Sau khi trẻ chào đời được ba ngày, trong dân gian, người ta thường phải tắm cho bé một lần, tục gọi là “tẩy tam”. Sau khi tắm cho bé xong, lúc đó mới có thể mặc một chiếc áo ngắn cho bé, nhưng kỵ mặc quần. Dân gian cho rằng, trẻ em khi sinh ra chưa đầy một trăm ngày thì không dược mặc quần, khi không mặc quần thì chân không bị vướng víu, nếu như phải bị chết yểu thì cũng sẽ nhanh chóng được chuyển sinh. Nếu không, quần sẽ quấn chặt vào chân, khi đến âm gian sẽ không trở lại. Nước dùng để tắm lần đầu cho bé mới sinh ra không được phép đổ bừa bãi, vì e rằng sẽ làm ô uế đến thần minh.
Sau khi trẻ được sinh ra, thì ở các khu vực, các dân tộc đều có những tập tục cấm kỵ liên quan đến việc treo vật làm tín hiệu. Một trong những lý lẽ trong đó là, người ta kiêng kỵ không cho trẻ nhìn thấy người lạ. Ở cả một vùng Ôn Châu Chiết Giang, trẻ sơ sinh chưa đủ một trăm ngày thì không được cho ra cửa, ở bên ngoài cũng cấm không cho khách bước vào nhìn thấy trẻ. Nếu không, trẻ sẽ nhìn thấy “phạm xung” của người lạ, đó là điều không lành đối với trẻ, thậm chí là sẽ dẫn đến tử vong. Tộc Dao cho rằng, khi có người ngoài mặc áo trắng, mang giày cò từ ngoài bước vào buồng sinh, thì sẽ khiến cho trẻ kêu khóc ngày đêm, không bú và cũng không ngủ, hậu quả sẽ ngày càng nghiêm trọng hơn, người tộc Bạch còn cấm không cho người mang cung nỏ bước vào nhìn thấy bé gái, nhưng nếu nhìn thấy bé trai thì không có vấn đề gì. Người Đài Loan kỵ không để người tuổi hổ nhìn thấy trẻ sơ sinh, sợ sẽ bị xung phạm đến “tính hổ” của người ấy mà giật mình. Đối với người tộc Đồng, nếu trong nhà có thêm đầy tớ và con cái, thì người đầu tiên đến nhà sẽ được gọi là người thái sinh (踩生:đạp lên sự sinh sôi). Nếu như người đàn ông “đạp” lên bé gái, thì họ cho rằng dương khí sẽ rất nặng, không tốt cho bé gái, khó mà nuôi lớn thành người. Mà người thái sinh lại gặp xui ba năm, nên chủ nhân cần phải đón tiếp nhiệt tình. Nếu như người đàn bà “đạp” bé trai, thì họ cho rằng âm khí sẽ rất nặng, không tốt cho đứa bé trai, sẽ yếu bệnh, bạc nhược. Người thái sinh tất sẽ gặp may suốt ba năm, nhưng vì thế mà sẽ bị chủ nhà đối xử lạnh nhạt.
Phần lớn các khu vực của tộc người Hán đều có tập tục cấm kỵ việc hỏi xem trẻ có bệnh hay không. Nếu bảo rằng trẻ có bệnh, thì tất nhiên sẽ phạm vào điều cấm kỵ, sợ rằng trẻ sẽ bệnh thật, hoặc giả bệnh sẽ ngày càng nặng, còn nếu nói rằng: “Đứa bé này có sức khỏe thật tốt, chưa từng bệnh lần nào”, thì cũng bị phạm vào điều cấm kỵ. Vì nếu bảo rằng “không bị bệnh” mà để con ma bệnh nghe thấy được, nó sẽ tỉnh dậy, lúc đó ngườI ta sẽ phải kêu lên rằng: “đứa bé đã bị một trận bệnh nặng”. Trong dân gian còn kỵ việc bình phẩm, đánh giá sự gầy hay béo của trẻ. Nếu bảo là gầy thì sợ sẽ gầy đi thật; nếu bảo là béo, thì sợ thần linh nghe thấy và nhầm tưởng rằng họ đang “chê béo”, và sẽ khiến cho bé gầy đi.
Tục cho rằng, sau khi trẻ được sinh ra không lâu, đôi mắt rất sạch sẽ, có thể nhìn thấy cả cuộc đời trần thế, lại có thể nhìn thấy cả ma quỷ, vì thế mà người ta cấm không để cho trẻ sơ sinh tham gia hoặc ở gần những nơi diễn ra các nghi thức triều bái, tế tự, cúng Phật, lập đạo tràng, xây miếu. Thông thường, người ta cũng không được cho trẻ sơ sinh ở gần những nơi có chuyện tang ma, cưới xin. Nếu không cẩn thận gặp phải những trường hợp cấm kỵ này thì cần phải tránh ngay lập tức và mời thầy đến xem quẻ hóa giải. Khi trời vừa tối, không được phép mang trẻ ra khỏi cửa, vì nếu không, trẻ sẽ bị ma hoang làm giật mình.
