Điều này đã dẫn đến những tranh luận kéo dài, và đôi khi nảy sinh những chỉ trích gay gắt quan điểm của nhau một cách không cần thiết. Những người theo phái nữ quyền (feminists) nhìn gia đình như một kiến trúc có bản chất xã hội, phần nhiều do con người nghĩ ra và không dựa trên cơ sở những tất yếu mang tính tự nhiên. Theo họ, các vai trò trong gia đình là kết quả đã định trước của các quan hệ quyền lực mà theo đó nam giới có quyền gán những công việc nhất định cho phụ nữ và loại trừ họ khỏi các công việc khác. Những nhà kinh tế (Becker, England và Farkas) thì lập luận rằng gia đình được kiến trúc theo trục các lợi ích kinh tế. Những nhà nghiên cứu theo thuyết sinh học xã hội lại tin rằng tổ chức gia đình bị quy định rất nhiều bởi việc sinh con và các khác biệt sinh học khác giữa nam và nữ. Những nhà xã hội học cũng có những cách tiếp cận khác và họ phản ứng khá gay gắt với những cách nhìn trên. Một số nhà xã hội học về cơ bản cho rằng công nghệ có thể là một yếu tố tổ chức chính của đời sống gia đình (Huber); những người khác giải thích việc gán cho phụ nữ các vai trò có tính nội trợ (trong khuôn khổ hộ gia đình) như một đặc điểm có tính địa vị văn hóa (Collin).
Bài viết này đề cập đến một số khuynh hướng lý thuyết xung quanh vấn đề giới trong nghiên cứu gia đình hiện đại. Không có tham vọng trình bày về mọi quan điểm, tôi chỉ chọn lọc những quan điểm chính đang được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Hy vọng là những quan điểm lý thuyết này có nhiều điều hữu ích cho các nghiên cứu về bản chất của gia đình và sự vận hành của nó trong các nghiên cứu chuyên biệt về gia đình ở Việt Nam.
Thế kỷ 20 đã chứng kiến những thay đổi to lớn của tổ chức gia đình trên toàn thế giới. Mức độ thay đổi khiến mỗi người trong chúng ta đều có thể cảm nhận và quan sát trực quan được trong cuộc đời mình mà không cần đến những con số thống kê chặt chẽ. Sự giảm nhanh chóng mức sinh, tuổi kết hôn được nâng cao và một bộ phận dân cư không hề kết hôn trong suốt cuộc đời, sự xuất hiện và gia tăng của hình thức chung sống như vợ chồng mà không có kết hôn, sự gia tăng ly hôn, sinh con ngoài giá thú, sự gia tăng tỷ lệ tham gia lao động ngoài gia đình của phụ nữ, sự gia tăng số lượng gia đình do phụ nữ làm chủ hộ, những thay đổi quan trọng trong các luật liên quan đến hôn nhân, gia đình, và ly hôn-sự phổ biến ngày càng rộng rãi của các phương pháp tránh thai, sự thay đổi trong việc ra quyết định về tái sinh sản của gia đình, những thay đổi lớn trong các quan hệ giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ và con cái, sự thay đổi các chuẩn mực liên quan đến các quan hệ tình dục,v.v... - tất cả đều là các hiện tượng của thời hiện đại. Tính chất phức tạp và đa dạng của những thay đổi này đã thách thức những ý tưởng cũ về gia đình và kêu gọi những tìm tòi mới về bản chất của gia đình.
Có lẽ một trong những vấn đề gây nhiều tranh cãi nhất về các dàn xếp trong gia đình, vai trò của nam và nữ, người trẻ tuổi và người già, các quan hệ của họ trong gia đình, và các hàm ý của những dàn xếp này đối với các tổ chức xã hội khác là mức độ mà theo đó các dàn xếp trong gia đình phụ thuộc vào cấu tạo sinh học của nam và nữ, và mức độ mà theo đó các quan hệ gia đình bị quy định bởi các yếu tố xã hội và văn hóa. Những người theo quyết định luận sinh học cho rằng chọn lọc tự nhiên "đã cấy vào con người ý muốn1 truyền cho đời sau các gen của mình và phần nhiều, có thể là hầu hết, hành vi [con người] được kích thích bởi xung lượng sinh học bên trong này (innate impulse) để thấy được mã di truyền của mình tồn tại" (xem Epstein 1988: 47). Họ lập luận rằng, những khác biệt giữa nam và nữ trong các vai trò xã hội, cấu trúc thứ bậc xã hội, trong các quan hệ quyền lực, phân công lao động, v.v.. trong gia đình và giữa gia đình và xã hội rộng lớn hơn có thể quy về những khác biệt đã được chương trình hóa về mặt sinh học giữa hai giới tính như những khác biệt giữa nam và nữ về các chiến lược tái sinh sản, các hóc môn, kích thước và hình dạng của não bộ, các nhịp sống theo thời gian trong ngày, đồng hồ sinh học liên quan đến các thời kỳ phát triển trong chu trình sống,...
