Những người tham gia quét mộ cúng tế đều có những điều quy định cấm kỵ riêng. Những phụ nữ mang thai thông thường sẽ không được tham gia tang lễ, cũng không được quét dọn cúng tế cho phần mộ. Nếu không, người ta e rằng linh hồn của người chết sẽ vả vào thai nhi, khiến cho thai phụ khó sinh con. Không những chỉ là thai phụ, phong tục của rất nhiều các khu vực khác nhau trong dân gian còn không cho phép những người phụ nữ bình thường đến quét dọn cúng tế cho mộ phần. Tục cho rằng phụ nữ mà lên mộ thì cũng có nghĩa là trong nhà không có con trai, không có con cháu đời sau. Ngoài ra, việc sửa mộ, quét tế cũng cấm không được nhờ người khác làm thay, nếu không sẽ mang tội bất kính với linh hồn của tổ tiên, sẽ nhận lấy những chuyện không hay.
Ở vùng Hà Nam, đối với những vật cúng cho việc tế tự mà do phụ nữ mang đến thì nên nhận lấy tất cả, cấm kỵ không được hoàn trả một phần nào. Khi quét dọn mộ để cúng tế, nếu gặp thầy tăng, đạo sĩ, thì phải lo bữa cơm nước chay cho họ, vì người ta cho rằng khi ấy sẽ giảm bớt tội nghiệt cho người đã khuất, khiến cho người ấy có thể lên được đến thiên đàng. Nếu không sẽ không tốt cho linh hồn, hoặc là sẽ khiến người ấy phải đi xuống địa ngục.
Sau khi người chết được mai táng xong, còn phải cúng tế cho thần trong nhà, để an ủi vong linh. Tộc người Ngõa ở Vân Nam thì cho rằng, nếu không cúng tế cho thần trong nhà, thì sẽ không được phép lợp nhà mới để kết hôn, cũng không được phép gieo hạt. Thời xưa, tộc người Hán cho rằng nên quét dọn cúng tế phần mộ vào trước ngày Mậu Dần của mùa xuân. Vì ngày ấy là ngày thiên xá, tục ngữ có câu: “mộ mới không qua xá”. Người mê tín lại cho rằng, quét dọn cúng tế phần mộ cần phải tránh thái tuế, “Sách Tang” xưa có nói: “Thái tuế đè bổn mệnh của chủ tế, vì thế mà nên kỵ nó”. Đời sau, trong dân gian thường quét dọn mộ phần để cúng tế là vào trước sau ngày thanh minh. Trong “Trung Hoa toàn quốc dân tộc chí, Giang Tô” có ghi: “Ngày thanh minh, nhà nhà đi tảo mộ, nếu là người mới mất thì đến cúng tế cho mộ phần trước ba ngày so với ngày xuân thu xã”. Tục cho rằng, nếu sau ngày xã mà không đến cúng tế cho mộ thì người chết sẽ vồ ra.
Khi đến mộ đốt vàng mả, cấm dùng gây gậy khêu động giấy vàng bạc, sợ là vàng bạc bị khêu nát, linh hồn không dùng được nữa. Nếu như vàng bạc chỉ cháy một nửa, còn một nửa không cháy hết thì cũng không được mồi lửa đốt tiếp. Dân gian cho rằng, phần thừa lại không bị cháy hết này sẽ biến thành tiền bạc, người sống sẽ dùng được, ý là tổ tiên còn nhớ đến con cháu. Người ta lại cho rằng, phần còn lại này được gọi là “tử tôn bản”, chỉ có thể giữ lại mà không thể đốt đi một lần nữa, nếu không, con cháu sẽ phải bị tuyệt diệt. Giấy vàng bạc dùng để cúng trước phần mộ này phải làm một cách chuyên tâm, không được mang đi làm chung với những việc khác, càng không được mang theo khi thăm người thân bạn bè.
Đối với thời gian đến phần mộ để cúng tế thì ở các nơi cũng có những quy định khác nhau. Ở vùng Hà Nam thì qua ngày thứ hai là đã đến bên mộ, người ta gọi là “phục nhị”. Vào ngày này, sau khi con cái để tang đến bên mộ thì khi trở về nhà phải đi trên con đường khác, cấm không được đi trên con đường lúc đến đã đi, tục gọi là “lạc đường”. Theo họ, như thế là nhằm tránh để linh hồn người chết theo con cái đang chịu tang mà trở về nhà. Ở vùng Hắc Long Giang, trong vòng ba ngày sau khi chôn cất, vào mỗi khi trời chiều đều phải đốt đèn để bên mộ. Nếu không có đèn, buổi tối, linh hồn sẽ rất sợ hãi. Người quẹt lửa sẽ phải dùng diêm quẹt của chính mình, không được mượn dùng của người khác. Người ta nói rằng, nếu dùng diêm quẹt đã mượn để đốt đèn thì tổ tiên sẽ không nhìn thấy ánh sáng.
