Về hình thể, người Negrito dáng thấp, da ngăm đen, là nhóm dân cư định cư sớm tại Malaysia, chiếm 3% số dân Orang Asli, bao gồm các sắc tộc Kensiu, Kintak, Lanoh, Jahai, Mandriq, và Batiq. Một số nghiên cứu sử học cho thấy nguồn gốc tộc người Negrito có mối quan hệ mật thiết với văn hóa Hòa Bình ở Việt Nam.
Thợ săn Orang Asli Bản làng Orang Asli
Nhánh tiền-Malay dáng cao, mũi thấp, da sáng hơn nhóm Negrito nhưng sạm hơn nhám Senoi, dân số chiếm 42% dân số Orang Asli, gồm các sắc tộc Temuan, Semelai, Jakun, Kanaq, Kuala, và Seletar. Về nguồn gốc, nhiều ý kiến cho rằng tổ tiên nhóm này từng đi cư từ quần đảo Indonesia đến vào thời kì đồ đá mới.
Nhánh Senoi là tập hợp của nhiều sắc tộc như Jah Hut, Mah Meri, Temiar, Semai, Semoq Beri, Jahut, Mah Meri, và Che Wong, dáng người cao, da sáng, dân số chiếm 55% tổng số dân Orang Asli. Nhánh Senoi cũng xuất hiện vào khoảng thời kì đồ đá mới.
Người Orang Asli chủ yếu sinh sống bằng nghề trồng trọt (ruộng bậc thang, nương rẫy, vườn trái cây, nông trại vùng đồi núi), đánh bắt cá (vùng ven biển) và săn bắt (vùng rừng rậm). Một vài sắc dân như Jahai, Lanoh (thuộc nhánh Negrito) vẫn còn tập quán săn bắt du canh du cư. Một số khác đã dần quen với lối sống đô thị hóa khi nền kinh tế Malaysia phát triển mạnh mẽ trong vài thập kỷ gần đây.
Nhà sàn Orang Asli Các "diễn viên" nhập vai
Xã hội Orang Asli xây dựng theo mô hình làng bản tự quản dưới khuôn khổ pháp luật. Đứng đầu là trưởng làng (batin) phụ trách các công việc chung như cưới, gả, tang ma, hội hè, kiêm cả làm pháp sư chữa bệnh khi cần thiết. Cả xã hội vận hành theo luật tục. Người Senoi vùng đồi núi còn giữ tục sống trong nhà dài, trong đó quan hệ thân tộc rất được coi trọng. Riêng các sắc dân đi săn sống thành từng nhóm 5-7 gia đình, cùng săn bắt và chia đều sản phẩm thu được. Món ăn chính của người Orang Asli chủ yếu là cơm-rau-củ-quả. Chất đạm chủ yếu từ cá, lợn lòi, nhím, rái cá, hươu, nai v.v..
Nhiều người ví von văn hóa Orang Alsi là văn hóa tre trúc. Tre trúc hiện diện hầu như mọi lúc mọi nơi trong đời sống cư dân. Có người dùng tre trúc làm nhà, bắc cầu, làm bè đi lại trên sông suối, có người dùng làm dụng cụ săn bắt thú, bẫy chim, bắt cá, nấu cơm, dẫn nước v.v.. Khi sinh con, người ta cũng dùng mảnh tre để cắt dây rốn cho con.
Các kiểu mô-típ hoa văn trên mặt
Người Orang Asli mặc trang phục làm từ thực vật. Họ thích trang điểm bằng vàng, bạc, gấm lụa, hoa cỏ. Một số nhóm còn giữ tục xăm mình, đặc biệt là nam giới xăm trên tay để thể hiện sức mạnh nam tính. Nhiều người già vẽ mặt bằng các loại phấn màu đỏ, xanh, đen và trắng tùy theo mục đích và ý nghĩa.
Người Orang Asli theo tín ngưỡng vạn vật hữu linh (đa thần). Theo niềm tin, bên cạnh thế giới hữu hình này còn có một thế giới vô hình khác đang tồn tại, có thể sẽ gây hại đối với con người nếu không có những nghi lễ cúng tế nhất định. Lấy hệ thống thần phả sắc dân Jah Hut và Mah Meri làm ví dụ, các vị thần chung có thể kể như Moyang, Hantu, Best, thần chết Gin Gunong, thần biển Moyang Mengkok, thần voi Bes Gajas, thần ăn bàn tay Bes Makan Tangan, thần đất Bes Jin Tanah v.v.. Cư dân vùng biển, đầm lầy có thêm thần rồng biển, cua biển v.v..
