lửa liên miên, phái chủ chiến trong tập đoàn thống trị Mãn Thanh chiếm ưu thế, không chút thoả hiệp trên các vấn đề diệt Phiên, thu phục Đài Loan, bình định Mông Cổ, Tân Cương và phản loạn tây nam, đánh trả Nga Sa hoàng xâm lược, trấn áp Niệm quân và Thái Bình Thiên Quốc. Sáu là, thành lập Liên minh các dân tộc du mục lấy tộc Mãn làm hạt nhân, hai tộc Mông - Tạng làm cốt cán, tăng cường tinh thần du mục, cùng nhau thống trị người Hán đông đảo. Bảy là, bãi bỏ chế độ Thái tử hủ bại không cạnh tranh, người kế thừa ngôi vua do Hoàng đế tuyển chọn, khiến các hoàng tử đấu đá như bầy sói, qua cạnh tranh quyết liệt đào thải những kẻ ươn hèn mà xuất hiện sói chúa, người tài.
Những biện pháp trên đã có tác dụng quan trọng trong việc duy trì sói tính mạnh mẽ và an ninh lâu dài của nhà Thanh. Nhưng đất đai trồng trọt Trung Quốc quá rộng, thế lực nông canh quá mạnh, lại thêm tộc Mãn phát huy toàn bộ tinh thần Nho gia, lại nữa, kinh tế triều Thanh rất phảt triển, bùng nổ dân số nông canh, đến hậu kỳ triều Thanh đã gấp bảy tám lân dân số thời Hán Đường, tính cách nông canh chiếm ưu thế áp đảo. Do vậy các chính sách nói trên vẫn không bảo đảm duy trì tính cách mạnh mẽ của tập đoàn thống trị Mãn Thanh. Cuối đời Thanh, sói tính thoái hoá, cắt đất cầu hoà, làm nhuc quốc thể. Tuy nhiên, vẫn còn mạnh hơn nhiều so với Nam Tống của người Hán, chí ít không dâng nộp quốc bảo cho liệt cường, cả nước đầu hàng.
Tộc Mãn du mục Nữ Chân đóng góp rất lớn cho Trung Quốc, chủ yếu trên hai mặt: Trước hết, đem lại cho Trung Quốc diện tích đất đai chỉ kém triều Nguyên. Qua hai lần xác nhận về quốc thổ triều Nguyên và triều Minh,lại thêm phần đất đã qua 200 năm quản lý hành chính,, tuy cuối Thanh đã để mất gần một nửa đất đai, vẫn còn giữ được bằng thời Hán Đường cộng với ba tỉnh phía đông màu mỡ. Gần một nghìn năm cạnh tranh sinh tồn, cuối cùng giữ lại được lãnh thổ thuộc Trung Quốc cách đây hơn 2000 năm cho đến bây giờ. Đây là sự nghiệp vĩ đại của dân tộc Trung Hoa, lớn hơn nhiều so với bất cứ dân tộc nông canh lâu đời nào. Những dân tộc ấy phần lớn ngay cả dân tộc cũng không tồn tại, nói gì đến đất đai xưa kia. Đất đai rộng lớn của đế quốc cổ La Mã, đế quốc A Rập, đế qquốc Ôxman, cũng không giữ lại được trọn vẹn.
Đương nhiên, Trung Quốc so với nước Anh nhỏ bé trên đảo England bành trướng thành đế quốc "mặt trời không lặn"; so với công quốc Nga La Tư khuyếch trương thành đại đế quốc Nga La Tư vắt ngang từ Á sng Âu; so với các dân tộc Tây Âu chỉ chiếm non nửa châu Âu bành trướng thành "đại đế quốc" bao gồm ba châu lục Bắc Mỹ, Nam Mỹ, châu Đại Dương thì còn thua xa. Nga La Tư cướp từ tay Mãn Thanh một vùng rộng lớn, đó là hậu quả tai hại của Triều Mãn Thanh bị nông canh và Nho gia làm cho ươn hèn. Thế nhưng, nếu như Mãn Thanh không còn sót lại chút tính cách sói thì đến cuối triều Mãn Thanh ngay cả đông tam tỉnh, Ili, thậm chí cả Tân Cương, Tây Tạng chưa chắc đã giữ được.
Cần đặc biệt nhấn mạnh rằng, đất đai hiện có của Trung Quốc là do triều Hán khai sáng, do tộc tiên Ty và tộc Hán liên hôn mà mở rộng dưới triều Đường, cuối cùng do triều Mãn Thanh khôi phục, mở rộng và giữ vững đến bây giờ. Bốn triều đại lớn Hán Đường Nguyên Thanh sở dĩ có đóng góp to lớn như thế là do bốn triều đại này kết hợp khá tốt giữa sói tính với cừu tính trong tính cách dân tộc, là thời đại mà sói tính mạnh hợn cừu tính một chút. Bốn triều đại vĩ đại này, về thành phần dân tộc thống trị mà xét, thuần Hán tộc chiếm địa vị thống trị chỉ có triều Hán, đến triều Đường thì Tiên Ty và Hán tộc liên hợp chấp chính, Nguyên Thanh thì do hai tộc du mục chấp chính.
Qua địa điểm chọn làm kinh đô cũng thấy vai trò và ảnh hưởng tiềm ẩn to lớn của thảo nguyên, tinh thần và tính cách du mục. Thủ dô của một vương triều là trung tâm chính trị kinh tế và văn hoá, và cũng là trung tâm tính cách vương triều ấy. Thủ đô của Hán Đường Nguyên Thanh đặt tại nơi giáp ranh giữa nông canh và du mục, thủ đô của Hán Đường là Tràng An, cận kề vùng du mục Tây Bắc; Thủ đô của Nguyên Thanh là Bắc Kinh, gần kề thảo nguyên phương Bắc. Điều này chứng tỏ thủ đô của triều đại hùng mạnh đều gần kề vùng đất hùng mạnh. Bắc Kinh và Tràng An thời Hán Đường đều ở vào nơi dân phong mạnh mẽ phương bắc,chỉ không giống nhau ở chỗ: Bắc Kinh không ở giữa rốn văn minh nông canh Trung Hoa và cũng cách xa hoàng Hà - bà mẹ của dân tộc nông canh Trung Hoa, mà lại gần kề đại thảo nguyên - tổ mẫu của dân tộc Trung Hoa. Bắc Kinh là nơi định đô lâu dài của ba dân tộc du mục Kim-Liêu Mông Cổ và Mãn Thanh, là trung tâm chính trị văn hoá và tính cách dân tộc Trung Hoa chủ yếu do dân tộc du mục dựng nên. Thời kỳ thịnh trị của đại đế quốc Mông Cổ vắt ngang từ Á sang Âu, Bắc Kinh từng là "thủ đô của thế giới". Đây là thành phố duy nhất trong lịch sử Trung Quốc trở thành thủ đô của thế giới. So với Tràng An, Bắc Kinh gần biển hơn, định đô Bắc Kinh có lợi cho Trung Hoa kế thừa tinh thần du mục, mở cửa và phát triển ra đại dương, tiếp nhận "tinh thần du mục" của đại dương. Cuối cùng, Trung Quốc định đô tại Bắc Kinh là do công lao của dân tộc du mục Trung Hoa, đặc biệt là tộc Mông Cổ và tộc Nữ Chân; định đô Bắc Kinh cũng biểu thị sự tôn sùng và ngưỡng vọng của con cháu Viêm Hoàng tại nơi sâu thẳm của tiềm thức, đối với tinh thần du mục.
Ngoài ra, các nhà chính trị kiệt xuất là nữ cũng nổi lên từ bốn triều đại phát triển này. ví dụ Lữ Hậu, Võ Tắc Thiên đời Đường, Hoàng Thái hậu Hiếu Trang - nữ kiệt Mông Cổ. Ba người phụ nữ vĩ đại này đều bó chân. Hoàng Thái hậu Hiếu Trang thuộc phái cởi mở, từng cấm phụ nữ tộc Hán và tộc Mãn bó chân. Bó chân là một trong những tập tục độc ác ở Trung Quốc, nảy sinh từ triều Tống tính cách dân tộc bạc nhược sau thời thịnh trị Hán Đường. Huỷ hoại và trói buộc tinh thần tự do độc lập kẻ thống trị là tôn chỉ của Nho gia. Nho gia không chỉ thuần hoá dân tộc Hán thành cừu, mà còn biến phụ nữ tộc Hán thành tàn phế. Sau triều Tống, văn nhân Nho gia và đàn ông Nông gia cùng say sưa theo đuổi "gót sen ba tấc", tàn phá đông đảo phụ nữ. Đây là một trang tàn nhẫn nhất, phản nhân tính nhất trong lịch sử thế giới, là sự việc khiến người Trung Quốc xấu hổ trước nhân dân thế giới, bị người chê cười.
Đất đai rộng lớn là cơ sở sinh tồn và phát triển văn minh Trung Hoa, mà Tây Bắc mênh mông là cái gốc và là tấm bình phong của văn minh Trung Hoa. Về tổng thể mà xét, các dân tộc du mục Trung Hoa đóng góp cho đất nước lớn hơn nhiều do với tộc Hán. Tộc Mông Cổ và tộc Mãn đóng góp lại càng lớn. Dân tộc Mãn lại là kẻ quyết định quan trọng về đất đai Trung Quốc. Sau đó, thời Dân quốc, chính quyền người Hán lại để mất Ngoại Mông rộng lớn. Tháng 1 năm 1946, chính phủ Quốc dân đảng Nam Kinh chính thức tuyên bố công nhận Ngoại Mông độc lập.
