Thuyền là một công cụ quan trọng trong nghề đánh bắt thủy hải sản. Người và thuyền được gắn liền nhau, thuyền là “sợi dây sinh mệnh” của ngư dân. Ngư dân thường nhân tính hóa, sinh mệnh hóa con thuyền, ở hai tuyến giữa ngang và dọc dưới thuyền thì tuyệt đối không được đóng đinh, người ta nói rằng, nếu đóng đinh lên hai tuyến giữa thì sẽ khiến cho tính đực của thuyền sẽ lớn lên, khi ở trên biển mà tính đực của thuyền phát tác thì khó mà khống chế được, nó sẽ chủ động đụng húc vào thuyền khác, gây nguy hại đến sự an toàn của con người. Ngoài ra, khi đóng thuyền, người ta có cách nói “đầu không đụng vào cây dâu, chân không đạp vào cây hòe”, có nghĩa là, khi đóng thuyền thì không dùng gỗ cây dâu làm mũi thuyền, không dùng ván cây hòe làm đuôi thuyền. Bởi vì “cây dâu” (桑tang) đồng âm với “tang” (丧 tang tóc), phạm vào kỵ húy, vì thế mà tuyệt đối không được dùng gỗ cây dâu đóng mũi thuyền. Cây hòe tượng trưng cho điều phúc, nên không được dùng để đóng đuôi thuyền, e rằng sẽ giẫm phải lên điều phúc.
Những cấm kỵ về thuyền của ngư dân Đông Hải lại rất đặc biệt. Trước khi ra biển, những đồ vật chỉ có thể đưa vào trong thuyền mà không được mang từ trong thuyền ra. Vào buổi tối, nếu ngư dân đưa nhầm mùng mền của mình vào thuyền của người khác thì cũng không thể trả về, đợi đến khi cho thuyền chạy ngược lại thì mới đem trả mùng mền lại. Sau khi ngư dân lên thuyền thì không được mang giày, không rửa mặt. Bất luận là vào mùa đông hay mùa hè thì cũng chỉ được mặc quần đơn, khi mùa xuân đến thì anh cả (lão đại) trong thuyền mới mới quần dài, tất cả anh em cùng làm ăn trong thuyền chỉ mặc quần cộc, vì như thế thì mới dễ dàng nhận ra ai là anh cả trong thuyền.
Nơi ăn cơm trên thuyền cũng được cố định, không được ngồi tùy tiện. Thức ăn thì đặt ở giữa, ai nấy đều chỉ ăn thức ăn phía bên mình, kỵ ăn thức ăn ở phía đối diện hoặc ở cả hai bên. Trên thuyền, không được ngồi gác chân. Khi ngồi trên ghế thuyền thì cấm không được bỏ thõng chân. Không được tiểu tiện ở phía đầu thuyền, mà chỉ tiểu tiện ở hai bên mạn thuyền. Không được dùng những vật không sạch để đưng cá, như ky đất chẳng hạn, không được dùng chân đá vào cá vàng. Trên biển, giữa thuyền và thuyền với nhau thì không được mượn đồ dùng của nhau, nếu cần thiết phải mượn thì đầu tiên phải lấy củi đưa cho đối phương, tục gọi là “rút đầu đỏ”. Phàm là khi lái thuyền ra biển thì không được ngồi kiểu bảy nam một nữ trên thuyền, người ta cho rằng, việc này có liên quan đến câu chuyện bát tiên. Ngoài ra, ngư dân Đông Hải còn có tục không bước vào buồng sinh, khi vợ sinh con, thì ngư dân sẽ cởi quần áo ra, nếu không, thứ quần áo đó sẽ không sạch sẽ, không tốt.
Những cấm kỵ liên quan đến chiếc thuyền của người Hoàng Hải cũng có sự khác biệt so với vùng Đông Hải. Một số linh kiện và dụng cụ trên thuyền đều lấy mười hai con giáp để đặt tên chuyên dụng cho chúng một cách cố định, ví dụ như dây cáp nhỏ thì gọi là đuôi chuột, máng thuyền thì gọi là mõm ngựa v.v. Những ngư dân lên thuyền ra biển thì không được để hai chân trần, mà ít nhất là phải mang một đôi giày bện bằng cỏ bồ. Eo lưng cũng phải dùng dây nịt làm bằng sợi lãng ma nịt lại, hoặc là buộc quần lại; không được để đầu trần, mà cần phải đội nón lên, ngay cả khi cởi hết quần áo để lặn xuống nước thì cũng phải đội nón, tục cho rằng, nếu không đội nón thì khi xuống nước, đầu sẽ phát sáng, và khiến cho những con quái ngư tuy rằng ở cách đó rất xa nhưng cũng sẽ nhìn thấy và sẽ đến ăn thịt người. Khi ở trên thuyền thì cấm không đuợc hai tay bó gối, cũng không được chắp tay ra sau lưng, nếu không sẽ không bắt được cá. Khi nhìn thấy quái ngư, quái thú thì không được hỏi bằng những câu bất cát bất lợi như “nó có ăn thịt người không”, hay “liệu có sóng lớn không”.
