Dừng chân trước cửa, tôi vô cùng ngạc nhiên khi thấy đồng tiền đầu tiên của dân tộc Việt Nam được phỏng thành hai đồng tiền rất lớn, đường kính hơn 0,5m, một mặt trước, một mặt sau, để ngay bên cửa phòng. Tôi thầm nghĩ -“Họ sâu sắc quá!”. Một thoáng xưa hiện về...
Huyền thoại kể rằng Đinh Bộ Lĩnh sau khi “cờ lau tập trận”, đã dám giết trâu của chú để khao quân (các trẻ mục đồng), bị người chú cầm đao đuổi giết... Ngài nhảy xuống sông để trốn, tưởng chết đuối, không ngờ có rồng vàng xuất hiện cõng ngài sang sông... Năm 968, sau khi dẹp Loạn 12 sứ quân, Đinh Bộ Lĩnh xưng đế hiệu là Đại Thắng Minh hoàng đế, đặt quốc hiệu là “Cồ Việt”(1), sử gọi là Đinh Tiên Hoàng. Hai năm sau (970), lấy niên hiệu Thái Bình và cho đúc tiền Thái Bình Hưng Bảo mặt lưng có chữ “Đinh”; đó là đồng tiền đầu tiên của nước Việt Nam tự chủ...
Vào phòng trưng bày, tôi càng bất ngờ hơn khi thấy đồng tiền thật của vua Đinh được đặt trong lồng kính...
“-Chắc ông ngạc nhiên lắm?”. Câu hỏi của vị chuyên viên tiền tệ kéo tôi về thực tại. Tôi thở dài: “-Ui chà, còn hơn thế nữa! Tôi thật sự xúc động lắm! Ngay cả Bảo tàng Lịch sử Việt Nam cũng chưa có báu vật này. Đối với các nhà khảo cổ học, đây là một trong những di tích văn hóa đầu tiên của dân tộc; đối với các nhà sưu tập, nó là một kho tàng đang được tìm kiếm...”. Vị chuyên viên tiếp lời: “-Và đối với ngành ngân hàng chúng tôi, đó là niềm tự hào truyền thống...”.
Cuộc gặp gỡ quá ngắn ngủi. Trên chuyến tàu về Huế, suốt đêm tôi trăn trở mãi... Một đất nước đổi mới, đang vươn mình, khi nền kinh tế xã hội đã ổn định và phát triển, chắc chắn người ta sẽ tìm lại Di sản Văn hóa Dân tộc. Đó chính là nguyện vọng của những người yêu quê hương, yêu đất nước!
1. Đọc hiệu đồng tiền: Các sách sử cũ của nước ta như Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí, chưa thấy sách nào ghi việc vua Đinh có đúc tiền. Song cho đến nay, các nhà nghiên cứu tiền cổ trên thế giới đều công nhận tiền Thái Bình Hưng Bảo là do Đinh Tiên Hoàng đúc. Khảo sát hiện vật cùng các hình ảnh được công bố trên sách báo xưa nay, nhận thấy có một số vấn đề cần lưu ý:
Một số sách, catalogue tiền cổ, do không có hình ảnh chụp đồng tiền thật sự nên khi vẽ minh họa, đã viết chữ Hán là “太平興寶 (Thái Bình Hưng Bảo)”. Làm như vậy là sai sự thật của đồng tiền!
Mặc dù theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, niên hiệu của Đinh Tiên Hoàng có chữ Hán viết là “太平 (Thái Bình)”, nhưng Bernard J. Perma (Catalogue of Annam coins 968- 1955, Vietnam, 1963), thật có lý khi đọc hiệu của đồng tiền là “Đại Bình Hưng Bảo”, tuy nhiên sách này chỉ đọc hiệu tiền chứ không giải thích ý nghĩa gì thêm. Bởi sự thật, các đồng tiền do vua Đinh đúc, cả hiện vật lẫn ảnh chụp, chữ Hán viết là “大平 (Đại Bình)” chứ không phải là “Thái Bình”. Trong sách Tiền Cổ Việt Nam, GS Đỗ Văn Ninh đưa ra hai cách giải thích hiện tượng trên như sau:
- Đồng tiền bị gỉ làm mất nét chấm dưới chữ “thái”. Cách giải thích này khó được chấp nhận, vì chưa thấy đồng tiền nào của vua Đinh viết chữ Hán là “thái bình”; nếu có, chắc nhầm lẫn với một loại tiền khác, tôi sẽ nói sau.
- Cách giải thích thứ hai, dễ hiểu và có sức thuyết phục hơn là: chữ “大 (đại)” còn có một âm đọc là “thái”. Hán Việt Tự Điển của Thiều Chửu giải thích rất rõ, và hiện tượng này còn gặp ở nhiều niên hiệu khác như đã từng xảy ra cuộc tranh luận Nhật - Việt: niên hiệu của Lê Nhân Tông (1443-1453) là Đại Hòa hay Thái Hòa?! Như vậy, đồng tiền của Tiên Hoàng, có thể đọc là “Thái Bình Hưng Bảo”.