Lại nữa, triều Thanh của dân tộc Mãn ngoại trừ đóng góp to lớn cho đất đai Trung Quốc, còn trường kỳ tiếp máu cho dân tộc Hoa Hạ. Viêm Hoàng, tổ tiên nhân văn dân tộc Hoa Hạ là tộc du mục. Dân tộc Trung Hoa xuất thân từ dân tộc du mục, trong huyết quản từng chảy dòng máu sói tính. Sau đó qua nhiều đợt tiếp máu trong lịch sử, nhất là đợt tiếp máu gần một thế kỷ của dân tộc Mông Cổ, đặc biệt là những đợt tiếp máu cuối cùng gần hai nửa thế kỷ của dân tộc Mãn, khiến dân tộc Trung Hoa giữ được đất đai văn hoá chủng tộc cho đến cận đại. hiện nay, dân tộc Trung Hoa vẫn tự thân hoặc được dân tộc du mục tiếp máu sói tính, cộng với tiếp nhận phương thức sản xuất tiên tiến của phương tây, đó là tài nguyên để phục hưng Trung Quốc. Cuối Thanh, tinh thần dũng cảm chống đế quốc chống phong kiến của dân tộc Trung Hoa bắt nguồn từ sức sống của di sản dòng máu du mục Viêm Hoàng và sự tiếp máu không ngừng của dân tộc du mục.
Mãn Thanh vào làm chủ Trung Hoa đánh một dấu chấm trong lịch sử 5.000 năm Trung Hoa. Lịch sử chấp chính của dân tộc cổ đại Trung Quốc, bắt đầu từ tộc du mục Viêm Hoàng, kết thúc bằng tộc Nữ Chân, từ du mục đến du mục quyết không phải ngẫu nhiên, mà là sự tất nhiên trong hoàn cảnh đặc thù của Trung Quốc và phát triển lịch sử của hai dân tộc. Chi nhánh văn minh nông canh này của Trung Quốc qua tác dụng của những đợt tiếp máu mới đưa nó trở lại dòng chảy chính của văn minh thế giới. "Kiếp luân hồi" này chứng minh một chân lý phổ biến: Văn minh dân tộc là dòng, tính cách dân tộc là nguồn,một dân tộc mà không có tính cách mạnh mẽ tuy vẫn có thể sáng tạo ra văn minh, nhưng thường là không bảo vệ được ngay cả bản thân dân tộc, nói gì đến bảo vệ nền văn minh của dân tộc. Nền văn minh cổ đại của thế giới và Trung Quốc đều đã đi vào bảo tàng, nhưng tinh thần du mục và tính cách mạnh mẽ như sói của dân tộc du mục và hậu diệ của họ vẫn đầy sức sống, nó có thể đưa văn minh xa xưa vào bảo tàng, lại có thể đầy lòng hăng hái sáng tạo một nền văn minh mới.
Dân tộc Trung Hoa cần cù dũng cảm, cần cù là đóng góp của tính cách nông canh Trung Hoa, dũng cảm là đóng góp của tính cách dân tộc du mục Trung Hoa. Thiếu một trong hai đều không được, nhưng dân tộc Trung Hoa với dân số nông canh chiếm đa số tuyệt đối và lịch sử lâu đời của nông canh, cái thiếu chủ yếu là không có tinh thần và tính cách dũng cảm cầu tiến, lao động thường là không công, cốc mò cò xơi.
Nói cho cùng, cạnh tranh giữa các nền văn minh trên thế giới là cạnh tranh về tính cách. Chế độ dân chủ và khoa học kỹ thuật tiên tiến phương tây được xây dựng trên nền tảng tính cách dân tộc dũng cảm cầu tiến.Dân tộc Hoa Hạ muốn vượt phương tây phải đầu tư ghê gớm để thay đổi tồn tại dân tộc và tính cách nông canh.
Mình rất muốn dùng chiếc lược tôtem sói chải lại cho thuận dòng lịch sử mà các nhà sử học cố ý dùng tinh thần Nho gia làm cho rối tung, thấy rõ tinh thần du mục Trung Quốc mà hạt nhân là tôtem sói và lịch sử liên tục tiếp máu cho dân tộc Hoa Hạ, mới hiểu được vì sao văn minh Trung Hoa không bị gián đoạn trong lịch sử thế giới mấy nghìn năm, và cũng có thể tìm hiểu Trung Quốc sau này muốn cất cánh bay lên thì phải thế nào.
Nhưng hiểu và nắm vững tinh thần tôtem sói quả không dễ. Vấn đề then chốt là phải làm rõ vì sao dân tộc du mục sùng bái tôtem sói. Phần lớn các sử gia Trung Quốc đều biết dân tộc du mục Trung Quốc sùng bái tôtem sói nhưng rất khó giải thích vì sao. Thí dụ, nhà sử học hàng đầu về Mông Cổ Hàn Nho Lâm tiên sinh nói: "Theo ý kiến của người Đột Quyết, tộc này là con cháu của sói, tự cho là dòng giống ưu việt. Lí do ấy tuy không thể hiểu, nhưng các Khan thường lấy làm tự hào". "Lí do không thể hiểu", là do người Hán xa rời thảo nguyên quá lâu, rất khó khắc phục sự hạn chế trong nhận thức về tôtem sói, một số vấn đề quan trọng ghi trong sử sách không có khả năng đào sâu nghiên cứu. Hai chúng mình đi sâu tìm hiểu thảo nguyên nguyên thuỷ Mông Cổ có đến 10 năm với sự hào hứng đặc biệt nhằm giải đáp bao nhiêu câu hỏi, đã từng nhiều năm trực tiếp và gián tiếp tiếp xúc với sói, mới khắc phục được tính hạn chế của ngưòi Hán. Bây giờ ta phải thông báo thật nhanh cho ngưòi Hán biết nhận thức của chúng ta. Chỉ có lấp đầy nhứng lỗ hổng trong nhận thức, mới có thể lấp đầy những lỗ hổng to lớn trong tính cách dân tộc.
Dương Khắc thở dài, nói: Nếu lập luận của cậu đứng vững, 24 bộ sử của Trung Quốc phải viết lại. Nho gia trong 24 bộ sử chỉ khẳng định một chiều,, đầy thiên kiến. Mình tán thành viết lại lịch sử, viết như thế nào thì bàn, nhưng phải viết lại.
Trần Trận nói: Nghiêm túc mà nói, khôi phục bộ mặt vốn có của lịch sử Văn hoá cổ Trung Quốc là văn hoá nông canh,lấy nông nghiệp làm gốc, độc tôn Nho thuật, mạt sát du mục, khinh rẻ "tứ di". Lịch sử Trung Quốc không chỉ viết lại, mà còn phải cách mạng. Mình đặc biệt tán đồng câu nói của ông Lương Khải Siêu trong "Tân sử học.Trung Quốc chi cận sử": "Không có cách mạng thế giới thì không thể cữu vãn nổi nước ta. Trong ngàn vạn điều, điều này lớn hơn cả". Mình cho rằng, nếu không "đưa sói vào sử", không cung cấp cho giới sử học tinh thần tôtem sói ảnh hưởng sâu sắc tới lịch sử Trung Quốc, thì sử học Trung Quốc mãi mãi như cái ao tù. 24 bộ sử chỉ như quyển Y bạ dày cộp liệt kê nhứng chẩn đoán sai về con bệnh Trung Quốc, chắc chắn gây ra sự tì trệ trong việc điều trị và cải cách. Hiện nay phim lịch sử truyền hình chiếu suốt đêm ngày, tuyên truyền ý thức tiểu nông và sự chuyên chế phong kiến Nho gia, đến là đau lòng.
*
Trần Trận nhìn mặt trời sắp lặn trên thảo nguyên. Anh vẫn chưa đói, hào hứng nói tiếp:
Mình cấn phải đặc biệt nhấn mạnh vấn đề tinh thần dân tộc Tung Hoa. Hiên giờ người ta hễ mở miệng là thao thao bất tuyệt về tinh thần bất khuất của dân tộc Trung Hoa,. Thực ra nguồn gốc và thực chất của tinh thần này là tinh thần du mục và tinh thần thảo nguyên của tổ tiên Viêm Hoàng, mà hạt nhân là tinh thần lang đồ đằng (tôtem sói), thông qua mấy nghìn năm tiếp máu của dân tộc du mục mà được xác lập. Thực ra, hai câu có thể khái quát tinh thần dân tộc Trung Hoa lại chính là hai câu cách ngôn của Nho gia thời kỳ đầu: "Thiên hành kiện quân tử dĩ tự cường bất tức", "phú quí bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất". Bốn chữ "không": không ngơi nghỉ, không hoang dâm, không biến chất, không khuất phục, là điển hình cho tinh thần sói và tinh thần tôtem sói, và cũng là khái quát cao độ chân dung tinh thần tôtem sói. Mỗi con sói trên thảo nguyên Mông Cổ đều mang tinh thần "bốn không", hơn nữa, hàng vạn năm trước đây, tinh thần "bốn không" đã là "tinh thần toàn dân" của sói thảo nguyên. Nhưng đại đa số người Trung Quốc chưa đạt tới tinh thần đó. Nó chỉ là mô hình tinh thần mà các tiên hiền phác hoạ ra để hô hào, ngưỡng mộ, hướng tới và học tập. Do đó "bốn không" kỳ thực là tinh thần sói hữu danh vô thực. Các tiên hiền Nho gia thời kỳ đầu đã dùng "bốn không" bồi dưỡng nên một sổ con em ưu tú và một số anh hùng của dân tộc Trung Hoa, nhưng tinh thần "bốn không" vẫn chửa trở thành "tinh thần toàn dân" của dân tộc nông canh. Nếu không, sẽ chẳng xuất hiện trong lịch sử nhiều đợt dân tộc du mục chiếm cứ trung nguyên và Trung Quốc, cũng không xuất hiện vài triệu Hán gian và nguỵ quân trong kháng chiến chống Nhật.