Khi làm ăn trên thuyền, làm việc gì cũng phải làm dấu hiệu, tất cả đều có luật vận tiết tấu của nó, nhưng khi gặp gió to thổi tốc mái che thì không cần dùng dấu hiệu. Khi kéo lưới bắt cá thì không được thò tay bắt đuôi cá, mà phải bắt đằng đầu, ngụ ý rằng, bắt đầu cá thì sẽ hốt được cả bầy cá. Theo tục xưa, ngư dân vùng Hoàng Hải rất sùng kính Long vương, Thiên hậu và Sở Thái gia. Trên mỗi một chiếc thuyền còn có “lão tiên sinh”, như “gia đường bồ tát”, ngày thường, anh em sẽ bưng cơm đến cúng. Khi sửa thuyền, cần phải dùng ván khoang hoặc những vật khác để dựng tạm một “miếu đường” trên bãi biển, đây cũng chính là nơi cấm kỵ như nơi cấm kỵ ở trên thuyền, những sinh hoạt ngày thường cấm không được tiến hành ở nơi này. Khi sửa thuyền xong và cho xuống nước, thì cần thỉnh “lão tiên sinh” và bài vị lên thuyền. Tương truyền rằng, “lão tiên sinh” chính là người trên thuyền bị lâm nạn trong thời gian trước kia, do vậy mà ông ấy biết dạy cho mọi người phải giữ gìn tuân thủ cấm kỵ như thế nào, để tránh không cho xảy ra những điều bất hạnh ấy nữa.
Tục có câu “trong nửa tấc ván là nhà mẹ đẻ, ngoài nửa tấc ván là phủ Diêm vương”, khi làm việc trên thuyền, thì khó có thể biết rằng khi nào sẽ có điều bất trắc xảy ra, luôn ở trong biên giới của sự nguy hiểm, vì thế mà những cấm kỵ càng nhiều, càng nghiêm.
Nhà có thuyền thì gọi là thuyền hộ 船户, một số thuyền hộ lớn có thể kiêm cả một số nghề công thương khác, theo cách nói của xã hội thì có thể gọi đấy là “ông chủ” (lǎo bǎn), nhưng ở đây, người ta kỵ không nói như vậy, vì “ông chủ” (lǎo bǎn老闆) lại đồng âm với “vớt ván” (láo bǎn 撈版), chỉ khi thuyền gặp gió lớn trên mặt biển, sau khi thuyền bị gió giật vỡ thì người vớt ấy mới được gọi là “vớt ván”, nếu gọi là “ông chủ” thì sẽ phạm vào ngôn ngữ cấm kỵ của người trong thuyền hộ. Trên thuyền, người ta kỵ nhất là những chữ “lật, chìm, vỡ, dừng, xa, tán, lộn ngược, lửa”…
Khi nói đến chữ “phàm bồng 帆蓬” (fan péng - buồm) thì người ta chỉ nói đến chữ bồng, mà không được nói đến chữ “phàm”, vì nó đồng âm với chữ “phiên” (fan 翻 - lật ngược). Khi kéo vật từ trên cao xuống, hay lật ngược những vật đang đựng xuống thì không được nói là kéo hay lật ngược, mà phải gọi là “tiểu 小”. Hạ buồm xuống thì gọi là “tiểu bồng 小蓬”; gác chèo xuống thì gọi là “tiểu nguy 小桅”. Hạ buồm xuống một phần thì gọi là “tha bồng 擦蓬”, hạ xuống 1/5 thì gọi là “tha lương đại bả giác” (xoa hai góc lớn 擦梁大把角); buông ½ thì gọi là “tha lương tiểu bả giác” (xoa hai góc nhỏ擦梁大把角); hạ xuống đến mức thấp nhất chỉ còn khoảng 1/10 thì gọi là “tha đáo ma ma sí” (xoa đến cánh ma ma 擦到媽媽翅). Khi kéo vật từ dưới thấp lên cao thì kỵ không nói là kéo hay lôi, mà phải nói là “nâng”, “giơ”, “nâng buồm”, “bắt neo”. Nếu muốn chuyển đề tài hoặc đổi đầu thì nói nói chữa thành “chuyển một sào chống”, chữ “lật ngược” bị cấm kỵ một cách rất rõ ràng. Những thứ như cái búa, con dao, dao đá, cái kéo đều được gọi là “anh chàng nhanh nhẹn”. Cá chết rồi thì gọi là “cá thẳng rồi”.
