Đến dự hội thảo, phía khách mời có PGS.TS. Trần Thị Mỹ Liêm - PGĐ Nhạc viện TP.HCM, TS. Mai Mỹ Duyên - ĐH Trà Vinh, TS. Trần THị Hải Phượng - Nhạc viện TP.HCM, Học giả An Chi, Ô. Võ Trường Kỳ, TS. Nguyễn Nhã, NSUT. Lê Thiện, Soạn giả Nguyễn Xuân Phong, Nguyễn Hồng Khanh, Hà Nam Quang, cùng các nhà nghiên cứu đến từ các tỉnh Bến Tre, Tiền Giang, Long An, An Giang về tham dự.
Phía nhà trường có TS. Ngô Thị Phương Lan - Phó Hiệu trưởng, TS. Trần Anh Tiến - Phó Trưởng phòng QLKH-DA, PGS.TS Thành Phần - GĐ Trung tâm Nghiên cứu Đông Nam Á, GS.NGND Ngô Văn Lệ - Khoa Nhân học, TS. Nguyễn Thị Hồng Hạnh - Phó Trưởng Khoa, TS. Đào Lê Na - Khoa Văn học và Ngôn ngữ, cùng các nhà nghiên cứu văn hóa, giảng viên, nghiên cứu sinh và học viên cao học các ngành văn hóa, lịch sử, nhân học cùng tham dự.
TS. Ngô Thị Phương Lan, Phó Hiệu trưởng nhà trường phát biểu khai mạc. Ảnh: Việt Thành
Văn hóa cải lương phổ biến rộng rãi trong công chúng nhờ vào sức hấp dẫn lôi cuốn và những giá trị chuyển tải của hoạt động nghệ thuật sáng tác và biểu diễn, cải lương để lại cho văn hóa dân tộc Việt Nam một di sản nhân văn đầy giá trị. Từ những bản nhạc cổ ban đầu các thế hệ nhạc sĩ, nghệ sĩ đã không ngừng sáng tạo để tạo nên những bản Vọng cổ đầy chất nghệ thuật, hoàng kim của sân khấu cải lương. Cho tới nay, sân khấu cải lương đã phát triển hơn 100 năm, góp phần tạo nên sự đa dạng của nghệ thuật biểu diễn của nước nhà với các tên tuổi lớn và cả thành quả trên phương diện văn hóa. Với lĩnh vực văn nhân, với các thầy đờn, soạn giả và nghệ sỹ diễn viên mà tên tuổi họ đã trở thành thần tượng cho bao lớp công chúng. Văn hóa cải lương Nam Bộ thể hiện tinh thần lao động, đấu tranh phát triển xã hội, lôi cuốn được những người dân trên cả nước biết đến Nam Bộ, nhắc đến Nam Bộ là có thể nói ngay đến đờn ca tài tử và cải lương. Chập chững vào những năm đầu thế kỷ 20 để rồi phát triển cực thịnh sau đó, chịu sự ảnh hưởng của âm nhạc phương Tây, cải lương ra đời và xem như một loại hình nghệ thuật mới. Với sự ghi nhận của UNESCO và nhà nước vinh danh vào năm 2013, thuộc di sản văn hóa dân tộc và thế giới là đờn ca tài tử, cũng là một di sản văn hóa cải lương và cũng có thể nói đờn ca tải tử là vườn ươm nghệ thuật tạo nên những sáng tạo mới vô biên và không ngừng cho hoạt động nghệ thuật sân khấu cải lương. Đây chính là những yếu tố mà TS. Ngô Thị Phương Lan - Phó Hiệu trưởng nhà trường nhận mạnh trong bài phát biểu của khai mạc hội thảo.
TS. Mai Mỹ Duyên (giữa), TS. Huỳnh Công Tín (bìa phải) điều hành hội thảo. Ảnh. Việt Thành
Tại buổi, TS. Mai Mỹ Duyên với tham luận Vị thế Mỹ Tho trong diễn trình đờn ca tài tử và cải lương Nam Bộ, đã nói nên những nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của đờn ca tài tử, của cải lương tại vùng đất Mỹ Tho (tỉnh Mỹ Tho cũ) - Tiền Giang hôm nay. Từ bối cảnh của Mỹ Tho đến tiến trình phát triển, TS. Mai Mỹ Duyên nói đến lịch sử của gia đình cố GS Trần Văn Khê, một gia đình đặc biệt trong dòng nhạc dân tộc hay như cha của GS, Trần Văn Khê là ông Trần Văn Triều - Bảy Chiều đã có cách chế lên dây đờn kìm rất đặc biệt mà ông đặt tên là lên dây Tố Lan dùng để đờn hai bản Văn Thiên Tường và Tứ đại oán hay việc đờn ca tài tử đã đến Pháp biểu diễn năm 1906 do Nguyễn Tống Triều dẫn gánh hát đi là những sự kiến có dấu ấn làm thay đổi và tác động đến việc phát triển cải lương sau này. Các tham luận khác cũng trình bày đến sân khấu cải lương đã có nhiều hoạt động phong phú, đóng góp cho văn hóa dân tộc và có một tiến trình phát triển khá dài nhưng nhìn từ bình diện học thuật thì nghiên cứu về cải lương còn khá khiêm tốn, do đó việc khảo sát, thống kế, nhận định, đánh giá, khẳng định các giá trị và thực trạng hoạt động của sân khấu cải lương là hết sức cần thiết, nhằm tạo ra các động lực mới, tái tạo năng lượng để sân khải cải lương được phục hồi và phát triển bền vững.