Dân tộc du mục thảo nguyên hiểu sói hơn người Hán, do đó họ tôn trọng sói, sùng bái tinh thần sói và đưa lên vị trí tối cao tinh thần totem dân tộc. Vì vậy dân tộc thảo nguyên hơn hẳn dân tộc nông canh về trình độ phổ cập tinh thần "bốn không". Và cũng bởi vì dân tộc thảo nguyên không ngừng tiếp máu cho dân tộc nông canh, khiến cho dân tộc Trung Hoa khi đứt khi nối vẫn duy trì được tinh thần "bốn không" và cũng là tinh thần dân tộc Trung Hoa.
Vì vậy, nếu như rút bỏ tinh thần bốn không: không ngơi nghỉ, không hoang dâm, không biến chất, không phuất phục ra khỏi tinh thần dân tộc Trung Hoa, thì sẽ còn lại những gì? Có lẽ chỉ còn lại tinh thần lý học đời Tống. Bây giờ còn ai dám đem tam cương ngũ thường, tam tòng tứ đức ra làm tinh thần dân tộc Trung Hoa? Tinh thần dân tộc Trung Hoa do dân tộc du mục và dân tộc nông canh cùng nhau sáng tạo trên đại lục Trung Hoa, nhưng hồn của nó là tinh thần du mục và tinh thần sói.
Người Hán chúng ta nên nhận thức đầy đủ và khẳng định sự đóng góp to lớn của mình cho toàn thể dân tộc Trung Hoa, cảm ơn và học tập sói thảo nguyên và dân tộc thảo nguyên. Quả thật nên bù đắp lớn nhất cho sói thảo nguyên và người thảo nguyên.
Dương Khắc giận dữ nói: Bây giờ không nên nói cảm ơn và bù đắp, ngay cả cấm chỉ cướp giật thảo nguyên và ra lệnh bừa bãi cũng đã khó.
Trần Trận nói: Mình cho rằng, tư tưởng chính thống Nho gia và các sử gia, các nhà văn hoá Trung Quốc tởm nhất ở chỗ sổ toẹt sự đóng góp mang tính cấp cứu cho dân tộc Trung Hoa. Qiuan điểm truyền thống của Trung Quốc là ca ngợi nền văn minh cổ Trung Hoa ưu việt như thế nào, văn minh nông canh và Nho gia chính thống lớn mạnh và đầy sức sống như thế nào, ba nền văn minh nông canh của ba nước cổ xưa đã tàn lụi không trụ lại được như thế nào, chỉ văn minh Trung Quốc là không bị gián đoạn, tiếp tục cho đến thời cận đại. Thế nhưng, căn cứ vào sự thực lịch sử phát triển 5000 năm của Trung Quốc, văn minh Trung Hoa sở dĩ duy trì cho đến thời cận đại, không thể tách rời sự tiếp máu không ngừng của dân tộc du mục. Phủ nhận sự thực này là cướp công người khác. Quan điểm này làm giảm sức phê phán đối với ý thức tiểu nông và Nho học chính thống, khiến chúng có cơ tồn tại, tiếp tục làm suy yếu và trói buộc tính cách và tinh thần dân tộc Trung Hoa, và chẩn đoán sai đối với con bệnh Trung Quốc. Từ sau ngày thành lập nước, phương lược trị quốc chưa làm được chuyện trông bệnh bốc thuốc, chưa tập trung sức mạnh cho liều thuốc đắng đối với căn bệnh nông canh, thậm chí còn lưu luyến nông canh, cổ vũ cho nông canh, đề cao vai trò nông canh, đề bạt cán bộ nông canh. Thời kỳ cách mạng văn hoá đuổi thanh niên trí thức về nông thôn làm nông dân, khiến ý thức tiểu nông và ý thức gia trưởng chuyên chế ngày càng đậm, dân số nông canh bùng nổ, thậm chí có xu thế vượt cả só nhân khảu nông canh 5000 năm cộng lại. Tuy hiên nay giá trị sản phẩm nông nghiệp chiếm địa vị thứ yếu, nhưng nhân khẩu nông nghiệp vẫn chiếm ưu thế tuyệt đối. 900 triệu nhân khẩu nông nghiệp mang tính cách và ý thức nông canh đã trở thành hiện thực "tồn tại dân tộc" của dân tộc Trung Hoa. Sự "tồn tại" của ý thức và tính cách nông canh đặc sệt và rộng lớn như thế, sẽ ảnh hưởng và lây nhiễm lâu dài đối với quan viên hành chính, phần tử trí thức, tầng lớp công thương, công nhân, thị dân và tầng lớp mới nảy sinh.
Một trăm năm trở lại đây, bệnh cũ của Trung Quốc đã nhiếu lần tái phát, cuộc duy tân và cải cách tính cách nhiều lần vấp váp, ngưyên nhân sâu xa là cho đến nayTrung Quốc vẫn chưa thay đổi về căn bản tính cách dân tộc. Vì vậy vẫn chưa bước sang giai đoạn có thể nắm chắc vận mệnh dân tộc mình. Cách mạng giới sử học, cách mạng Trung Quốc đương đại, phải lấy tinh thần tôtem sói loại trừ tính cách nông canh, loại trừ đường lối sai lầm "ôn hoà đôn hậu" của Nho gia.
Hơn 20 năm cải cách gian khổ, nền kinh tế thị trường mang tính cạnh tranh của Trung Quốc đã tiến một bước dài. Tồn tại dân tộc đang chuyển biến, qui luật tồn tại dân tộc quyết định tính cách dân tộc đang tác động mạnh mẽ. Tính cách người Trung Quốc cũng bắt đầu tự phát hồi qui theo tinh thần tôtem sói. Truyện tranh "Con sói xám" được trẻ em yêu thích; Ca khúc "Sói phương bắc" vang lên khắp nơi, bộ phim "nhảy múa với bầy sói" được các nhà quản lý doanh nghiệp tán thưởng; sản phẩm mang thương hiệu sói bắt đầu bán chạy trên thị trường; cửa hàng ăn mang tên sói đắt như tôm tưoi; bắt đầu có bút danh, nghệ danh sói. Cuối cùng, tinh thần du mục mà hạt nhân là tinh thần tôtem sói được khôi phục ở Trung Quốc. Dân tộc sợ sói ghét sói nhất thế giới bắt đầu sùng bái tinh thần tôtem sói. Đây là một trong những thành quả chủ yếu sau 20 năm cải cách, và cũng là nơi gửi gắm niềm hi vọng phục hưng dân tộc.
Tinh thần tôtem sói là khắc tinh của tinh thần cừu yếu đuối bảo thủ, cho nên chỉ có phát huy mạnh mẽ tinh thần sói, cải cách mới không bị thụt lùi và cũng không dám thụt lùi. Lớp người mới vũ trang bằng tinh thần sói ngày càng nhiều sẽ càng đánh càng hăng, đập tan tất cả những thế lực bảo thủ. Nói cho cùng, cải cách ở Trung Quốc không chỉ cái cách chuyển đổi thể chế kinh tế chính trị, mà cơ bản hơn, có tính quyết định hơn, là cải cách và chuyển đổi tính cách quốc dân.
Nắm vững và thuận theo qui luật phát trỉển văn minh Trung Quốc và thế giới, có thể bỏ qua giai đoạn mò mẫm, càng tự giác tiếp tục cải cách mở cửa, dũng cảm tiến lên như sói thảo nguyên. Dân tộc Trung Hoa nhất định sẽ khôi phục và kế thừa tinh thần du mục của tổ tiên Viêm Hoàng, phát huy mạnh mẽ tinh thần tôtem sói của dân tộc du mục. Về tính cách, phát triển từ "văn minh cừu" thời cổ đại lên "văn minh sói" thời hiện đại, phát triển "con người văn minh" mà cá tính thực sự được giải phóng, thực sự được tự do dân chủ. Đến khi đó, người Trung Quốc loại trừ được tận gốc tính gia súc trong tính cừu, phắc phục được nửa dã man trong "văn minh sói", trở thành người văn minh với chữ Người viết hoa. Ba giai đoạn nói trên là những giai đoạn phát triển phù hợp với tính qui luật trong lịch sử và tình hình Trung Quốc. Dân tộc Trung Hoa về mặt tính cách chưa kinh qua giai đoạn "văn minh sói" thì căn bản không thể bước ngay vào giai đoạn cao"người văn minh" tự do dân chủ. Hơn một tỉ người văn minh thực sự tự do dân chủ và yêu chuộng hoà bình xuất hiện trên vũ đài thế giới là một đảm bảo lớn nhất cho tự do và hoà bình toàn cầu.
*
Dương Khắc nói: Cậu chấn chỉnh nếp nghĩ cực kỳ rành rẽ. Lịch sử Trung Quốc có thể sẽ phát triển theo "thuyết ba giai đoạn" của cậu. Vũ khí tinh thần tôtem sói bị mai một trên thảo nguyên, nay đã đến lúc phải khơi dậy. Xem ra nó không hề bị han gỉ, vẫn toả sáng, vẫn sắc sảo. Hơn nữa tôtem sói trong kho vũ khí tinh thần tư tưởng tiên tiến nhất của thế giới hiện đại, vẫn toả ánh hào quang, còn tam cương ngũ thường - cương lĩnh của Nho gia thì như một xác chết đã thối rữa.
Dưong Khắc lại nói: Mấy vấn đề lớn cậu nêu đã giải đáp được những thắc mắc quan trọng của mình. Nhưng vẫn còn mấy câu hỏi sau đây: Triều Thanh, thành thị Trung Quốc đã xuất hiện mầm mống tư bản chủ nghĩa, vậy tại sao Trung Quốc chưa đi lên con đường tư bản chủ nghĩa?
