Minh Hương thoạt đầu, từ “hương” có nghĩa là “thơm”, đến năm 1827 đổi thành Minh Hương, với từ “hương” có nghĩa là “làng” hiểu là “làng của người Minh” và cũng hiểu là “làng sáng sủa”. Từ Gia Thạnh đường đến Minh Hương khiến cho chúng ta hiểu rằng việc đổi từ hương/thơm đến hương/làng là bước khẳng định sự tiến hóa của cộng đồng di dân người Hoa này đã hội nhập vào thể chế làng, thôn Việt cũng như đã xác lập tính chất tổng hợp chủng tộc và văn hóa Việt và Hoa. Đây là kết quả của sự “kiểu ngụ chung lộn đông đảo” (GĐTTC) của các dân tộc trong một vùng đất có kết cấu dân cư đa chủng mà nổi bật là sự giao lưu văn hóa của hai công đồng “dị chủng đồng văn”: Việt và Hoa.
Kết quả của quá trình đó đã sản sinh ra hiện tượng “đa ngữ”, điều này tác giả Gia Định thành thông chí có ghi nhận là “co những người thông tiếng nói của người Phước Kiến, Quảng Đông, Triều Châu, Hải Nam, Tây Dương, Tiêm La và trong giao tiếp hàng ngay lại “thường pha trộn tiếng Tàu, tiếng Cao Miên, bấy giờ ở vùng đất này, theo cách nói đại lược của ông quan Minh Hương Trịnh Hoài Đức thì: “Nhà cửa, khí dụng của các nhà văn vật (hiểu là tầng lớp thương lưu-HNT) đồng như phong tục Trung Hoa; và trong tập tục lễ tiết thì “Các tiết Đoan Dương, Trùng Cửu, Thất Tịch, Trung Thu nhiều chỗ theo chế độ Trung Hoa”. Đây là tình hình phổ biến ở cả 5 trấn của thành Gia Định (xem Phong tục chí, trong sách Gia Định thành thông chí).
Ở Sài Gòn phố thị (hiểu là Chợ Lớn ngày nay) Trịnh Hoài Đức cho biết là đã có đền thơ Quan Thành, miếu thờ Thiên Hậu, thờ Bà Chúa Thai Sanh (của cộng đồng người “Thanh thất phủ”) và ảnh hưởng của tập tục tín ngưởng Hoa đã phổ biến rộng rãi trong các cộng đồng dân cư như là tập quán chung không phân biệt nguồn gốc dân tộc. Bài phú Cổ Gia Định phong cảnh vịnhcũng ghi nhận sự hình thành các dạng thức tín ngưỡng Hoa hồi đầu thế lỷ XIX (thồi điểm sáng tác bài phú này).
Chói chói bấy chùa ông Quan Đế,
Nền chung ngãi cao danh ngàn thuở.
Coi chùa Ông Bổn Đầu công,
Dám quên ngọn rau tấc đất.
Kẻ làm dân khấn vái Bà Chúa Thai Sanh,
Xin mẹ tròn con vuông, chẳng đặng trai thì gái.
Người ki cúc lại Chúa Bà Mã Hậu,
Xin thuận buồm xuôi gió, đi đến chốn về đến nơi.
Như vậy, trong chừng mực nào đó, ảnh hưởng của văn hóa Hoa đã tạo nên một phức thể Minh Hương – hiểu là một dạng thức tổng hợp văn hóa Hoa – Việt, chiếm vị trí thời thượng vào thế kỷ XIX ở xứ Gia Định – trước khi Pháp đánh chiếm vùng đất này và văn hóa phương Tây đã bắt đầu thịnh hành.