TS. Nguyễn Nhã chia sẻ ý kiến tại hội thảo. Ảnh: Việt Thành
Nhân dịp nay, TS. Nguyễn Nhã cũng trăn trở với việc bảo tồn và phát huy sân khấu cải lương để phát huy được văn hóa dân tộc trong hoàn cảnh mới. Ngoài ra nghề làm trang phục cải lương cho thấy TP.HCM là nơi quy tụ hầu hết các cơ sở làm trang phục cải lương, để bảo tồn và phát huy nghề cần có chủ trương thích hợp từ các cấp, ban ngành; tạo điều kiện liên kết, thiết kế tour du lịch văn hóa đưa du khách đến các phòng trưng bày trang phục tham quan để cổ vũ làng nghề. Hội thảo lần này, cũng đón nhận được nhiều ý kiến từ các nghệ sỹ đến tham dự hội thảo, NSUT Lê Thiện chia sẻ vị trí của cải lương trước đây là hết sức quan trọng, đóng vai trò là món ăn tinh thần chính của xã hội Nam Bộ, được công chúng đón nhận bởi sự ngọt ngào của giọng ca hay những tính tiết hợp logich của cuộc sống và con người. Soạn giả và đạo diễn đã "đo ni đóng giày" cho các nghệ sỹ và biểu diễn tuân thủ những qui luật chặt chẽ đó chứ không phá cách, phá rào trên sân khấu. Một số người trẻ đã phá vỡ tính qui luật đó, làm cho cải lương ra rời thực tế và mất đi chổ đứng trong lòng công chúng, muốn đi vào lòng người, người nghệ sỹ cải lương phải tuân thủ sự "đo ni đóng giày" của soạn giả và đạo diễn.
NSUT. Lê Thiện (bìa trái) chia sẻ cảm nhận về Cải lương với TS. Mai Mỹ Duyên (giữa). Ảnh: Việt Thành
Hội thảo tập trung vào 4 chủ đề (1) Tiến trình văn hóa cải lương Nam Bộ (2) Đặc trưng văn hóa Cải lương (3) Tác giả - tác phẩm (4) phong trào sân khấu cải lương tại các địa phương. Tại hội thảo, BTC hi vọng thu nhận được nhiều ý kiến của các học giả, soạn giả, các nghệ sỹ để tìm ra các giải pháp từ đó đề xuất cho các cơ quan chức năng nhằm gìn giữ, phát huy những giá trị văn hóa nghệ thuật, thúc đẩy tích cực hoạt động sáng tác và biểu diễn, gìn giữ được bản sắc văn hóa dân tộc.
Hội thảo đón nhận nhiều nhà nghiên cứu về cải lương Nam Bộ cùng tham dự. Ảnh. Việt Thành
Tại hội thảo, BTC đã giới thiệu Sách "Văn hóa cải lương Nam Bộ - Từ đơn ca tài tử đến sân khấu cải lương, từ lý luận đến thực tiễn" gồm 4 phần. Phần 1 (Tiến trình sân khấu cải lương) có 7 tham luận, nêu bật nghệ thuật cải lương có tiến trình hình thành với một chặng đường khá dài và trải qua từng giai đoạn gắn liền với lịch sử dân tộc. Nó có những tiền đề khá phong phú và cũng không kém phần phức tạp, từ nguồn gốc nhạc cung đình và ca nhạc Huế vào vùng đất mới Nam bộ, rồi hình thành nhạc lễ Nam bộ đến nhạc tài tử Nam bộ; khi có điều kiện quá độ nó phát sinh hình thức ca ra bộ đến hát chập và kết quả cải lương ra đời đầu tiên tại Mỹ Tho vào ngày 15.8.1918 với hình thức ca kịch là sân khấu sàn diễn, gọi là sân khấu cải lương. Tại phần 1, từ 20 bản Tổ nhạc tài tử chuyến hóa đến ca kịch cải lương; Sự hình thành và phát triển nhạc tài tử, cải lương Nam bộ; Sự tương tác giữa đờn ca tài tử Nam bộ và sân khấu cải lương Nam bộ nói rõ tiến trình phát triển sân khấu cải lương qua việc chuyển hóa từ nhạc thính phòng đờn ca tài tử đến sân khấu ca nhạc kịch cải lương.