Trần Trận nói: Nguyên nhân là do tồn tại dân tộc nông canh và tính cách dân tộc. Đất đai trồng trọt Trung Quốc quá rộng quá sâu quá xa, vào loại đứng đầu thế giới. Trên mảnh đất như thế mọc lên cây đại thụ nông canh rễ sâu tán rộng, hút sạch dinh dưỡng, tán cây che hết những mầm non. Chính quyên nhà nước nông canh chỉ riêng thuế má, phân bổ, vơ vét và yêu sách, cũng đã vét sạch tích luỹ cần thiết cho sự phát triển tư bản chủ nghĩa. Nhưng muốn phản đối phải có tính cách dân tộc dũng mãnh, sẵn sàng chiến đấu. Điều kiện chủ quan và khách quan đều không có thì tất nhiên không làm nên chuyện gì. Chủ nghĩa tư bản dưới bóng cây đại thụ nông canh không có chất bổ, không có mặt trời, quá lắm chỉ là mầm mống và vĩnh viễn chỉ là mầm mống. Cho nên lịch sử Trung Quốc phát triển như sau: "Tan rồi lại hợp, hợp rồi lại tan" loay hoay tại chỗ. Nếu như không có dân tộc du mục nhiều lần tiếp máu, thì dù tại chỗ cũng không thể tồn tại. Không có "văn minh sói" nhảy vào, Trung Quốc không thể phá vỡ hình thái kinh tế nông canh. Đây là tính đặc thù của Trung Quốc. Văn minh Trung Quốc khép kín là một đặc thù trong trong văn minh thế giới, như một con sông chết Talimu, nếu không dựa vào tầng lớp tiên tiến áp dụng những chính sách mạnh mẽ, nó không bao giờ nhập được vào dòng chảy chính của thế giới.
Dương Khắc hỏi: Tồn tại dân tộc quyết định tính cách dân tộc. Thí dụ, tồn tại của dân tộc Nhật Bản là ghê gớm. Người ta cũng trồng lúa, cũng nông canh, nhưng xét từ bản chất, Nhật Bản là một đảo quốc, dân tộc Nhật Bản từ xưa đã là dân tộc biển, công việc là đi biển đánh cá, săn bắt trên biển, buôn bán trên biển, giặc lùn câu kết với hải tặc. Tính cách dân tộc họ là tính cách sói biển hung dữ. Sói biển lên bờ, chẳng phải đuổi cho đàn cừu nông canh tan tác đó sao? Giặc lùn xưa kia từng đánh tới Nam Kinh Hàng Châu, từng đốt chay tháp Lôi Phong; Trên biển, thậm chí tiêu diệt toàn bộ đại quân Nguyên Mông xâm lược Nhật Bản. Thời cận đại sói biển phương tây hung dữ hơn, Nhật Bản lập tức nhập bọn, bỏ cừu theo sói, bỏ Á theo Âu, từ bỏ Trung Quốc Nho gia, học tập văn minh phương tây: Hiến chính, pháp luật, khoa học, giáo dục và đại công nghiệp phương tây. Sói biển gặp sói biển, đồng khí tương cầu, gặp nhau chỉ tiếc hơi muộn, học mãi không chán. Dân tộc Nhật học tập phương tây không gặp trở ngại lớn về tính cách dân tộc, trái lại, càng khơi gợi tính cách sói biển bẩm sinh., càng kích thích lòng ham học và chí tiến thủ, vì vậy người ta học cực nhanh. Năm 1868 Thiên hoàng Minh Trị thực thi duy tân, chỉ 36 năm ngắn ngủi sau đó đã xây dựng được nền công nghiệp phát triển, đánh bại Đại Thanh trong chiến tranh Giáp Ngọ, tiếp đó, đánh bại quân dội Sa hoáng nổi tiéng một thời trong cuộc chiến tranh Nhật - Nga, vươn lên thành đế quốc hàng đầu trên thế giới, gia nhập đội ngũ các nước mạnh châu Âu, tạo ra bước nhảy vọt đầu tiên, một kỳ tích trên thế giới. Hiện nay nước Nhật xếp thứ hai về kinh tế trên thế giới. Còn Trung Quốc sau khi Minh Trị Nhật Bản duy tân gần một thế kỷ rưỡi cho đến nay vẫn xếp vào thế giới thứ 3, đôi bờ vẫn chưa thống nhất, thu nhập bình quân tính theo đầu người và đầu tư cho giáo dục vào loại thấp nhất thế giới., hiệu quả đầu tư kém nhất, trình độ kỹ thuật vẫn chưa có duyên với giải thưởng Nobel; tiến độ đất đai sa mạc hoá và tốc độ thất thoát nước ngầm cao hơn rất nhiêu so với tốc độ phát triển kinh tế. Nhân khẩu nông nghiệp vốn đã quá thừa mà vẫn tăng thêm hàng chục triệu. Nền bóng đá yếu ớt của Trung Quốc luôn thua tơi tả trước sói Nhật Bản, chưa biết ngày nào mới ngóc đầu lên được...
Hơn một ngàn năm nay, Trung Quốc đem nông canh Nho học kinh điển cừu đi giáo hoá học trò Nhật., đúng là chọn lầm đồ đệ. Nhất Bản học Trung Quốc hơn ngàn năm Nho học mà không thấy có tiếng vang gì trên thế giới, vậy mà học phương tây mới hơn ba mươi năm mà đã cất cánh bay cao. Còn Trung Quốc thì sao? Phương tây vừa du nhập cái gì đó là gặp ngay sự phản ứng chối bỏ của toàn thể dân tộc, như cừu gặp sói, bất kể hay dở, bài xích tuốt, từ nhà vua đến Nghĩa hoà đoàn đều chống Tây diệt Tây. Kết quả, bị các nước mạnh chiếm đất, trở thành nửa thực dân địa.
Nhật Bản và Trung Quốc đều là giống da vàng Đông Á, cùng văn hoá Nho gia, cùng theo đạo Phật, vậy mà vì sao công cuộc duy tân của Nhật nhanh chóng thành công, còn duy tân của Trung Quốc thì chỉ 100 ngày đã bị chém đầu? Nếu không tìm căn nguyên từ tồn tại dân tộc và tính cách dân tộc, chúng ta sẽ không bao giờ nắm được vận mệnh của mình.
Dương Khắc gật đầu tán thành, lại hỏi: Nhưng vì sao ba dân tộc du mục lớn trên thế giới: A rập, Đột Quyết và Mông Cổ đều suy thoái?
Trần Trận nói: A Rập và Đột Quyết sau đó định cư hoặc làm ruộng. Mông Cổ tuy vẫn tiếp tục du mục, nhưng lịch sử phát triển sang thời đại thuốc nổ, thì kỵ binh của dân tộc thảo nguyên mất ưu thế, dân số lại quá ít, bị hai nước lớn có súng đạn kẹp chặt hai bên trên cao nguyên đại lục, mất thời cơ và điều kiện phát triển ra đại dương. Ngành du mục nguyên thuỷ thảo nguyên không phát triển sang giai đoạn cao "du mục biển", vì sẽ bị một "du mục biển" tính cách mạnh hơn đánh bại. Vì vậy vẫn là tính cách dân tộc quyết định vận mệnh dân tộc. Tính cách dân tộc mạnh hay yếu thì phải đem so với các tính cách dân tộc trên thế giới.
Ngành hàng hải càng đòi hỏi tính cách dũng mãnh. Bão cấp 12, sóng lớn và cá mập xanh nguy hiểm hơn nhiều so với bạch mao phong và sói thảo nguyên, Những dân tộc được tôi luyện trong nghề này tính cách càng mạnh, tầm nhìn càng rộng, dấu chân càng xa, hấp thu thành quả văn minh các nước trên thề giới càng nhiều, cướp bóc đại lục mới, đi tìm đất mới và tích luỹ nguyên thuỷ càng sớm, càng nắm bắt được thời cơ. Dân tộc du mục phương tây vốn hung hãn, ra biển như hổ mọc thêm cánh, vì vậy đứng hàng đầu trên thế giới hiện nay phần lớn là những dân tốc du mục thảo nguyên sau đó phát triển thành du mục biển, hoặc vốn là dân tộc du mục biển.
Lại nữa, đừng đánh giá thấp tác dụng cấm đoán của tôn giáo. Đạo Ixlam kiên quyết chống lại sự xâm nhập và can thiệp của phương tây, đồng thời cự tuyệt dân chủ và khoa học phương tây. Lạt Ma giáo làm bạc nhược tính cách dũng mãnh của dân tộc Mông Cổ. Nhưng đạo Cơ đốc lại bị dân tộc Tây Âu tính cách dũng mãnh cải tạo thành tân giáo chống lại sự chuyên chế hủ bại của giáo hội Thên chúa giáo La Mã, vô hại đối với chủ nghĩa tư bản. Tồn tại dân tộc quyết định tính cách dân tộc. Tồn tại dân tộc mạnh hơn quyết định tính cách dân tộc mạnh hơn. Và tính cách dân tộc mạnh tác động trở lại tồn tai dân tộc, chủ động kiến tạo tồn tại dân tộc càng mạnh mẽ tiên tiến hơn, nhằm mạnh hoá tính cách dân tộc. Mạnh làm vua, siêu mạnh sẽ trở thành quán quân.