Theo quan điểm này, sự thống trị của nam giới và tính thụ động của nữ giới, tính hơn hẳn về trí tuệ và khả năng nhận thức tốt hơn của nam giới, khả năng tình cảm đặc biệt của phụ nữ, v.v.. là những sản phẩm tự nhiên của một, hoặc là sự kết hợp của một số yếu tố như các chiến lược tái sinh sản của nam và nữ, những đặc điểm đặc thù về giới tính của các hóc môn và mức của các hóc môn này, kích thước và hình dạng của não bộ, phân hóa chức năng theo các bán cầu đại não (lateralization), và các phẩm chất sinh học khác. Theo quyết định luận sinh học, những hành vi như ngoại tình, hiếp dâm, sự loạn luân, phân biệt chủng tộc, sự hy sinh vì người khác, các dàn xếp trong gia đình, sự gia trưởng, sự không chung thủy của nam giới, sự bài ngoại, sự thống trị người khác, sự chọn lọc bạn đời,.. tất cả đều có nguồn gốc từ di sản sinh học của con người. Lối lập luận này đôi khi đi xa tới mức coi các quá trình sinh học là những yếu tố chính quyết định trật tự xã hội hiện hành, rằng sự bất bình đẳng giữa nam và nữ là không tránh khỏi, và "sự loại trừ phụ nữ khỏi các vai trò chính sách chủ yếu là hiện tượng có tính chất quốc tế, và có tính chất giống loài" (David Barash 1979: 189, trích lại từ Epstein 1988: 56).
Đối lập với quan điểm quyết định luận sinh học, nhiều nhà khoa học xã hội đã chỉ ra tầm quan trọng hàng đầu của văn hóa và sự học hỏi có tính xã hội. Theo họ, việc suy diễn theo quan điểm sinh học xã hội từ các loài sang cho cá nhân con người và từ các đặc trưng sinh lý sang tâm lý là điều nhầm lẫn tệ hại. Họ cho rằng các lý thuyết sinh học xã hội lệ thuộc quá nhiều vào số liệu của các nghiên cứu về động vật và những khái quát hóa trực tiếp cho cuộc sống con người từ những số liệu này là không chính xác. Thêm vào đó, chính những số liệu này cũng được xem là "tù mù, không thích hợp, mang tính chọn lọc cao, và sai lầm" (Epstein 1988: 51). Những người chống lại quyết định luận sinh học xã hội lập luận rằng mặc dù các quá trình sinh học có đặt ra những kiềm chế đối với cuộc sống con người, những quá trình này cũng chịu sự biến đổi dưới ảnh hưởng của các môi trường xã hội và văn hóa của con người. Chẳng hạn, có bằng chứng cho thấy "sự phân hóa chức năng theo bán cầu đại não có thể bị tác động bởi môi trường và hành vi, và không hề là thuộc tính có tính chất cố định hay "đóng cứng" của sự vận hành của bộ não" (xem Epstein 1988: 53). Sự dồn nén hay việc tập thể dục có thể thay đổi các quá trình hóc môn. Điều đặc biệt đáng chú ý là thực tế có một số lượng lớn các nghiên cứu so sánh các nền văn hóa và bên trong mỗi nền văn hóa đã cho thấy sự biến thiên lớn trong tổ chức gia đình-điều khó có thể được giải thích bằng quan điểm sinh học đơn giản hóa. Những bằng chứng nhân chủng học xã hội đã cho thấy có nhiều xã hội mà ở đó phụ nữ không lệ thuộc vào đàn ông, cùng tham gia một cách bình đẳng với đàn ông trong phân công lao động; ở đó việc phụ nữ lựa chọn bạn đời và chủ động khởi xướng hành vi tình dục là "một thực tế phổ biến" (Epstein 1988: 65-66). Tóm lại, thuyết sinh học xã hội đã bị phê phán là thiếu tính có hiệu lực thực sự về khoa học do việc sử dụng những số liệu thiên lệch và mang tính chọn lọc cao, sự bỏ qua các tác động của văn hóa và việc học hỏi, "sự đơn giản hóa quá mức về logic, và sự suy luận không thích hợp thông qua việc sử dụng phép tương đồng (analogy)" (Epstein 1988: 52; xem thêm Thorne 1982; Collier, Rosaldo, và Yanagisako 1982).