Phần 2 (Đặc trưng văn hóa cải lương) gồm 7 tham luận, khái quát những đặc tính tiêu biểu trong cấu trúc nghệ thuật của loại hình cải lương Nam bộ. Đặc tính tổng hợp thể hiện ở sự kết hợp các thành tố nghệ thuật trên sân khấu cải lương như: kịch, ca nhạc, phục trang, hóa trang, thiết kế sân khấu và đạo cụ; hay sự kết hợp văn xuôi với các loại hình ngôn từ khác trong phương thức biểu diễn. Nghệ thuật cải lương còn thể hiện sự ứng biến và linh hoạt trên các bình diện từ chủ thể sáng tác, biểu diễn, thưởng thức đến sự vận dụng các phương tiện nghệ thuật trên sân khấu. Chất trữ tình trong bài bản, làn điệu lẫn diễn xuất của cải lương là đặc trưng biểu cảm của loại hình nghệ thuật này. Với các tham luận Những đặc điểm tiêu biểu của bài vọng cổ nhịp 32 và vọng cổ, bài ca “vua” của nghệ thuật tài tử - cải lương nói đến vai trò chủ lực của bản vọng cổ trên sân khấu cải lương, trong sinh hoạt âm nhạc cộng đồng, xã hội; đồng thời nói rõ tiến trình phát triển của bài Dạ cổ hoài lang, nhịp 2 được phát triển, chuyển hóa thành bản vọng cổ nhịp 4, 8, 16 và định hình ở nhịp 32...
Phần 3 (Tác giả - tác phẩm) có 6 tham luận khẳng định tên tuổi, sự nghiệp của một số soạn giả với những vở diễn có giá trị nội dung tư tưởng, hình thức nghệ thuật, gây được tiếng vang trong nhiều thế hệ quần chúng đam mê sân khấu cải lương. Đó là Trần Hữu Trang, nghệ sĩ cải lương cách mạng; Tiếng hò sông Hậu, vở tuồng tâm lý - xã hội mang đậm chất hiện thực Nam bộ khẳng định tài năng của soạn giả, đạo diễn, diễn viên thể hiện thành công của vở diễn mà còn mang đậm phong thái Nam Bộ từ tên tuồng đến tính cách nhân vật, cả những vấn đề xã hội đặt ra cũng mang đậm dấu ấn vùng quê sông nước... Với tham luận Nghệ thuật ngôn từ trong sáng tác vọng cổ của soạn giả Viễn Châu thể hiện tinh thần lao động nghệ thuật miệt mài với sân khấu cải lương của NSND Viễn Châu, được xem là ông vua cổ nhạc, ngôi sao sáng trên nền trời ca cổ, người làm nên tiếng vang lớn cho bài Tân cổ giao duyên.
Phần 4 của sách nói về Phong trào cải lương ở các địa phươngvới những tham luận Những gia đình có đóng góp lớn cho sự nghiệp văn hóa cải lương Nam Bộ đề cập đến sự đóng góp của những gia đình cho tiến trình 100 năm sân khấu cải lương, như: gia đình Nhạc Khị, gánh Đồng Nữ Ban, đoàn Việt kịch Năm Châu, đoàn Thanh Minh - Thanh Nga, gia đình chị em Năm Phỉ - Bảy Nam… Đó chính là những động lực quan trọng góp phần cho sự phát triển, duy trì sân khấu truyền thống cải lương, được lưu giữ đến ngày hôm nay.
Lâu nay, việc bảo tồn và phát huy vốn di sản văn hóa cải lương Nam bộ được chú trọng nhiều trên phương diện sáng tác, biểu diễn nhưng ít được quan tâm trên bình diện nghiên cứu khoa học, tìm hiểu học thuật. Vì vậy Hội thảo khoa học văn hóa cải lương Nam bộ lần này được xem là một đóng góp có ý nghĩa lớn cho việc giữ gìn và nhân rộng những giá trị văn hóa của sân khấu cải lương.
Nguồn: http://hcmussh.edu.vn/ Phòng QLKH-DA