Sự trỗi dậy của Nga La Tư thời cận đại cũng vậy. Piôt đại đế đưa nước Nga nông nghiệp là chủ yếu, chế độ nông nô còn lạc hậu hơn cả Trung Quốc, trở thành một trong những nước mạnh ở châu Âu. Nguyên nhân là ở tính cách sói của ông ta đả kích và diệt thẳng thừng thế lực quí tộc chủ nô bảo thủ lạc hậu, mạnh dạn học tập phương tây, liều mạng xông ra biển, vi hành khắp chốn, khảo sát Tây Âu, cạo râu, mặc âu phục, đội tóc giả, xây dựng hải quân, huấn luyện pháo binh, đập chuông nhà thờ đúc đại bác, thậm chí di chuyển thủ đô Nga La Tư từ khu nông canh tới ven biển, định đô Xanh Pêtecbua đối mặt với các nước mạnh và đại dương. Khí phách ấy, dũng cảm ấy khiến mình phục quá. Trước cách mạng văn hoá, mình xem các phim "Piôt đại đế", "Thượng tướng hải quân Usacôp" đến năm sáu lần. Lên thảo nguyên, mình tìm thấy nguồn gôc tính cách Piốt đại đế ở sói. Sống trên thảo nguyên mênh mông, dân tộc Nga La Tư vốn là dân tộc thảo nguyên, nông canh không phát triển, lại bị Khan quốc Kimchang thống trị và tiếp máu suốt hai thế kỷ, không có thảo nguyên và sói thảo nguyên, sẽ không có nhà cải cách vĩ đại Piốt đại đế.
Hai nước láng giềng lạc hậu hơn nhiều so với Trung Quốc, đều dựa vào tính cách dũng mãnh của sói mà ngồi lên đầu Trung Quốc.
Trước hết, muốn thay đổi tình trạng lạc hậu của Trung Quốc thì phải nhanh chóng chuyển đổi tồn tại dân tộc Trung Hoa thành tồn tại dân tộc có nền kinh tế chính trị đủ sức cạnh tranh, mau chóng bối dưỡng tính cách dân tộc dũng mãnh cầu tiến, không bao giờ được tự mãn. Điều này quyết định về căn bản vận mệnh dân tộc Trung Hoa.
Thứ nữa, trên cơ sở tính cách dân tộc, kiên quyết đi con đường "văn minh sói hiện đại", cần phóng thích có mức độ và cao tay trong việc điều khiển sói tính trong nhân tính. Đây là con đường cực khó đối với các nước trên thế giới. Sói tính linh hoạt và đầy sức sống, đồng thời lại điên khùng tham lam, cướp bóc và phá hoại. Sói tính trong nhân tính chẳng khác phản ứng nhiệt hạch, năng lượng cực lớn, sức phá hoại cũng cực lớn, khống chế tốt thì đem lại hạnh phúc cho nhân loại, không chế dở thì gây ra tai ương cho toàn cầu. Trên thế giới chưa có nhiều nước phóng thích hợp lý và chế ngự tốt năng lượng nhiệt hạch. Nước nào làm được như vậy đều đứng đầu các nước phát triển. Con đường này cực kỳ khó khăn, ngay cả cưòng quốc cận hiện đại, làm không tốt cũng dễ bị lật thuyền như ba nước Đức ý Nhật trong đại chiến thế giới II, vì chưa kiểm soát được sói tính trong tính cách dân tộc, kết quả bùng nổ hoạ phát xít, gây tổn thất lớn cho chính ba nước và nhân dân thế giới.
"Cách mạng văn hoá" của Trung Quốc cũng có vấn đề nghiêm trọng. Do sói tính không đủ, nên tính cách dân tộc Trung Quốc trong lịch sử, nhất là trong thời kỳ cận hiện đại hèn yếu, rơi vào tình cảnh nửa thực dân địa của phương tây, chịu đủ mọi điều ô nhục. Dân tộc Trung Hoa nổi giận, các chí sĩ du nhập tinh thần kiêu dũng xốc tới của phương tây, rồi từng bước du nhập công nghiệp có sức cạnh tranh của phương tây, vùng lên đánh đổ "Khổng gia điếm" (Nho giáo), phóng thích "soi tính" bị chèn ép lâu ngày. Dòng máu dân tộc Viêm Hoàng di truyền cùng những lần tiếp máu rốt cuộc đã phát huy tác dụng, tính cách dân tộc Trung Hoa mạnh dấn lên. Một trăm năm phấn đấu, đuổi sạch liệt cường, giành lại độc lập dân tộc, chiến thắng trong chiến tranh Triều tiên. Thế nhưng trong "cách mạng văn hoá", do nhu cầu chính trị nên phóng thích sói tính kiểu nhân tạo, "đả đảo bọn đầu trâu mặt ngựa", đánh đổ Chủ tịch nước nguyên soái tướng lĩnh, tinh hoa giới công thương, những học giả có uy tín. Sói "Hồng vệ binh" hoành hanh toàn quốc: Đánh thầy giáo, đấu Hiệu trưởng, đốt sách, huỷ đồ cổ, lục soát các nhà, giết ngưòi cướp của, đập phá Đại sứ quán, vô chính phủ, cực đoan, gây tai hoạ tày trời chưa từng có trong lịch sử Trung Quốc.
Toàn bộ lịch sử nhân loại và một giai đoạn trong lịch sử Trung Quốc đã chứng minh sự khó khăn của công việc phóng thích và chế ngự sói tính. Nho gia và bộ máy chuyên chế phong kiến trấn áp toàn diện sói tính trong tính cách dân tộc, kết quả là tính cách toàn dân tộc bị cừu hoá, lạc hậu, chỉ còn mỗi con đường diệt vong. Chỉ có giải phóng sói tính với liều lượng thích hợp, áp dụng chế độ thực sự dân chủ và pháp trị để chế ngự sói tính, vứt bỏ dân chủ giả hiệu co giãn như cao su. Đó là lối thoát duy nhất cho dân tộc. Chế độ thực sự dân chủ và pháp trị mới là lò phản ứng ngưyên tử duy nhất vừa giải phóng vừa khống chế "phản ứng nhiệt hạch" của sói tính. Muốn xây dựng nền dân chủ thực sự, phải đồng thời tiến hành và hoàn thành công trình cơ sở chuyển hoán tính cách quốc dân. Không có cơ sở của tính cách dân tộc, thì dù dựng nên lâu đài dân chủ cũng chỉ là lâu đài, nếu như nó đổ còn gây tai tiếng cho dân chủ và trên đống đổ nát ấy sẽ mọc lên một thể chế độc tài hơn. Không có công trình cơ sở để chuyển hoán tính cách dân tộc thì dân chủ mãi mãi chỉ là ảo vọng. Chuyển hoán tính cách dân tộc nông canh phải qua một thời kỳ quá độ "thả nổi", nhưng không được quá chậm chạp, nếu không, bệnh cũ (tính cách yếu đuối) sẽ khuếch tán những độc tố hủ bại, hiệu quả thấp, bùng nổ dân số và phá hoại môi trường, ra khắp cơ thể, phải mất nhiều thì giờ quí báu để chữa trị.
Dương Khắc gật đầu: Đúng vậy, dân tộc phương tây tính cách quá mạnh, chính phủ độc tài khó mà áp chế được dân. Ở phương tây, chế độ trung ương tập quyền như Trung Quốc rất khó đứng vững, mà dù có đứng cũng không vững. Cho nên người ta chỉ tiếp nhận chế độ dân chủ. Còn ở phương đông, cừu sợ nhất là tự do và độc lập, một khi không có "Từ châu mục" (người cai quản chăn dắt), cừu sẽ bị sói ăn thịt. Dân tộc nông canh ươn hèn đều vui lòng chấp nhận chế độ độc tài, đám dân nông canh là cha mẹ cung cấp cơm ăn áo mặc cho chế độ độc tài. Xem ra, tồn tại dân tộc của dân tộc Hoa Hạ và tính cách quóc dân không thay đổi thì chế độ độc tài ở Trung Quốc không bao giờ kết thúc.
Trần Trận lại nói: Dân tộc nào sói tính không mạnh thì dân tộc ấy không bao giơ giành được dân chủ và không biết sử dụng dân chủ. Trên thực tế, dân chủ là kết quả của sự phản kháng của dân tộc tính cách mạnh, ngã giá với nhà cầm quyền.
Tràn Trận lại nói: "Giang sơn dễ đổi, bản tính khó thay", nếu không cải cách tồn tại dân tộc thì bản tính dân tộc sẽ không còn là "khó thay", mà là "không thể thay đổi". Cuộc cải cách hiện nay ở nước ta, thực tế là cải cách tồn tại dân tộc. Tình hình cải cách hiện nay đã không thể đảo ngược. Về tính cách, đã từ "sói Viêm Hoàng", "sói Tần Hán" và "sói Tuỳ Đường" bị tồn tại nông canh cải tạo thành "cừu Hoa Hạ", vậy thì, cùng với tồn tại dân tộc mang tính cạnh tranh kiểu mới được xác lập và phát triển, "cừu Hoa Hạ" lạc hậu xưa nay sẽ trở thành "sói văn minh Trung Hoa hiện đại", hậu duệ chân chính của Viêm Hoàng, tiến hoá theo hướng "người văn minh thế giới" ở giai đoạn tự do dân chủ cao hơn.
Tuy nhiên, trên thế giới, Trung Quốc là nước đât đai nông canh rộng lớn nhất, lịch sử nông canh lâu đời nhất, số dân nông canh đông đảo nhất, ý thức nông canh sâu đậm nhất, không gian thành thị hoá quá chật hẹp, vì vậy, muốn chuyển hoá tính cách dân tộc từ "cừu Hoa Hạ" thành "sói văn minh" cấn phải một thời gian dài, đau khổ, thậm chí là thời kỳ đào thải quyết liệt. Làm sao đối xử, bố trí và nuôi sống đám quần chúng tính cách non kém, chuyển hoá tính cách yếu đuối của họ, sẽ là công viện khó khăn bằng lên trời. Hơn nữa,sau này nhiệm vụ công kiên của thể chế chính trị còn có thể do tính cách dân tộc hèn yếu mà không thành công. Chỉ có tinh thần sói kiên cường bất khuất mới giải quyết được những vấn đề khó khăn này.
Đó là những kết luận cuối cùng của tôi.