Gỏi chi ngon bằng gỏi tôm càng
Đố ai lịch sự cho bằng làng Minh Hương
Câu ca dao trên đã chỉ ra vị trí đầu bảng của phong hóa của người dân làng Minh Hương trong sự lượng giá của công chúng thời ấy. Việc đánh giá như vậy một phần vì tính chất sang trọng thành thị của nó khác với tính chất quê mùa của thôn làng nông thôn nông nghiệp; song mặt khác cũng phải nhận thấy rằng chuẩn mực được dùng để đối chiếu vẫn là phong hóa Việt, phong hóa của làng Việt. Nói cách khách, một cách có phần hiển nhiên làng Minh Hương được coi là điển hình của thôn làng Việt; cụ thể là Minh Hương xã đã chịu ảnh hưởng của mô hình phong hóa và thiết chế văn hóa làng Việt; cơ sở tín ngưỡng chính của cộng đồng Minh Hương là đình làng, đối tượng thờ tự chính là Bổn cảnh Thành hoàng chứ không phải ông Bổn hay Quan Công hoặc Thiên Hậu...và đối tượng phối tự là Nguyễn Hữu Cảnh, Trần Thắng Tài, Trịnh Hoài Đức, Ngô NHơn Tịnh...Các văn thần võ tướng của nhà Nguyễn được thờ tự ở đây biểu thị xu hướng tín ngưỡng rất thuần Việt. Hơn nữa, ở gian tri từ, các đối tượng thờ tự về cơ bản là giống hệt như ở các đình làng Nam bộ.
Đình Minh Hương Gia Thạnh đã biểu hiện sự trội bật của tín ngưỡng Việt trong tâm thức tín ngưỡng – văn hóa của cộng đồng cư dân làng Minh Hương. Các đối tượng thờ tự có nguồn gốc Hoa ở đây chiếm tỉ lệ nhỏ và cũng hầu như cũng đã từng hội nhập vào hệ thống thần linh Việt từ lâu đời: Thổ Địa/Phước Đức Chánh Thần, Mười Hai Mụ Bà/Bà Chúa Thai Sanh, Ngũ Thổ Tôn Thần, Ngũ Cốc Tôn Thần.
Sự Việt hóa đối với đình Minh Hương Gia Thạnh không chỉ biểu hiện ở “điện thờ” của nó mà còn ở các lễ cúng tế hàng năm:
1) Nguyên Đán: Mồng 1 tết, 2) Thủ Nha: (Biện và chức đương niên cúng ra mắt đầu năm của mình): Mồng 2 Tết, 3) Nghinh thần: Mồng 4 Tết, 4) Khai Hạ (Hạ nêu): Mồng 7 Tết, 5) Kỳ yên: 16 tháng Giêng, 6) Tế tri từ: (cúng lễ chung cho những bậc tiền hiền, các hương chức, những người có công với làng, với đình đã quá vãng), 7) Cúng Thanh Minh: Ngày theo lịch cổ trong tháng 2 hoặc tháng 3 âm lịch; Tổ chức cúng ở nghỉa địa Cầu Tre, tại mộ Ngô Nhơn Tịnh; ngày hôm sau, cúng mộ Trịnh Hoài Đức ở Biên Hòa, 8) Vía Bà Ngũ Hành và Bà Chúa Thai Sanh, 9) Đoan Ngọ: 5 tháng năm Âm lịch, 10) Cúng hậu ông Trương Công Sĩ: 29-6 Âm lịch, 11) Kỵ cơm bà Đỗ Thị (vợ ông Sĩ), 12) Hạ ngươn: rằm tháng 10, 13) Đưa thần: 24 tháng Chạp, 14) Cúng rước Ông Bà: 30 tháng Chạp.