Một số nhà nghiên cứu khác đưa ra ý kiến đọc hiệu đồng tiền là “Đại / Thái Hưng Bình Bảo”. Tuy rằng thời Đông Tấn - Nguyên Đế (Tư Mã Duệ) có niên hiệu Đại Hưng (318-321), song thời ấy ở Trung Quốc đang còn sử dụng hệ thống tiền Ngũ Thù, chưa dùng chữ “bảo” để chỉ khái niệm tiền tệ, do đó tiền này không thể do triều Tấn đúc, và như thế không thể giám định với cách đọc này. Vậy, đồng tiền Thái Bình Hưng Bảo, trùng với niên hiệu của Đinh Tiên Hoàng, lại thêm mặt lưng có chữ “Đinh” là họ vua nên giám định do vua Đinh đúc, không còn nghi ngờ gì nữa!
2. Thống kê các loại tiền và những nhầm lẫn khi giám định tiền của vua Đinh:
Các nhà sưu tập, nghiên cứu dựa vào các chi tiết khác nhau trên đồng tiền để phân loại, như tác giả Miuria Gosen trong An Nam tuyền phổ (sách chữ Nhật, 3 tập, Nhật Bản, 1966) công bố đến 14 đồng tiền hiệu này với các chi tiết nhỏ nhặt khác nhau... Song thiển nghĩ, ngày xưa khuôn đúc và kỹ thuật đúc đều được làm bằng thủ công nên tất cả những đồng tiền đã đúc ra đều hoàn toàn khác nhau, có loại bằng đồng thau, có loại bằng đồng bạch, nếu phân loại chi li như vậy thì sao thể sưu tập đủ tất cả được?! Do thế, theo tôi, chỉ nên có 4 loại chính khác nhau cơ bản về mặt lưng như sau:
- Chữ “Đinh” nằm trên lỗ vuông.
- Chữ “Đinh” nằm dưới lỗ vuông.
- Chữ “Đinh” có móc thay vì xoay bên trái, lại móc ngược về bên phải.
- Mặt sau trơn, không có chữ.
Trong 4 loại tiền vừa kể trên, loại có mặt sau trơn hiếm hơn cả; tuy nhiên, trong thú chơi tiền cổ, tâm lý người sưu tập vẫn thích loại tiền lưng có chữ hơn, vì dù sao chữ “Đinh” (quốc tính) là một yếu tố quyết định khi giám định loại tiền này.
Một số nhà sưu tập, do chưa có kiến thức cơ bản về tiền cổ, cũng như chưa nắm lịch sử tiền tệ, bắt gặp bất cứ đồng tiền “Thái Bình” nào cũng đều cho là tiền của nhà Đinh cả, thật nhầm lẫn! Còn tôi, cho đến nay, chưa gặp đồng tiền Thái Bình Hưng Bảo nào là tiền giả mới đúc. Một vài nhà nghiên cứu khác, tuy đã biết hiệu tiền của vua Đinh, nhưng oái ăm thay lại bắt gặp tiền Thái Bình Phong Bảo của chúa Nguyễn, chữ “豐 (phong)” nhiều nét bị gỉ rất giống chữ “興 (hưng)”, thêm nữa, lưng loại tiền này lại có hai dấu phẩy vuông góc nhau trông rất giống chữ “đinh”! Loại tiền Thái Bình Phong Bảo này rất dễ nhầm với tiền nhà Đinh, nhưng chúng ta có thể phân biệt được nhờ chữ Hán: tiền của chúa Nguyễn viết là “thái bình”, còn tiền của vua Đinh viết là “đại bình”, đây là vấn đề mấu chốt, cần xem xét kỹ!
|
|
|
tiền Thái Bình Hưng Bảo của Đinh Tiên Hoàng (968-979) |
mặt lưng tiền Thái Bình Hưng Bảo, có chữ “Đinh” dưới lổ vuông |
mặt lưng tiền Thái Bình Hưng Bảo, có chữ “Đinh” trên lổ vuông |
3. Đọc lại hiệu tiền và ý nghĩa mới...
Ở trên, tôi đã nói việc đồng tiền “大平興寶 (Đại Bình Hưng Bảo)” mặt lưng có chữ “丁 (Đinh)” chắc chắn là của Đinh Tiên Hoàng, niên hiệu Thái Bình (970-979) và nên đọc là “Thái Bình Hưng Bảo”. Đây là cách giải thích theo lối kinh điển là đồng tiền thường mang niên hiệu của vua!, và tôi cũng đã từng giải thích như thế. Nhưng ngày nay tôi đã có lối suy nghĩ khác...
- Tại sao phải đọc là “Đại Thắng Minh hoàng đế” mà không đọc là “Thái Thắng Minh hoàng đế”?
- Niên hiệu của Trần Dụ Tông, vì sao phải đọc là “Đại Trị” (1358-1369) mà không đọc là “Thái Trị”?