*
Thảo nguyên Ơlôn chìm trong màn đêm mênh mông, đèn điện ở những điểm định cư xa xa toả ánh sáng yếu ớt. Dương Khắc còn muốn hỏi nữa, nhưng Trần Trận vỗ tay lái, nói: Về thôi, kẻo Batu đánh xe đến tìm chúng mình bây giờ. Cậu còn hỏi chuyện gi, ta có thể trao đổi trên đường về Bắc Kinh.
Dương Khắc nói: Tôtem sói và tinh thần du mục đúng là những vấn đề then chốt của văn minh Trung Hoa, đụng vào đó là rất nhièu chuyện. Mình đang muốn hỏi cậu một số vấn đề.
Hai người xuống xe, giơ tay chào hang sói nhưng vẫn nấn ná chưa muốn đi. Trần Trận nhìn mỏm núi, nói khẽ: Sói con, tôi về Bắc Kinh đây, tôi sẽ trở lại thăm sói...
Dương Khắc nói: Ta nên dựng bia kỉ niệm trước hang sói, hay nhất là một biểu tượng tôtem sói.
Trần Trận thở dài, nói: Mình cũng muốn dựng nhưng không dám. Bây giờ chỗ nào cũng thấy dân ngụ cư đến từ vùng nông nghiệp, trông thấy bia sói, họ không đập nát thì chớ kể! Chưa chừng họ còn lấp mất cái hang trăm tuổi cũng nên. Hãy cứ để yên cái hang đó.
Trần Trận lại nói: Giờ đây mình rất muốn dựng một bia sói, một biểu tượng tinh thần tôtem sói trong lòng mọi người. Tôtem sói vốn là một trong những tôtem nguyên thuỷ quan trọng nhất của dân tộc Trung Hoa, về địa vị chỉ sau tôtem rồng. Nhưng mình cho rằng, vấn dề không đơn giản như thế, căn cứ vào những phát hiện khảo cổ mới đây và sự phân tích của mình, thời kỳ đầu tôtem sói và tôtem rồng có thể chỉ là một, tôtem rồng về sau chẳng qua là diễn biến từ tôtem sói.
Dương Khắc giật mình, vội nói: Phát hiện này rất quan trọng đối với vấn đề chuyển hoán tính cách quốc dân của người Trung Quốc. Cậu nói vấn đề này rồi hãy đi.
Trần Trận nói một mạch: Hình tượng rồng thực ra đã xuất hiện cách đây 5.000 năm. Năm 1971 tại Tam Tinh Thala xuất thổ một con rồng ngọc, thuộc văn hoá Hồng Sơn, thời kỳ đồ đá mới, được gọi là con rồng đầu tiên ở Trung Quốc. Khi ấy tổ tiên Hoa Hạ chưa trở thành dân tộc nông canh, đang trong trạng thái săn bắn hái lượm, du mục hoặc bán nông bán mục. Tôtem rồng đàu tiên là của tiên dân nguyên thuỷ Hoa Hạ, sau đó mới diễn biến thành tôtem của dân tộc nông canh, Tôi đã nghiên cứu kỹ con rồng ngọc Tamtinh Thala, giật mình nhận ra rằng, con rồng ngọc nguyên thuỷ không giống chút nào con rồng mà người Trung Quốc quen thuộc, mà là con rồng đầu sói thân rồng, trên mình con rồng ngọc không có vảy, cũng không có móng vuốt, đầu và gáy hoàn toàn sao chép y nguyên đầu sói gáy sói: mặt dài, mũi dài,, mõm dài, mép hơi nhếch lên. Nhất là mắt thì đúng là mắt sói, tròn mà xếch, in hệt mắt sói con chúng mình nuôi. Đặc trưng vê mắt, tiền nhân thời đại đồ đá mới dùng thủ pháp nghệ thuật khoa trong một cách kỳ diệu.Chưa hết, lông gáy sói còn được điêu khắc giống như thật, từ sau ót cho tới lưng bờm nổi hẳn lên vốn là đặc trưng của sói Mông Cổ, đẹp mà oai không thể tả. Mình thuộc lòng hình dáng con sói Mông Cổ, có thể tưởng tượng, nếu như không quan sát kỹ lưỡng con sói trong một thời gian dài, tổ tiên chúng ta không thể khắc hoạ hình tượng nghệ thuật giống đến thế.
Con rồng ngọc này thực tế là con sói ngọc, nhất là cái đầu thì đúng là đầu sói, đúng tuyệt đối. Vậy mà có một số học giả nói đó là đầu lợn. Nhưng mình cho rằng, căn cứ vào tính cách, dân du mục không bao giờ sùng bái lợn, dù lợn nhà hay lợn rừng. Vì rằng dân tộc du mục tây bắc hoặc phương bắc không khi nào sùng bái con vật họ đã thuần dưỡng hoặc có thể thuần dưõng. Chỉ những ai không hiểu tính cách ấy của dân tộc du mục Trung Quốc mới cho rằng họ sùng bái gia súc; từ hình tượng mà xét, mắt lợn không xếch, mõm lợn không mở ra ngay phía trước, đầu lợn cũng không dài. Hơn nữa, con lợn thân hình ngắn mà tròn, đuôi ngắn, bất kể lợn rừng hay lợn nhà đều không thể diễn biến thành rồng. Nói diễn biến thành rồng là quá khiên cưỡng. Còn sói thì thân dài lông mượt đuôi dài, diẽn biến thành rồng là có thể. Cậu tưởng tượng bộ da sói hình ống thân dài đuôi dài treo trên ngọn sào, có phải đúng là đầu sói mình rồng? Mình đoán hình tưọng rồng bay Trung Hoa rất có thể là hình tượng sói bay lên trời trong tưởng tưọng của tổ tiên Hoa Hạ thảo nguyên, mỹ hoá và thần thánh hoá con sói. Năm xưa chúng mình xem hình ảnh sói con bay trên trời, cảm thấy không chỉ là sói bay mà như rồng bay, có điều, khi ấy mình không khai thác sâu theo hướng này.
Sau khi về Bắc Kinh, được xem ảnh chụp con rồng ngọc, mình xúc động ghê gớm, y như gặp lại sói con. Trong điều kiện lúc bấy giờ mà khắc hoạ trên đá quí con rồng đầu sói mình rồng đẹp đến vây, có thể suy ra tổ tiên chúng ta quen thuộc và gần gũi con sói đến mức nào. Vả lại, địa điểm rồng ngọc xuất lộ là ở Nội Mông, quê hương của sói thảo nguyên Mông Cổ, nơi có nhiều sói lớn và dũng mãnh nhất, có nhiều dân tộc du mục sùng bái tôtem sói sinh sống nhất và cũng là nơi có nhiều truyền thuyết nhất về "sói bay" Trung Quốc. Điều này khiến mình tự nhiên nghĩ tới mối quan hệ giữa tôtem sói và tôtem rồng và bắt đầu nghiên cứu về chúng.
Theo kết quả nghiên cứu của mình, tôtem sói và tôtem rồng chí ít có 7 điểm giống nhau dưới đây:
Một, tôtem sói và tôtem rồng sớm nhất xuất lộ ở thảo nguyên Nội Mông hoặc thảo nguyên Mông Cổ kế cận. Nơi này lại đúng là quê hương của giống sói thảo nguyên Mông Cổ lón nhất, dũng mãnh nhất và đông nhất thế giới, hơn nữa sói thảo nguyên là đồng hương của dân tộc du mục, người và sói vật lộn quyết liệt để cùng tồn tại trên thảo nguyên rộng lớn. Do đó, tinh thần và tính cách sói ảnh hưởng lớn nhất đối với người thảo nguyên, không như sói bắc cực sống trong rừng xa người, ăn thịt động vật hoang dã là chính, không ảnh hưởng lớn đến con người, do vậy ở đó khó có tục sùng bái sói.
Hai, tôtem sói và tôtem rồng nguyên thuỷ đầu và cổ giống nhau, thân tròn mà dài giống nhau. Rồng ngọc Tamtinh Thala Nội Mông đầu sói mình rồng, cũng có nghĩa là thời đại đồ đá mới, đầu và cổ tôtem sói và tôtem rồng hoàn toàn giống nhau, mình cũng giống nhau, đều không có vảy, điều này chứng tỏ tôtem rồng không diễn biến từ cá hoặc từ rắn. Thời đó, rất có thể tôtem sói chính là tôtem rồng, tôtenm rồng chính là tôtem sói, hai tôtem này chưa tách riêng, mà quê của cả hai đều ở thảo nguyên.
Ba, tôtem sói và tôtem rồng đều bay trong tư thế uốn lượn lên xuống để bay. Trong truyền thuyết, dù là trên thảo nguyên hay trên đại lục Hoa Hạ, hai tôtem này đều đang bay. Trên thảo nguyên, tôtem sói bay lên trời đưa linh hồn người lên Tăngcơli, còn tôtem rồng của Hoa Hạ thì đằng vân giá vũ, kêu gió gọi mưa. Nhưng rất nhiều dân tộc trên thế giới và ở Trung Quốc, tôtem của họ không biết bay, thí dụ họ thờ gấu, hổ, bò, khỉ...Dân tộc thảo nguyên và dân tộc nông canh trên đại lục Trung Quốc đều có chung đặc điểm tôtem bay, điều này không phải trùng hợp ngẫu nhiên.