Người Trung Quốc rất xem trọng việc có thêm một người mới. Sinh con dưỡng cái là một chuyện hết sức đáng mừng, trong dân gian có rất nhiều lễ chúc mừng và cũng có rất nhiều điều cấm kỵ tương ứng. Ở một vùng Thượng Thái, việc báo tin vui ấy được gọi là “uống rượu mừng”. Nhà bên đàn trai thì gọi là “ăn miến mừng”, còn bên nhà đàn gái thì gọi là “tặng gạo chúc”. Sau khi sinh con đầu lòng, người bề trên của bên nhà đàn trai sẽ đến nhà đàn gái để báo hỷ. Khi báo hỷ, ngoài việc tặng quà bình thường còn phải mang theo một con gà trống (nếu sinh con trai), gọi là “đại hỷ”, và mang sang một con gà mái (nếu sinh con gái), gọi là “tiểu hỷ”. Nếu song sinh, thì mang hai con gà. Nhà gái khi thấy gà thì không cần nói cũng biết được rằng đó là con trai hay con gái. Khi báo hỷ, hai nên bàn bạc nhau lấy một ngày lành để tặng gạo chúc. Việc tặng gạo chúc không được diễn ra vào giữa tháng, vì số “mười” (shi) và “chết” (si) hài âm với nhau, vì thế người ta mới tránh những ngày đó. Quả (tráp) dâng lễ tặng gạo chúc phải chọn kỹ, không được dùng quả đan bằng trúc. Tục ngữ có câu: “nan trúc tát nước chỉ hoài công”, vì thế mà người ta tránh không dùng nó. Trong phần quà phải có thêm một con gà. Nếu là bé trai thì thêm một con gà trống, nếu là bé gái thì thêm một con gà mái, và một lời ngụ ý chúc chuyện hôn nhân của bé khi lớn lên sau này. Nhà trai tiếp đãi, thết cơm cho nhà gái, món ăn chính thường là miến nấu với tỏi, tục gọi đó là “ăn miến mừng”.
Ở tộc Di vùng Vân Nam, sau khi sinh con xong, chàng rể cũng phải đến nhà cha mẹ vợ để báo hỷ. Ngoài việc mang theo rượu uống, anh ta còn phải mang theo một con gà. Nhưng tập tục này cũng khác với khu vực Trung Nguyên, nếu bé được sinh ra là bé trai thì mang theo con gà mái mà không phải là gà trống; nếu bé được sinh ra là bé gái thì mang theo gà trống mà không phải là gà mái. Khi cha mẹ vợ nhìn thấy chàng rể ôm gà mái đến thì biết bé sơ sinh là bé trai, và ngược lại. Sau khi cha mẹ vợ nhận lấy gà, thì cần phải thay cho chàng rể bằng một con gà khác. Nếu gà mang đến là gà mái thì phải đổi lại bằng con gà trống, và nếu gà mang đến là gà trống thì đổi bằng một con gà mái. Chàng rể ôm con gà đã được đổi về nhà nuôi, không được phép giết thịt. Điều này có ý nghĩa là, con gà được mang đi chỉ là một vật báo tin, còn con gà được đổi về mới chính là thuộc tính bổn mệnh của đứa trẻ, vì thế mà không được giết.
Ở một dãy đất Khai Phong, vật báo hỷ khi sinh con lại dùng trứng gà làm vật tượng trưng. Ngay hôm sinh con đầu lòng, chính chàng rể sẽ mang trứng gà đến nhà cha mẹ vợ để báo hỷ. Nếu như sinh con trai, thì luộc sáu hoặc tám trứng gà, nhất thiết phải là số chẳn, không được lấy con số lẻ. Sau khi nhuộm trứng bằng màu đỏ, dùng than đen hoặc nhọ nồi chấm lên một ít vào một đầu trứng, để biểu thị là “đại hỷ”. Nếu như sinh con gái thì phải luộc năm hoặc bảy trứng gà, nhất thiết phải là số lẻ, không dùng số chẳn, và cũng nhuộm trứng bằng màu đỏ nhưng không chấm một chấm đen, để biểu thị là “tiểu hỷ”. Sau khi báo hỷ xong, mẹ vợ sẽ nướng một chiếc bánh nướng, dặn chàng rể sau khi mang về nhà sẽ đồ nát ra cho chó ăn, cho đến khi vứt hết mới thôi. Tục tin rằng, có như vậy mới có thể nuôi con thành người, tránh được nạn chết yểu. Bởi vì chiếc bánh đại diện cho bổn mệnh ấy đã bị chó ăn mất đi rồi, vì vậy mà trẻ không phải sợ gì nữa, sẽ không gặp phải tai họa. Trong dân gian còn có người đặt tên ngoài cho con mình là “của chó thừa”, cũng vì ý nghĩa ấy.
Ở một vùng Thấm Dương Hà Nam, những đứa trẻ chưa đầy một tháng tuổi tục gọi là “quỷ lông thai”, cấm không được ẵm đi vào cửa vòng cửa. Đợi đến khi đầy tháng, bên nhà gái mới đến nhà chồng nơi mà khuê nữ ở, tục gọi là “tiếp chân” hay “qua đầy tháng”. Trước khi đi, cần phải hớt lông thai cho trẻ, để thợ hớt tóc phong lễ. Khi rời khỏi cửa, sản phụ sẽ cột một mảnh vải đỏ lên đầu, cắm một nhành đào hay một nhành cây bách. Đầu của bé sẽ đội vải đỏ. Tất cả đều là do sợ uế khí chưa tan hết, e sẽ gặp phải những điều xung phạm, như thế nên mới dùng vải đỏ, nhành đào, nhành bách để hóa giải.
Đối với hiện tượng thai chết trong bụng mẹ, hoặc sinh ra chưa bao lâu đã chết, thì dân gian cho rằng cần phải vứt trẻ đã chết vào trong nước. Tục cho rằng, làm như không làm thế thì trẻ sẽ thể biến thành tà ma để làm sùng, người mẹ sẽ không thể nào mang thai được nữa.
Nguồn: 鴻宇2004:禁忌 ─ 中國民俗文化。中國社會出版社
(Hồng Vũ 2004: Cấm kỵ - Văn hóa dân tục Trung Quốc. Trung Quốc Xã hội xuất bản xã)