(Nguồn: www.baobinhphuoc.com.vn)
Tương phản một cách sắc nét với cách tiếp cận sinh học xã hội là quan điểm của các học giả theo thuyết nữ quyền. Xuất phát điểm của các lý thuyết nữ quyền là gia đình không phải là một thiết chế có tính tất yếu về sinh học. Trái lại, đó là một thiết kế xã hội, một hệ tư tưởng, một hệ thống mang tính thiết chế của các quan hệ xã hội và các ý nghĩa văn hóa (Epstein 1988; Thorne 1982; Collier và đồng nghiệp 1982). Những học giả nữ quyền xem sinh học chỉ như "một phạm vi của các năng lực, một lý thuyết về "tính tiềm năng sinh học" (Epstein 1988: 6). Những khác biệt giữa nam và nữ thể hiện ở hành vi xã hội của họ, trí tuệ, đạo đức, tình cảm,.. không mấy là hậu quả của các yếu tố sinh học mà chính là sản phẩm được tạo ra bởi văn hóa và các can thiệp xã hội từ vật liệu sinh học thô (Epstein 1988: Thorne 1982). Vì vậy, khái niệm phù hợp trong việc phân tích gia đình, những khác biệt và tương đồng giữa nam và nữ cần phải là khái niệm giới (gender) chứ không phải giới tính (sex). Hệ thống gia đình hiện tồn đã được tạo ra bởi con người, và nó được tạo ra theo cách thức đã mang lại rất nhiều lợi thế cho nam giới với cái giá làm giảm quyền của phụ nữ. Những người theo thuyết nữ quyền xem quyền lực của nam giới đối với phụ nữ như nguồn gốc của sự bất bình đẳng giới trong gia đình và ngoài xã hội. Họ lập luận rằng việc kiểm soát quyền lực cho phép nam giới tạo ra một diện rộng các vai trò của nam giới và thu hẹp đáng kể những lựa chọn dành cho phụ nữ. Kết quả là những địa vị có lợi nhất trong cấu trúc xã hội đã được giữ riêng cho nam giới. Việc phân chia vai trò được xem như điểm mấu chốt trong khung lý thuyết của phái nữ quyền. Họ cho rằng bất bình đẳng giới trong gia đình cần phải được giải thích dưới dạng sự phân công các vai trò giới mà đến lượt mình chỉ có thể hiểu được "bằng việc chúng ta đã nuôi dạy con cái như thế nào, bằng sự phân công lao động theo giới tính, bằng các định nghĩa văn hóa về cái gì là thích hợp đối với mỗi giới, và bằng các sức ép xã hội mà chúng ta đặt lên mỗi một trong hai giới" (Goode 1982: 134).
Những học giả theo thuyết nữ quyền chẳng những khước từ ý tưởng về các yếu tố sinh học như những cái quyết định tổ chức gia đình, mà còn khước từ cả những lý thuyết góp phần hợp lý hóa hệ thống gia đình có cấu trúc thứ bậc về giới hiện đang tồn tại. Họ thách thức ý tưởng về gia đình như một khối thống nhất (the monolithic family)2 cũng như ý tưởng của thuyết chức năng và lý thuyết vai trò mà theo đó hệ thống gia đình hiện đang tồn tại có tính phổ biến và là một thiết chế tất yếu về mặt chức năng đối với sự sống còn của xã hội con người. Khi chỉ ra tính biến thiên của các hình thức gia đình, sự áp đặt và bóc lột phụ nữ của nam giới, những người theo thuyết nữ quyền đã làm mất thiêng huyền thoại về hệ thống gia đình có vẻ có tính phổ biến mà trong đó người chồng là cột trụ đem lại thu nhập chính, người vợ là người mẹ và người nội trợ toàn phần, và gia đình vận hành suôn sẻ trong một mối ràng buộc được giả định là dựa trên tình cảm. Họ lập luận rằng bằng chứng về bạo lực và xung đột trong gia đình đã cho thấy một cách rõ ràng rằng "các cấu trúc gia đình được duy trì chẳng những bằng tình đoàn kết và tình yêu, mà còn bằng cả vũ lực nữa" (xem Epstein 1988: 204).