Điều giông nhau nhất là tư thái bay, tư thái phóng như bay của sói thảo nguyên là uốn lượn lên xuống, bộ da hình ống của con sói trên đầu sào cũng uốn lựon lên xuống "bay" trước gió. Con rồng Trung Hoa trong điêu khắc và trên bích hoạ thì cong người lên mà "bay", động tác giống hệt sói "bay". Nhưng động tác bơi dưới nước của cá, rắn và cá sấu thì hoàn toàn khác. Cá rắn cá sấu dựa vào quạt đuôi sang trái sang phải mà tiến lên. Một đằng là "uốn lượn lên xuống", một đắng là "quạt trái quạt phải", hai tư thái và động tác hoàn toàn khác biệt chứng tỏ sói là động vật cao cấp hơn rắn cá sấu.Tôtem rồng không phải diễn biến từ động vật cấp thấp như cá, rắn, cá sấu, mà diễn biến từ sói, động vật có vú trên thảo nguyên. Có rất nhiều người Trung Quốc lại cho rằng rồng diễn biến từ cá hoặc rắn bơi trong nước. Bây giờ vẫn có người bảo rồng lấy nguyên mẫu từ cá sấu, nói vậy là chưa thấy rõ sự khác nhau về bản chất giữa rồng và cá, rắn, cá sấu, sự khác nhau giữa "uốn lượn lên xuống" và "quạt trái quạt phải". Do đó, ý nghĩa thật sự về tôtem rồng bị mơ hồ.
Bốn, tôtem sói và tôtem rồng tuy đều biết bay nhưng không có cánh, thần thoại Trung Quốc có "phi hổ" (hổ bay) "phi mã" (ngựa bay),một số dân tộc khác có "rắn bay", nhưng tất cả những con biết bay đó đều có cánh. Những năm 50, ta có thuốc lá nhãn hiệu "phi mã", vỏ bao vẽ con ngựa có đôi cánh lớn. Vậy tôtem rồng sao không có cánh? Mình cho rằng tôtem rồng diễn biến từ tôtem sói, tôtem sói không có cánh, nên tôtem rồng cũng không có cánh. Totem sói sở dĩ không có cánh vì người thảo nguyên nguyên thuỷ tin rằng, con sói thần thông quảng đại, biến hoá như thần thì không cần cánh vẫn bay được.
Năm, tôtem sói và tôtem rồng có liên quan mật thiết với tục sùng bái trời của người Trung Quốc. Trên thảo nguyên, dân tộc thảo nguyên tin rằng, sói được trời sai xuồng bảo vệ thảo nguyên và đưa linh hồn những người sùng bái Tăngcơli lên trời; Còn ở Hoa Hạ, dân tộc nông canh cho rồng là hoá thân của trời, nhà vua là "con trời", thần thánh không được xâm phạm. Tộc Hán đã tiếp nhận tục sùng bái trời của tổ tiên đem từ khuc vực du mục về đại lục nông canh, tấ nhiên khi về trung nguyên, tổ tiên họ đem theo cả tôtem sói.
Sáu, tôtem sói và tôtem rồng đều là hình tưọng mãnh thú hung dữ đáng sợ. Tôtem các dân tộc trên thế giới có mãnh thú, cũng có cả động vật hiền lành ăn cỏ., nhiều dân tộc thờ tôtem bò. Nhưng vì sao dân tộc Hoa Hạ lại lấy con rồng có bộ mặt hung tợn làm tôtem?
Là vì khi ấy tổ tiên Hoa Hạ vẫn còn trong thời kỳ săn bắn hái lượm, chưa phải là dân tộc nông canh hiền hoà đôn hậu, mà tuyệt đại đa số dân tộc du mục Trung Quốc đều lấy sói làm tôtem. Do hình tượng sói rất dữ, nên hình tượng rồng diễn biến từ sói cũng rất dữ.
Bảy, sói và rồng đều có đặc tính không thể thuần dưỡng. Tôtem của rất nhiều dân tộc trên thế giới là động vật có thể thuần dưỡng, thậm chí là gia súc nuôi trong nhà. Còn sói và rồng, tôtem của hai dân tộc lớn ở Trung Quốc đều có tính cách không thể thuần dưỡng. Sói là loại động vật quật cường, không khi nào chịu khuất phục, vậy rồng diễn biến từ sói cùng không chịu khuất phục. Rồng tiếp tục tinh thần sói, tăng cường sức mạnh của sói, rồng không những không bị thuần dưỡng mà còn thuần hoá thần dân, còn tinh thần cưỡng lại thuần hoá của sói đã bị Nho gia lợi dụng đưa lên vị trí tối cao, bị thấn thánh hoá.
Căn cứ vào những điểm tương đồng có tính then chốt nêu trên, mình đoán tôtem rồng Trung Hoa diễn biến từ tôtem sói thảo nguyên, cũng như dân tộc nông canh Hoa Hạ là diễn biến từ dân tộc du mục. Bởi vì dân tộc du mục thảo nguyên chưa bao giờ xa rời thảo nguyên nên tôtem sói của dân tộc thảo nguyên cũng chưa bao giờ biến hình, dân tộc thảo nguyên xưa nay chỉ sùng bái tôtem sói; Từ viễn cổ, một bộ phận dân tộc du mục rời thảo nguyên tiến vào khu nông canh của dân tộc Hoa Hạ, cũng là đưa tục sùng bái Tăngcơli và sùng bái tôtem sói vào cuộc sống nông canh Hoa Hạ. Thời cổ xưa bất kể chăn nuôi hay nông nghiệp đều dựa vào trời, vì vậy tục sùng bái trời vẫn được giữ lại sau khi vào khu vực nông canh sinh sống. Nhưng sau khi bộ tộc du mục biến thành tộc nông canh, tính cách dần bị mềm hoá dần trở nên sợ sói ghét sói. Vậy là tục sùng bái sói đem từ thảo nguyên về không thích ứng với cuộc sống và tinh thần nông canh. Thế là tôtem sói dần dà bị nông canh cải tạo thành hình tượng mới tôtem rồng có khả năng hú gió gọi mưa.
Thời viễn cổ, thảo nguyên Đông Á chắc chắn có dân tộc du mục sùng bái tôtem sói.; tôtem thời Phục Hi "đầu người mình rắn". Về sau, trong quá trình pha trộn bộ tộc, có lẽ tổ tiên người Hoa Hạ lấy tôtem sói và tôtem "đầu người mình thú" làm chuẩn, sau đó lấy một số chi tiết từ những tôtem của các bộ tộc khác, thêm vào đó một số tình tiết như vẩy cá, vuốt chim ưng và sừng hươu, vậy là tôtem sói biến thành tôtem rồng. Trong quá trình sáng tạo và pha trộn tôtem rồng, tôtem sói đóng vai trò then chốt, vì rằng hình tượng "mặt ngưòi mình rắn" so với hình tượng tôtem rồng dữ dằn, khác nhau quá xa. Mình đã xem hình vẽ trên gốm "mặt người mình rắn" thời Ngưỡng Thiều, đâu phải con rồng? Y hệt con thạch sùng, hoặc như con rết đầu to bự! Hình tượng u ám và kinh tởm, không hề có giá trị thẩm mỹ và cảm giác thiêng liêng. Còn như lắp đầu sói vào mình rắn thì khác hẳn. "đầu sói mình rắn" về cơ bản đã là bản phác thảo nghệ thuật. Về sau, hình tượng con rồng Trung Hoa sở dĩ oai phong lẫm liệt khiến người nể sợ mà vẫn có giá trị thẩm mỹ, là vì nó mang nhứng nét đặc trưng về hình tượng cũng như về tính cách của sói. Con rồng "trừu tượng" dứt khoát phải có cơ sở từ vật thật, mà tôtem dũng mãnh nhất cụ thể nhất lâu đời nhất trong lịch sử và trong các dân tộc Trung Hoa, chỉ có thể la tôtem sói. Vì vậy, nếu không tham khảo hình tượng, tính cách và tinh thần tôtem sói, rồng Trung Hoa không thể thành rồng, mà chỉ là con sâu Trung Hoa.
*
Trần Trận bảo Dương Khắc lên xe. Anh cũng lên xe và bật đèn trong, xem giờ rồi lại nhìn tấm phích, nói; Còn một vấ đề nữa rất đáng nghiên cứu, đó là thần thú thao thiết thần bí trong truyền thuyết. Mình cho rằng, thao thiết cũng điễn biến từ sói, sau đó thao thiết diễn biễn thành rồng. "Từ Hải" giải thích: Thao thiết là con ác thú tham ăn trong truyền thuyết, xưa khắc đầu nó lên đỉnh, chuông, vò rượu có tính chất tô điểm". "Lã thị Xuân thu. Tiên thức" viết: Đỉnh nhà Chu gắn con thao thiết, có đầu không có thân". "Từ Hải" giải thích chữ ‘thao': ‘Thao' có nghĩa là tham, "Hán thư. Lễ nhạc chí" chép: Cực tham gọi là ‘thao', chỉ tham ăn."
Mấy câu trên có ba vấn đề cần chú ý:
Một là, thao thiết là ác thú mà không phải là cá rắn trăn cá sấu. Thao thiết không thuộc họ cá, cũng không thuộc loài bò sát. "Từ Hải" còn chua thêm hình vẽ. Chỉ cần nhìn thấy là cậu biết ngay nó giống con gì. Nhìn trực diện đúng là sói, cũng hai mắt tròn mà xếch, rất dữ.
Hai là, thao thiết cực kỳ tham ăn, đặc trưng này rõ ràng để chỉ đặc tính của sói. "Cực tham ăn" là một trong những đặc tính nổi bật của sói thảo nguyên. Chúng mình từng nuôi sói, rất biết sói tham ăn như thế nào, có thể kể ra vô số dẫn chứng. Trên đời không có động vật nào tham ăn hơn sói. Không tin cứ đi hỏi các mục dân cao tuổi "Thú dữ tham ăn nhất thiên hạ" là con gì? Khẳng định là sói. Ai cũng biết, "tham" là đại từ chỉ sói tính. Đổng Trọng Thư nói về Tần: "lấy tham ăn như sói làm nếp sống", gắn tham với sói. Người Trung Quốc hình dung kẻ tham ăn: "ăn ngấu nghiến như sói như hổ", lại còn đặt sói trên hổ., chứng tỏ sói tham ăn hơn hổ. Hình dung lòng tham đều nói: "dã tâm như sói", không nói "dã tâm như hổ".