Trong thuyền không được chở người chết, tục cho rằng như thế sẽ không tốt. Người ta còn cấm chữ “tắm 洗”, ví dụ như khi tắm gội thì nói là “gội một chút mát mẻ 沖涼”, vào sáng sớm thì kỵ những chữ như “cọp”, “khỉ”, “ma”. Nếu có chút không cẩn trọng thì chủ thuyền sẽ trách mắng. Chống cái gì hoặc đệm cao cái gì đó thì đều gọi là “nâng cao một chút”. Khi thuyền cập bến hoặc vào cảng, thì gọi là thu bờ, thu cảng, thu cửa; người ngủ trên thuyền thì gọi là “khải giác 凱覺”, ngủ một lát thì gọi là “khải nhất hội 凱一會”. Khi ở trên thuyền, cầm vật mà không cẩn thận để vật rơi xuống, thì không được hốt hoảng la lên rằng “oái oái”, càng không được nói “oái, vuột tay mất rồi”, trên thuyền tối cấm kỵ nói đến chữ “vuột tay”, vì đó là biểu hiện của hiện tượng không cứu được người chết đuối. Nếu có người không biết hoặc vô ý mà phạm phải cấm kỵ này thì cần phải đến anh cả (lão đại) của thuyền mà hung hăng đánh ông ấy một bạt tai, người bị đánh không được có phản ứng gì, người khác thì cảm thấy đánh như vậy là đáng, và đánh càng mạnh thì càng tốt. Vì đánh bạt tai khiến cho người ta có thể khu trừ xui xẻo, đánh càng mạnh thì xui xẻo càng bị trừ sạch sẽ.
Ở Thượng Hải, những lời kiêng kỵ thì không được nói, những việc cấm kỵ thì không được làm. “Hải Châu dân tục chí” có đoạn viết giới thiệu về ngư dân như sau: “Những đồ gia cụ, những sọt cá khi hong phơi thì chỉ được để miệng đồ hướng lên phía trên mà không được lật hướng về phía dưới”. Lại nói rằng “Khi ngủ chỉ được nằm nghiêng hoặc nằm ngửa, không được nằm sấp. Đó là vì khi đàn ông chết đuối, thây nổi lên, phần mông hướng về phía trên”. Chiếc neo sắt lớn nhất để ở đầu thuyền được gọi là neo thái bình, nếu chưa đến nỗi vạn phần nguy khốn thì không được động đến chiếc neo đó. Phía sau thuyền có một vài cái rổ lớn đan bằng tre, chuyên để dùng khi gió to đứt neo, người ta bỏ những cái rổ ấy để cản nước, có tác dụng là làm ổn định thần thuyền, khiến thuyền có thể trôi chầm chậm thuận theo thế gió, người ta gọi đó là rổ thái bình. Trong khoang sau, người ta để một cái búa lớn, rất bén, chuyên dùng để chặt cột chèo và chặt dây neo một cách cấp thời khi thuyền gặp phải gió giật, gọi là búa thái bình. Vào lúc bình thường, người ta không được động chạm gì đến ba vật “thái bình” này, không được bước ngang qua chúng, càng không được làm những việc phạm vào cấm kỵ, nói những lời kiêng kỵ ngay trước chúng. Nếu có người vô ý nói những lời hoặc làm những chuyện phạm cấm kỵ thì ngoài việc bị đánh bạt tai, anh cả còn phải đốt hương dập đầu trước chiếc neo thái bình, miệng lẩm nhẩm: “Lão neo lão neo đừng trách cứ, phải nới lòng (lượng thứ) đối với chuyện làm của tiểu nhân”. Khi thuyền đang trên biển, bất có bất kỳ thứ gì trôi trên sóng trên gió đều không được nhìn và cũng không được nhặt lấy.
Tất cả mọi sinh hoạt của con người trên thuyền đều phải được tiến hành trên mui sau của khoang thuyền, vì cho rằng mui sau cách xa với mặt nước biển; khoang sau được gọi là khoang rỗng, nếu sinh hoạt ở đây thì sẽ tránh được những động chạm đến thế giới của Long vương. Vào bất kỳ lúc nào cũng không được tiểu tiện ở hai bên mạn thuyền, mà là ở mui sau, và vào bất cứ lúc nào cũng không cho phép hai người đại tiểu tiện cùng lúc với nhau, cho rằng “hai người đái vào nhau, tất sẽ gặp gió bạo”. Ở vùng Triết Giang, người ta kỵ không để phụ nữ đi lên trên đầu thuyền, người ngoài mà chân không sạch cũng không được đến đầu thuyền. Ngư dân vùng Đài Loan thì kỵ người bước ngang qua mũi thuyền, cho đó là điềm không lành; ở vùng Triết Giang, nếu như hai chiếc thuyền song hành với nhau, thì kỵ không được dùng dây lòi tói sắt để xích vào nhau; vùng Triết Giang, An Huy thì cấm không được chở vật chết trong khoang thuyền, tục cho rằng như thế sẽ bất cát bất lợi; ở một dải đất Hồ Châu Triết Giang, cấm kỵ hành khách nam nữ giao cấu với nhau trên thuyền; vùng Đài Loan khi ra biển đánh cá thì kỵ để chuột trong thuyền chạy mất, tục cho rằng, đó là điềm không lành. Khi gặp tình hình như vậy thì cần phải tìm cách mời chuột trở lại thuyền, sau đó mới dám ra biển đánh bắt cá.