Đối với các học giả nữ quyền, có lẽ chỉ có một điều liên quan đến gia đình là tất yếu: đó là sự khải hoàn cuối cùng của một hình thức gia đình thực sự bình đẳng. Con người tạo ra gia đình. Vì thế, không có lý do gì mà họ không thể thay đổi nó. Trên thực tế, những thay đổi theo hướng một hình thức gia đình bình đẳng hơn đã và đang diễn ra (Goode 1982). Nói một cách ngắn gọn, đặc điểm đặc thù của các lý thuyết nữ quyền là sự nhấn mạnh đến vấn đề quyền lực, xung đột, và biến đổi của hệ thống gia đình.
Từ một góc độ khác, một số nhà kinh tế học (England và Farkas 1986) cố gắng lồng ghép các cách tiếp cận kinh tế học và xã hội học vào một khung lý thuyết toàn diện về nghiên cứu gia đình. Bằng việc xem xét các khái niệm kinh tế như chi phí, lợi ích, phần thưởng, hợp đồng, v.v... theo cách bao gồm cả các giá trị có thể và không thể quy ra tiền, các giá trị rõ ràng và ẩn dụ, người ta tin rằng những khái niệm này cũng có thể được áp dụng cho các mối quan hệ trong hộ gia đình. Họ lập luận rằng hôn nhân và các dàn xếp trong gia đình hoạt động như những hợp đồng ẩn dụ (implicit contract), như "một nhà máy" nhỏ được điều chỉnh bởi một hợp đồng ẩn dụ nảy sinh từ một thị trường hôn nhân và bao gồm sự trao đổi diễn ra thường xuyên giữa hai vợ chồng và các tương tác với các quan hệ việc làm. Người chồng thường có nhiều quyền hơn người vợ, và sự thống trị của nam giới mạnh hơn khi người vợ thuần túy là người nội trợ so với khi người vợ cũng làm việc ngoài gia đình. Lý giải thực tế này, England và Farkas (1986) nhấn mạnh rằng, so với nam giới, phụ nữ thường có đầu tư mang tính đặc thù cho mối quan hệ lớn hơn (relationship-specific investments) mà những đầu tư này có ít tác dụng trong những quan hệ khác. Sở dĩ như vậy là vì quyền mặc cả (bargaining power) của một người có được không những từ các đóng góp cho mối quan hệ đã cho, mà còn từ khả năng có những lựa chọn khác bên ngoài mối quan hệ đã cho. Người nào có nhiều khả năng lựa chọn bạn đời hơn thì người đó có nhiều quyền mặc cả hơn. Đàn ông, do các địa vị cấu trúc của họ, thường đầu tư cho sức mạnh kiếm tiền là cái không mang tính đặc thù cho mối quan hệ nhưng lại dễ dàng được chuyển giao cho một mối quan hệ mới. Vì thế họ có nhiều quyền ra quyết định trong hôn nhân hơn vợ họ. Mặc dù lợi thế của nam giới giảm đi khi phụ nữ cũng làm việc có thu nhập, lợi thế này hiếm khi biến mất vì phụ nữ hiếm khi có khả năng kiếm tiền bằng nam giới. Tuy nhiên, sự gia tăng việc làm có thu nhập của phụ nữ làm cho họ có khả năng tài chính để rời bỏ những cuộc hôn nhân không hạnh phúc.
Một cách tiếp cận khác được Randall Collins (1991) đề nghị. Collins xem xét những khác biệt giữa nam và nữ về vị trí của họ trong sự phân tầng hai chiều bao gồm các chiều giai cấp (class) và chiều địa vị (status). Collins phân biệt giai cấp như vị trí quyền lực về tổ chức của người ra lệnh đối diện với người nhận lệnh, với khái niệm địa vị như vị trí có liên quan đến các phương tiện vật chất của sự sản xuất mang tính văn hóa. Ông ta lập luận rằng những khác biệt giới bắt nguồn từ việc "phụ nữ thường tham gia vào việc sản xuất và tiêu dùng văn hóa trong khi nam giới tập trung nhiều hơn vào lĩnh vực sản xuất vật chất và các quan hệ quyền lực của nó" (1991: 53). Về quyền lực, một cách điển hình là cả người chồng lẫn người vợ là những người nhận lệnh ở nơi làm việc, nhưng ở nhà thì người chồng trở thành người ra lệnh do thu nhập lớn hơn của anh ta. Bối cảnh này đã dẫn đến "hai cuộc đấu tranh giai cấp khác biệt nhau: nam nhân công đối diện với nhà tư bản trong nền kinh tế bên ngoài và các bà nội trợ đối diện với các ông chồng-nhà tư bản trong nền kinh tế gia đình" (1991: 57).