- Tại Trung Quốc, Tống Thái Tông niên hiệu Thái Bình Hưng Quốc (976-984) cùng thời với Đinh Tiên Hoàng, nhưng trên đồng tiền vẫn viết là “太平通寶 (Thái Bình Thông Bảo)”. Vì sao không viết là “大平通寶 (Đại Bình Thông Bảo)” để vẫn được đọc là Thái Bình Thông Bảo?
Với chứng lý “vàng” là cách đọc đế hiệu của Đinh Tiên Hoàng, tôi cho rằng phải đọc đồng tiền là “Đại Bình Hưng Bảo”. Vậy giải thích ý nghĩa hiệu tiền như thế nào?
Theo tôi, hai chữ “Đại Bình” trên đồng tiền vua Đinh không phải là niên hiệu của vua, mà có ý nghĩa là đã “đại bình” (định) được Loạn 12 sứ quân, thống nhất dựng nước; và như vậy, đồng tiền có thể được đúc từ năm 968, chứ không phải đến 970 mới có niên hiệu “Thái Bình” để đúc tiền!
Và công lao “đại bình định” đó còn được thể hiện qua đế hiệu Đại Thắng Minh hoàng đế ngang hàng với thiên triều đại đế Trung Hoa (các vua đời sau đều thần phục Trung Quốc và không đặt đế hiệu). Cho nên việc đúc đồng tiền “Đại Bình” còn có chữ “Đinh” để tiếp tục giương cao Đại Thắng Minh hoàng đế Cồ Việt! Ngẫm nghĩ chữ “Cồ (to lớn)” trong quốc hiệu “Cồ Việt” (chứ không phải là “Đại Việt” như sau này, mà các vua ta cũng không có đế hiệu như đã nói), ta có cảm tưởng như có mối liên quan gì đó với ý nghĩa chữ “Đại Bình” trên đồng tiền “Đại Bình Hưng Bảo”... Cho nên ngày nay tiền “Đại Bình Hưng Bảo” - theo ông XiongBaoKang (Tổng Giám đốc Viện nghiên cứu tiền tệ và Bảo tàng Tiền tệ Quảng Tây - Trung Quốc), đã được tìm thấy ở Hoa Nam (Trung Quốc NGÀY NAY) là đất của dân Bách VIỆT rất nhiều... Mà tôi cho đây cũng là một cuộc “Đại Bình” về tiền tệ!...
Thêm nữa, chữ “Hưng” trong “hưng bảo” nối tiếp hai chữ “Đại Bình” như có nghĩa là “phục hưng”, “trung hưng” và “chấn hưng” dân tộc Việt vậy!; bởi dân tộc ta đã từng có một nền Văn minh sông Hồng thuần Việt (phi Hoa phi Ấn), thuộc một trong những nền văn minh rực rỡ nhất của nhân loại là Văn hóa Đông Sơn (700 TCN - 100), mà đỉnh cao là Trống đồng Đông Sơn - Trống đồng Ngọc Lũ lan tỏa cả vùng Hoa Nam; vì theo Hán thư và Cựu Đường thư thì người Lạc Việt đã từng sinh sống ở Quảng Đông, Quảng Tây, Quý Châu, Hải Nam và cả vùng sông Hán... Và trong thời kỳ này, dân tộc ta đã từng có cuộc “đại bình” của Hai Bà Trưng (40-43) thu phục được 72 thành trì của Thiên triều Đại Hán...
Chính vì một nền văn hóa Lạc Việt rực rỡ như vậy, nên khi Mã Viện bình định được Hai Bà Trưng, đã đem trống đồng Đông Sơn(2) nấu chảy để đúc tượng...
Cách hiểu ý nghĩa “Đại Bình Hưng Bảo” này tuy chưa có tiền lệ ở trên tiền Trung Quốc, nhưng sự xuất hiện của quốc hiệu “Cồ Việt” cũng như loại “hưng bảo” cũng chưa có tiền lệ bao giờ! Và chúng cũng có ý nghĩa tựa tựa như:
Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu.
Núi sông bờ cõi đã chia.
Phong tục Bắc Nam cũng khác.
Từ Triệu, ĐINH, Lý, Trần bao đời GÂY NỀN ĐỘC LẬP,
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên HÙNG CỨ MỘT PHƯƠNG...
-----------------
CHÚ THÍCH
(1) Xem thêm các bài: “Quốc hiệu Việt Nam thời Đinh Tiên Hoàng: Đại Cồ Việt hay Cồ Việt?!” tren vanhoahoc.edu.vn:
http://www.vanhoahoc.com/site/index.php?option=com_content&task=view&id=1098&Itemid=71
(2) Phục Ba tướng quân Mã Viện của nước Đại Hán là người đương thời đó thì cố tình hủy trống đồng Đông Sơn (là sáng tạo của người Việt cổ), để thực thi chính sách đồng hóa Hán; nhưng ngày nay thì ngược đời thay (!), phần lớn các học giả Trung Quốc cứ cố chấp nhận bừa rằng Văn hóa Đông Sơn là do người Trung Quốc sáng chế! Vấn đề chủ nhân của trống đồng Đông Sơn này là ai (?), tôi sẽ trở lại trong một dịp khác!
Nguồn: Tác giả cung cấp