Do con thao thiết có hai đặc trưng "thú dữ" và "cực tham ăn", hơn nữa hoa văn giống sói. Do đó con thao thiết trong truyền thuyết rất có thể là sói, hoặc giả từ sói biến thành thần thú.
Ba là, thao thiết là hoa văn chủ yếu trên đỉnh nhà Thương Chu, điều này liên can đến hàng loạt vấn đề. Đỉnh là trọng khí lập quốc của dân tộc Hoa Hạ thời đại đồ đồng. Thời Chu, "lời nói có sức nặng chín đỉnh". "đỉnh" - thần khí và lễ khí tượng trưng cho vương quyền tối cao của vương triều và cũng là tế khí, tế trời đất tổ tiên. Đỉnh chiếm địa vị tôtem trong tâm khảm dân tộc Hoa Hạ. Do vậy, chỉ có thuộc về tôtem của dân tộc mới có địa vị cao quí, mới được chạm khắc hoặc gắn trên trọng khí. Hiện tượng này nói lên hai vấn đề: Một, đến đời Thương Chu, có thể dân tộc Hoa Hạ vẫn sùng bái tôtem sói, ít ra là tôtem mãnh thú. Tục sùng bái tôtem từ thời Viêm Hoàng vẫn tiếp tục trong thời kỳ này. Hoa Hạ dưới triều Chu chịu ảnh hưởng tôtem sói càng sâu, vì nhà Chu phát tích từ Tây Nhung,mà Tây Nhung thì phần lớn các dân tộc du mục sùng bái tôtem sói. Hai, khi đó rồng có thể chưa được tiếp nhận phổ biến, chưa chính thức trở thành tôtem của dân tộc Hoa Hạ, nếu không, trên đỉnh tượng trưng cho vương quyền chắc chắn vẽ hoa văn rồng là chính. Vả lại, thiên tử nhà Chu khi ấy chưa có long toạ, vẫn theo tập tục du mục thời Viêm Hoàng, trải chiếu ngồi dưới đất.
Hoa văn trên đỉnh nhà Chu chủ yếu do hoa văn con thao thiết và hoa văn mây tạo nên., lấy thao thiết làm trung tâm, mây lượn quanh. Rõ ràng là thao thiết ở trên trời, đầu ló ra khỏi mây, cúi nhìn nhân gian, thân khuất trong mây, không rõ mình rắn hay mình rồng, nhưng nếu tiếp theo gáy là mình rồng, thì không khác mấy con rồng tiêu chuẩn sau này. Vì vây mình cho rằng, giữa tôtem sói và tôtem rồng còn có một giai đoạn quá độ là tôtem thao thiết. Con thao thiết vừa có tính cách của sói, vừa có bộ mặt dữ tợn như rồng sau này.
Trước đây mình không hiểu dân tộc Hoa Hạ trong thời đại đồ đồng lại sùng bái con vật tham ăn thao thiết, hơn nữa, đưa nó lên địa vị thần khí. Chẳng lẽ khi ấy người Trung Quốc tham ăn nên sùng bái con ác thú tham lam? Cái dáng tham ăn của con thao thiết chẳng có vẻ gì là thần thánh. Nhưng từ khi phát hiện thao thiết rất có thể là tôtem sói biến hình, mình thông ngay. Tham ăn chỉ là một đặc trưng của sói, là biểu tượng của tinh thần và tính cách sói. Tộc Hoa Hạ thời Thương Chu sùng bái thần thú thao thiết, là kế thừa tục sùng bái tôtem sói của tổ tiên. Sói tuy tham ăn, nhưng tinh thần dũng cảm xốc tới, uy vũ không chịu khuất, thà chết trận còn hơn chết bệnh, mới là nguyên nhân căn bản khiến dân tộc Hoa Hạ sùng bái sói trong thời kỳ đầu. Nguyên nhân nàychỉ hiểu được sau khi tìm hiểu kỹ về sói. Còn về sau dân tộc nông canh sợ sói ghét sói và Nho gia thì rất khó lý giải. Về sau nữa, khi nông canh và Nho gia ngày càng chiếm địa vị thống trị, con thú thao thiết tham ăn tất nhiên phải rời khỏi thần khí, được cải tạo thành rồng, nhường ngôi cho rồng.
Trong lịch sử, tinh thần sói từng chinh phục rất nhiều dân tộc du mục, còn rất nhiều dân tộc du mục lại nhiệt liệt sùng bái tôtem sói. Vì sao sau khi xuống làm chủ trung nguyên hoặc Trung Quốc, các đế vương của dân tộc du mục lại ưa thích mặc long bào của Trung Hoa, ngồi long toạ của Trung Hoa, có thể là vì họ nhìn thấy hình ảnh hoặc biến hình của tôtem sói trong tôtem rồng. Tôtem rồng thực tế la tôem sói bay của dân tộc du mục thay hình đổi dạng nhưng lòng không đổi. Tuy nhiên, sau khi dân tộc du mục vào đến đồng ruộng Hoa Hạ, tinh thần du mục của họ bị cải tạo thành ý thức nông canh, cũng vậy, tinh thần tôtem của dân tộc du mục cũng bị tồn tại nông canh cải tạo, thế là tôtem sói bảo vệ thảo nguyên liền biến thành tôtem rồng hô phong hoán vũ, chủ quản mạch sống của nông canh., vậy là sói biến thành rồng, hơn nữa, thêm vào đó rất nhiêu quan niệm và ý thức của dân tộc nông canh., cải tạo thực chất tinh thần nguyên thuỷ của tôtem rồng đến mức hoàn toàn khác xưa, tinh thần dân tộc tôtem sói hăng hái tiến thủ, bị cải tạo thành tinh thần bạo lực chuyên chế tượng trưng cho uy quyền của đế vương. Tôtem rồng trở thành tôtem cho đế vương các triều đại cáo mượn oai hùm trấn áp doạ nạt dân chúng. Long bào chỉ thuộc mỗi nhà vua, chín rồng chín móng. áo bào bảy rồng bảy móng, năm rồng năm móng không được gọi là long bào, chỉ được gọi là mãng bào. Bước váo xã hội hiện đại, dân tộc Trung Hoa đặc biệt cần phải gạt bỏ những cặn bã đế vương chuyên chế gán cho tôtem dân tộc, trả lại bộ mặt vốn có của tôtem dân tộc Hoa Hạ - tinh thần tôtem sói.
Hình tượng dũng mãnh khiến người nể sợ của con rồng Trung Hoa, ban đầu còn ẩn chứa tinh thần tôtem và linh hồn sói mà mọi người vẫn kính nể. Tôtem rồng và tôtem sói Trung Hoa có thể có quan hệ máu thịt không thể chia lìa. Nhưng về thực chất, rông Trung Hoa đã hoàn toàn bị dị hoá: Sói tự do đã biến thành rồng độc đoán, tấm gương của toàn dân tộc trở thành hoá thân của kẻ độc tài; tôtem tràn đầy sức sống chỉ còn cái vỏ thở không ra hơi, biến thành rồng giấy, hổ giấy.
Chỉ có tước bỏ tinh thần độc đoán của đế vương phong kiến trong tôtem rồng Trung Hoa và tiêm vào đấy tinh thần hăng hái cầu tiến của tôtem sói, con rồng khổng lồ Trung Hoa mới có khả năng thật sự bay cao, bay khắp địa cầu, bay vào vũ trụ, khai thác không gian sinh tồn cho dân tộc Trung Hoa và toàn thể nhân loại.
*
Hai người ăn hết thức ăn còn lại của bữa trưa mà vẫn không đỡ đói, bụng vẫn réo ùng ục. Dương Khắc nói: Mình rất muốn ăn hết đĩa thịt luộc như con thao thiết. Trần Trận nói: Caxưmai mà thấy chúng mình ăn như sói thế này chắc rất vui. Dương Khắc bật hết đèn xe nhằm hưóng đường biên phòng tây bắc chạy đi. Qua một con dốc lớn đã có thể nhìn thấy ánh đèn mờ tỏ phía xa, Caxưmai chắc là cầm đèn pin đợi đã lâu. Trần Trân nhìn quả núi Sói qua gương chiếu hậu rất lâu. Anh không biết khi nào trở lại...
Mùa xuân năm 2002, Batu và Caxưmai từ thảo nguyên Ơlôn gọi điện cho Trần Trận thông báo 80% đồng cỏ ở Paolicơ đã bị sa mạc hoá, qua một năm nữa toàn bộ sumu (làng) sẽ từ chăn thả tại chỗ biến thành nuôi trong chuồng, không khác gì nuôi trâu bò ở nông thôn dưới xuôi, mọi nhà phải xây thêm mấy căn nhà nữa...
Trần Trận hồi lâu không nói được câu nào.
Vài hôm sau, bão cát mù trời như con rồng khổng lồ che khuất ánh nắng, thành phố Bắc Kinh chìm trong mưa bụi, hoàng thành Trung Hoa trở thành thành phố cát.
Trần Trần rời máy vi tính ra trước cửa sổ, buồn rầu nhìn lên phương bắc. Đàn sói đã trở thành lịch sử, thảo nguyên đã trở thành kỷ niệm, văn minh du mục chấm dứt hoàn toàn, ngay cả dấu vết cỏn con của sói Mông Cổ để lại trên thảo nguyên Nội Mông - hang trăm tuổi, cũng sắp bị cát vùi.
Từ 1971 - 1996 phúc cảo Uchumuxin (Nội Mông) - Bắc Kinh
1997 sơ cảo Bắc Kinh
2001 bản thảo lần 2, Bắc Kinh
20 tháng 3 năm 2002 bản thảo lần 3, ngày bão cát Bắc Kinh
Cuối năm 2003 sửa chữa lần cuối tại Bắc Kinh
Nguồn: Talawas. Các chương đăng trên talawas có sự đồng ý của dịch giả.