Thần rồng biển Quái vật biển
Múa mặt nạ là nghi thức quan trọng trong các buổi lễ cúng tế hay hội hè truyền thống. Nội dung các vở múa thường thể hiện những diễn biến của lịch sử, xã hội Orang Asli từ thưở hồng hoang. Các mặt nạ được chạm khắc muôn hình vạn trạng, được cho là mang linh hồn của động vật, chim muông hay các quỷ thần gây hại (bão lụt, ôn dịch, khô hạn v.v.) xuất hiện trong thần thoại, truyền thuyết. Mỗi khi người làng có bệnh, người ta đẽo gỗ thành hình các loài quỷ hantus, pawang để cúng giải, đợi sau khi pháp sư làm lễ rước mầm bệnh vào tượng gỗ xong thì mang chúng bỏ vào rừng với hy vọng người bệnh sẽ qua khỏi .
Mặt nạ Múa mặt nạ
Diễn viên múa Nghi lễ shaman
2. Thần thoại sáng thế Orang Asli
Thưở bình minh của thế giới có hai thiên thần ngự trị. Vị thứ nhất là Peruman (thần Bình minh), vị kia là Ebrahil (thần Hoàng hôn). Họ gặp nhau tại trung tâm hành tinh và nổ ra cuộc tranh luận xem ai làm bá chủ. Cuối cùng, hai vị thần thống nhất tỷ thí bằng trò trốn tìm. Ebrahil lần lượt nấp vào 6 góc đông, tây, nam, bắc quả đất, trên bầu trời và dưới lòng đất, song lần nào cũng bị Peruman phát hiện.
Đến lượt thần Peruman nấp, Ebrahil chẳng tài nào tìm ra. Sau nhiều thời gian bỏ công tìm kiếm bất thành, Ebrahil chấp nhận thua cuộc. Hóa ra, Peruman nấp ngay trong mí mắt Ebrahil. Peruman hiện diện ngay trước mặt Ebrahil mọi lúc mọi nơi mà Ebrahil bất lực. Ebrahil ấm ức tôn Peruman làm thủ lĩnh.
Nabi Adam chưa biết nói, các thần dạy chàng nói. Chàng bày tỏ nỗi buồn cô đơn của mình. Thần Ebrahil cảm thông nỗi lòng, xin Peruman tạo thêm cho chàng một người phụ nữ bầu bạn từ những cánh hoa đoan trên cành. Từ đó, hai người được các thần dạy cách làm nhà để ở. Sau một thời gian, hai người sinh ra đàn con. Đứa con đầu tiên chỉ phát triển một nửa thân người, được đặt tên là Nabi. Sau Nabi còn có bốn con nữa – hai trai hai gái. Khi các con lớn, Adam tác hợp cho các con. Chỉ còn lại đứa con đầu Nabi cô độc.
Nabi Adam quyết định để con Nabi được chết. Thần Peruman bảo hãy mang những phần thân thể Nabi rải khắp nơi, bỗng nhiên chúng biến thành lúa gạo, khoai sắn, chim chóc, cá cua và tất cả mọi thứ trên hành tinh này.
Thần Peruman tạo ra một cánh rừng và cho voi vào ở, tiếp tục cho một người đàn ông vào làm lãnh tụ cánh rừng này, sau phát triển thành nước Siam (Thái Lan). Các con cháu của Nabi Adam phân tán về các nơi, họ mang theo các loại cây trồng và vật nuôi đến nơi ở mới, tạo ra những vương quốc riêng để cai trị. Một số đóng thuyền đi về phía đông (Thái Bình Dương) và định cư tại đó. Cách trở lâu dần, con cháu Nabi Adam biến đổi màu da và giọng nói, trở thành các dân tộc khác nhau trên thế giới.
Tài liệu tham khảo: Datuk Anthony Ratos (2006), Người Orang Asli và nghệ thuật đồ gỗ, NXB Marshall Cavendish.