Về mặt địa vị, phụ nữ thường có xu hướng sản xuất và tiêu dùng các sản phẩm văn hóa nhiều hơn nam giới ở cả nơi làm việc lẫn ở nhà (Collins 1991: 60). Vì thế, sự khác biệt giữa văn hóa của nam và nữ là lớn nhất trong những gia đình mà người chồng là nhân công cổ xanh (lao động đơn giản) và người vợ là nhân công cổ trắng (lao động có kỹ năng cao).
Joan Huber (1991) cũng đề xuất một lý thuyết khác về gia đình và giới có tính đến các tác động của các điều kiện sinh thái học xã hội3 và khuôn mẫu sử dụng công cụ lao động. Tầm quan trọng của sinh thái và công nghệ được nhấn mạnh như điều kiện cần thiết, "loài người không chỉ sống bằng bánh mỳ không thôi, nhưng không có bánh mỳ thì không ai có thể tồn tại được" (Huber 1991: 39). Huber đưa ra ba luận đề cơ bản: (1) người nào sản xuất ra của cải có xu hướng nhiều quyền lực và uy tín hơn người tiêu dùng chúng; (2) nam giới không thể mang thai và nuôi dưỡng trẻ em nên những nhiệm vụ thích hợp nhất đối với việc nuôi dưỡng con cái thường được giao cho phụ nữ; và (3) quyền lực và uy tín lớn nhất thường nằm trong tay người có khả năng kiểm soát việc phân phối các của cải có giá trị vượt ra ngoài khuôn khổ gia đình. Huber lập luận rằng việc phân công vai trò liên quan đến sinh đẻ và khuôn mẫu sử dụng công cụ lao động mà lúc đầu đã đặt phụ nữ vào địa vị thua kém nam giới vẫn đang tiếp tục tác động đến địa vị phụ nữ. Bà kết luận rằng "phụ nữ không thể trở thành những người bình đẳng về xã hội với nam giới cho đến khi những phụ nữ tài năng nhất có thể phát huy một cách hiện thực như những nam giới tài năng để đóng góp phần xứng đáng với tài năng của mình".
Ở Việt Nam, trong khi quan niệm về gia đình có truyền thống lâu dài thì quan niệm về giới là một quan niệm tương đối mới. Có thể nói khái niệm giới mới được đưa vào Việt Nam trong những năm cuối của thập niên 80. Trước đó chỉ có một khái niệm giới tính để chỉ những đặc trưng của nam và nữ mà không phân biệt đặc tính đó có bản chất sinh học hay xã hội. Khi khái niệm giới được đưa vào Việt Nam, nó đã nhanh chóng được chấp nhận rộng rãi. Tuy nhiên, quan niệm về giới của các nhà nghiên cứu Việt Nam cũng rất khác với quan niệm về giới của phái nữ quyền. Trong nhiều trường hợp, dường như có sự lẫn lộn giữa giới (gender) và giới tính (sex), và thuật ngữ "giới" được sử dụng như một cái mốt để thay cho cái mà trước kia người ta gọi là "giới tính". Khái niệm giới ngày càng trở nên phổ biến trong các dự án phát triển. Khái niệm giới gắn liền với ý tưởng về giải phóng phụ nữ và bình đẳng giữa nam và nữ - ý tưởng vốn đã bắt rễ trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc trong mấy chục năm qua.