Nói chung, ở lịch lễ hội hàng năm trên đây về cơ bản là giống hệt lễ hội của đình làng Việt ở Nam bộ. Điều này đã chỉ rõ thêm mức độ Việt hóa trong sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng của cộng đồng Minh Hương này. Mặt khác, các hình thức nghi lễ ở đây cũng là hình thức nghi lễ phổ biến ở đính, miếu, ở thôn làng Nam bộ. Lễ Kỳ yên cũng là dùng nhạc lễ, cũng có hát chầu (hát bội) ở võ ca; lễ vía các nữ thần (19/3 Âm lịch) cũng được thể hiện bằng hình thứ diễn xướng dân gian hát bóng rỗi: “Có Bống rỗi, Dưng bông, Dưng mâm vàng, cây huệ-giếng nước, thỉnh tiên, múa Nhật Nguyệt, chưng Bát Tiên, Trạng-Nàng, vỡ Địa đưa Tiên, múa đồ chơi...”, tức ở đây cũng tuân theo lề lối của nghi lễ, các hình thức diễn xướng thực hành nghi lễ của cúng Kỳ yên đình, làng, lễ vía các nữ thần ở miễu.
Minh Hương là một làng không chỉ được dân chúng trong vùng coi là “lịch sự” nhất mà năm 1863, vua Tự Đức có ban tặng biển khắc 4 chữ “Thiên tục khả phong” (nay còn treo trước chính điện). Điều này có lý do của nó.
Như chúng ta biết, ở Nam kỳ suốt thời Nguyễn chỉ có một bản hương ước chung có tên là Minh điều hương ước, song trong thực tế không thấy phổ biến trong các thôn làng; và như vậy, Minh Hương xã hương ước khoán văn tập có thể coi là bản hương ước hiếm hoi, nếu không muốn nói Minh Hương xã là làng duy nhất có hương ước ở Nam bộ. Đây là bản hương ước được lập ra vì nhu cầu thực tế ở làng: “Vì thấy trước kia có nhiều điền tệ, làm cho đến nỗi phong tục suy đồi, thật đáng tiếc nên nay mời hết dân trong làng đặng công nghị; dùng lấy phần đông mà lập ra cuốn khoán ước này; điều có định lệ: như có điều nào không tiện thì công nghị sửa đổi ngay” và được “đọc ra cho trên đồng nghe, xóm làng đều biết, muốn cho nên người từ tế thì phải tuân theo hương ước mà làm qui củ” (lời nói đầu, tr.4)
Nội dung của bản hương ước này liên tục được tu chỉnh và bổ sung: 1800, lập ra 5 điều khoản đầu tiên, sau bổ sung các khoảng 6-14; năm 1801, lập thêm 14 khoản (được Trịnh Hoài Đức chuẩn duyệt năm 18221) và năm 1823, lập thêm 6 khoản nữa. Điều này đã chỉ ra, hương ước của Minh Hương xã là những quy định luôn sát hợp với tình hình phát triển của làng này cũng như những hiện tượng văn hóa xã hội mới phát sinh. Cái mốc thời giant u chỉnh và bổ sung cho ta nhiều thông tin liên quan đến tốc độ thay đổi của một làng ở xứ đô hội Sài Gòn xưa. Đó là một khía cạnh, còn nội dung các điều khoản là những tư liệu giúp chúng ta dựng lại bức tranh toàn cảnh của làng Minh Hương thời trước, tìm hiểu về diện mạo và cơ cấu văn hóa Minh Hương, cũng như những vấn đề liên quan đến đất Sài Gòn xưa, đến cộng đồng người Hoa cố cựu nhất ở phương Nam và đặc biệt, bản hương ước này sẽ góp thêm cơ sở khoa học để tham khảo cho việc xây dựng những quy ước làng xã trong điều kiện nay, nhất là những chuẩn tắc chung cho quan hệ giữa dân làng. Chẳng hạn như quan niệm về đạo lý sống chung trong cộng đồng:
“Chúng tôi thường nghe: Muốn quy tụ cho đông đảo thù phải xử sự cho vuống tròn; người đời phải biết xử sự hòa nhã thì mới quý. Đông là nhờ biết quấy mà khuyên lẫn nhau. Hòa là biết lỗi phải sửa mình ngay, ấy là nhờ biết điều vậy. Gần làng xóm phải lấy lễ làm trọng, biết cung kính người chức cao, tuổi lớn. Làm lớn không nên kiêu căng, bậc nhỏ không nên ngang đầu, cứng cổ...biết xét mình, biết thường người mới gọi là thuần phong mỹ tục...”