Trong dân gian, vào thời gian đầu của việc tang chế thì việc đến mộ đốt vàng bạc thường lấy con số bảy làm mốc, mỗi khi đến ngày thứ bảy thì sẽ đến mộ cúng tế. Trong dân gian, con số bảy thường biểu thị tính giai đoạn, lúc nào cũng lấy bảy lần số bảy làm điểm cuối cùng. Tập tục này được lưu truyền từ thời rất xa xưa. Các địa phương ở Hà Nam, Sơn Đông, Triết Giang đều có tục kỵ không lấy số “bốn lần bảy” đến mộ cúng tế. Đại khái là do quan hệ hài âm giữa chữ tứ (bốn) và tử (chết) mà thôi. Ở vùng Hà Nam có thuyết về cách tránh con số con nối dõi trong bảy lần cúng tế ấy. Ví dụ như người đã mất có một người con chịu tang thì đến sẽ có một lần của ngày thứ bảy ấy không đến cúng, nếu có hai người con chịu tang thì sẽ có hai lần ngày thứ bảy ấy sẽ không đến cúng tế; mãi đến năm lần ngày thứ bảy thì mới mãn. Thông thường thì dân gian rất xem trọng việc quét dọn cúng tế vào ngày thứ bảy. Khi đã đến năm lần ngày thứ bảy, thì người con gái sẽ nấu bánh sủi cảo đến cúng, số lượng bánh sẽ tính theo số tuổi của người chết, mỗi tuổi là một cái, chỉ cho phép nhiều hơn mà không cho phép ít hơn. Khi đến mộ cúng tế, cần phải ăn hết ở bên mộ, kỵ không được mang phần còn dư trở về. Vật cúng cho lần thứ sáu của ngày thứ bảy sẽ do con gái đích thân làm. Dân gian có lưu truyền câu nói rằng, “Nói một ngàn, bảo một vạn, lần thứ sáu của ngày thứ bảy sẽ không ăn cơm thường của nhà, chỉ đợi con gái đến thết tiệc mà thôi”. Ở Sơn Đông, Hà Nam có thuyết “phạm thất”, nghĩa là, khi đến ngày cúng tế trong cái mốc bảy ngày, mà nếu vừa trùng với những ngày có số bảy như ngày mồng bảy, mười bảy, hai mươi bảy âm lịch hoặc những ngày có số bảy ẩn như ngày mười bốn, hai mươi mốt, hai mươi tám, thì người ta cho rằng như thế sẽ không tốt, được gọi là “phạm thất”. Khi buộc phải đến cúng tế, thì luôn phải cắm một cây cờ trắng (hoặc một cái chậu sành nhỏ) trên mộ, để khu trừ tà khí, sẽ tránh được điều kiêng kỵ. Ở vùng Hà Nam, Giang Tô, người ta còn có tục cấm dùng miến để cúng khi đến lần cúng thứ bảy, vì miến tượng trưng cho sợi dây, kinh hồn người chết khi nhìn thấy sẽ kinh sợ, lục thần không yên.
Bãi đất nơi phần mộ là nơi linh hồn tổ tiên sống, vì vậy mà không được làm kinh động đến. Ở bãi tha ma công cộng của người tộc Cơ Nặc, để có thể an táng cho người chết, thì sau một vài năm, người ta có thể đến để phát cỏ và cũng có thể đào quan tài, thi thể của người chết lên và vứt lên nơi núi rừng hoang dã. Đấy là do diện tích bãi tha ma công cộng của mỗi thôn làng đều có giới hạn, mà đất nơi phần mộ của những người thuộc tộc phụ hệ thì sẽ càng bị nhỏ hẹp lại, trong khi mảnh đất ấy thì cũng không được tự ý mở rộng ra thêm, người ta cho rằng việc mở rộng diện tích sinh sống của linh hồn người chết thì sẽ không có lợi cho người đang sống. Người tộc Ha Tát Khắc rất kính trọng bãi đất táng, người qua đường khi cưỡi ngựa đi qua phần mộ cũng không được phi nhanh, còn phụ nữ thì phải xuống ngựa mà đi bộ qua. Mỗi khi gặp hạn hán, mọi người phải đến bãi đất táng để tiến hành cúng tế. Khi bầy cừu bị bệnh dịch, cũng phải lùa đàn cừu đi ngang qua bãi đất táng vào ban đêm. Thậm chí, họ còn xem đất ở trên phần mộ là thánh dược, dùng để trị bệnh cho người; hoặc khuấy vào trong nước, cho thai phụ, sản phụ uống để khiến cho họ có thể sinh nở được thuận lợi.
Người ta có tập tục trồng cây bách trên bãi đất táng, vì họ sợ tà quái sẽ ăn mất xương cốt, thi thể của người chết. Trong dân gian còn trồng cây liễu nơi một đầu mộ hướng của chân, bảo rằng để lấy ý “dễ sinh sống” của nó. Nhưng ở Dự Bắc, người ta lại kỵ không để cho cây liễu được trồng ở đầu mộ được sống sớm, khi trồng thì sẽ có một người lắc lắc, lung lay cây, mục đích là không cho rễ cây bám chắc vào đất, không cho nó sống. Sau này, mỗi khi đến quét dọn mộ và cúng tế thì cũng lắc cây. Như vậy, trong một thời gian ngắn, cây liễu sẽ không mọc rễ được. Nếu không, nếu cây liễu sẽ sống được một cách nhanh chóng, lúc ấy người ta sẽ cho rằng linh hồn trong phần mộ ấy không có con cái đến tế tự, trong nhà ấy không có con cháu hiếu thuận.
Cho đến nay, dân gian vẫn còn rất xem trọng việc quét dọn cúng tế vào ngày cúng thứ bảy với cột móc là bảy ngày, cùng với những nghi thức quét dọn cúng tế cho ngày giỗ một trăm ngày, tròn một năm, ba năm, năm năm và mười năm.
Nguyên tác: Hồng Vũ 2004: Cấm kỵ – Trung Quốc dân tục văn hóa. Trung Quốc Xã hội xuất bản xã
鴻宇2004.12: 禁忌 ─ 中國民俗文化。中國社會出版社