Tuy nhiên, cả ý tưởng giải phóng phụ nữ lẫn bình đẳng nam nữ mới chỉ chủ yếu được nhận thức trên bình diện công cụ, nghĩa là phấn đấu để phụ nữ làm những việc có tính nữ dễ dàng hơn, như kiểu đưa vào nồi cơm điện để phụ nữ nấu cơm nhanh hơn để dành thời gian vào công tác xã hội. Nhiều nhà nghiên cứu cổ vũ cho ý tưởng bình đẳng theo cách phụ nữ vẫn duy trì công, dung, ngôn, hạnh truyền thống và thêm vào đó là các công việc xã hội như nam giới. Họ đòi hỏi phụ nữ phải được học hành như nam giới, có các cơ hội nghề nghiệp như nam giới, nhưng không mấy ai đòi hỏi phụ nữ giảm bớt việc nhà để đàn ông gánh vác. Họ khích lệ phụ nữ làm lãnh đạo như nam giới, nhưng phụ nữ khi làm lãnh đạo không nên quên thiên chức làm vợ, làm mẹ truyền thống của mình. Nhiều phẩm chất xã hội của phụ nữ vẫn được gắn với các đặc điểm sinh học liên quan đến sinh đẻ và nuôi dưỡng con cái để hình thành nên cái được gọi là "thiên chức của phụ nữ". Gia đình đồng thuận, nguyên khối (monolithic), và dựa trên tình yêu thương vẫn là lý tưởng. Quan niệm về quyền mặc cả trong hôn nhân, khái niệm "gia đình" đối với người vợ khác "gia đình" đối với người chồng, dù chỉ là ẩn dụ, là không thể chấp nhận được. Quan niệm về giới, như vậy, chưa được nhìn nhận ở tầm chiến lược, có tính thách thức các vai trò giới hiện tồn, như việc đòi hỏi nam giới phải chia sẻ công việc nội trợ trong gia đình. Như vậy, quan niệm về giới ở Việt nam là một quan niệm khá mềm mỏng, kết hợp một số yếu tố mang tính nữ quyền với quan niệm truyền thống về vai trò của nam và nữ trong gia đình. Một quan niệm chưa hoàn toàn thoát ly ý thức hệ phụ quyền.
Những thảo luận nêu trên cho thấy tính chất phức tạp của các vấn đề gia đình. Gia đình với tư cách một kiến trúc xã hội và một cơ chế tự tái tạo của cấu trúc xã hội đang biến đổi theo hướng tới một hình thức gia đình bình đẳng hơn. Tuy nhiên, cần thêm vào cách nhìn này các tương tác phức tạp giữa gia đình và việc làm ngoài gia đình, những giới hạn do công nghệ và tất yếu tái sinh sản tạo ra, để có thể hiểu được chẳng những vấn đề quyền lực, xung đột và biến đổi, mà còn cả tính kế thừa và liên tục của sự phát triển thiết chế gia đình.
Chú thích:
1. Nhấn mạnh trong nguyên văn.
2. Quan niệm này giả định các thành viên của gia đình đều nhìn gia đình của họ giống nhau và gia đình đó là một khối thống nhất và có ý nghĩa như nhau đối với mọi thành viên. Quan niệm này đối lập với quan niệm cho rằng ý nghĩa của một gia đình cụ thể đối với những thành viên khác nhau của gia đình đó là khác nhau.
3. Về quan niệm sinh thái học xã hội, xem Sinh thái học xã hội-lịch sử và những vấn đề đương đại của Vũ Mạnh Lợi, đăng trong Tạp chí Xã hội học số 1, 1999.
Tài liệu tham khảo:
1. Collier J., Rosaldo M., and Yanagisako S. 1982. Is There a Family? New Anthropological Views. In Rethinking the Family, edited by Barrie Thorne, and Marilyn Yalom, Longman, New York, pp. 25-39.
2. Collins R. and Scott C. 1991. Sociology of Marriage and the Family: Gender, Love, and Property. 3rd ed. New York: Nelson Hall.
3. England P., and Farkas G. 1986. Households, Employment, and Gender. Aldine De Gruyter, New York.
4. Epstein, Cynthia F. 1988. Deceptive Distinctions. Yale University Press, New Haven and London & Russell Sage Foundation, New York.
5. Goode, William J. 1992. Housewives and Employed Wives: Demographic and Attitudinal Change, 1972-1986. Journal of Marriage and the Family, vol. 54, pp. 559-569.
6. Thorne, Barrie. 1982. Feminist Rethinking of the Family: An Overview. In Rethinking the Family, edited by Barrie Thorne, and Marilyn Yalom, Longman, New York, pp. 1-24.
7. Vũ Mạnh Lợi. 1999. Sinh thái học xã hội-lịch sử và những vấn đề đương đại. Xã hội học, số 1, trang 23-27.
Nguồn: Xã hội học số 4(72), 2000