“Hương ước nghĩ rằng: từ loài cầm thú đến vật nhỏ nhen đều dìu dắt nhau đi, kiếm được mồi kêu nhau chia...huống chi là người có tánh linh hơn muôn vật mà không dùng nghĩa đặng giao thiệp nhau, không dùng nhơn đặng giúp đỡ nhau. Bốn biển đều là an hem, tuy khác ý nhau mà còn có khi giúp đỡ nhau được, há không yêu thương nhau. Cái chủ tâm đó ai ai cũng có vậy nên lập ra cái hương ước này”.
“Phàm chúng ta là người một làng, nếu có Quan, Hôn, Tang, Tế phải gắn sức đồng lòng giúp đỡ nhau, bất luận là có tiền hay không có tiền. Ấy là tùy gia vô hữu, không hại chi mà ngại, đừng phân biệt sang hèn hay giàu nghèo mà nghi kỵ nhau, lám mất chỗ lễ nghĩa đi, còn đây là thuần phong mỹ tục thì có vui vẻ gì. Hãy cố gắng làm theo điều ước này”
“Chúng ta đều con một nhà, chẳng khác nào cây đường cây đệ giao cành nhau thì phải trong nhau, thân thích ruột rà; vinh đồng hưởng, nhục đồng lo. Vì vậy nên trong làng mình bất luận người lớn kẻ nhỏ, hoặc dân trong lòng, hễ có chuyện chi bất bình nhau thì phải cáo minh cho làng biết rõ đặng giải quyết dùm cho, chớ đừng đi làng khác kiện thưa nhau, làm cho nhục nhã mất hết thể thống của làng thì ấy khó dung”.
Nói chung, nếp sống phong hóa của làng Minh Hương được đặt nền tảng trên những châm qui rõ rang bên cạnh những qui định về trách nhiệm, lề lối làm viêc, nguyên tắc thu chi tiền bạc công và sử dụng tài sản của làng, đình, của các chức việc lớn nhỏ khá tường tận. Do vậy, không phải ngẩu nhiên làng Minh Hương đã trở thành chuẩn mực, khuôn mẫu một thời.
Minh Hương xã/làng Minh Hương do đặc điểm riêng của nó mà nổi bật là nó không phải là một làng nông thôn nông nghiệp, lại nằm ở trung tâm xứ đô hội, sát Sài Gòn phố thị - nơi hoạt động công thương nghiệp và dịch vụ phát triển cao, biến động liên tục. Mặt khác, dân cư có phần tứ tán, không cư ngụ tập trung như cố kết dân cư ở các làng thôn nơi thôn dã. Nền tảng cộng đồng của nó đặt nền tảng, trên yếu tố chung về huyết thống, dòng họ và văn hóa. Do đó, sự bảo tồn cộng đồng về sau này, khi làng bị xóa sổ dưới sự cải cách hánh chính của chính quyền thuộc địa, chủ yếu là ở nổ lực duy trì các tập tục văn hóa – tín ngưỡng đã xác lập thành truyền thống. Chính vì vậy, đình Minh Hương – Gia Thạnh là biểu tượng hơn lúc nào hết, cần được bảo quản nghiêm cẩn; đó là nơi trở về khi lớp con cháu muốn “trở về nguồn”, muốn tìm lại quá khứ của tổ tiên. Đó là lý do khiến ngôi đình này được chăm chút, trùng tu nhiều lần và mặc dù sửa chữa lắm bận như vậy, nhưng bên trong của nó vẫn được bảo thủ một cách cố ý những nội dung thờ tự, những hiện vật cổ xưa: các bức đại tự, các câu đối, các bài vị sơn thiếp, các khám thơ...nó vẫn giữ được cái dáng vẻ của ngôi đình Minh Hương. Mặc dù theo thức kiến trúc “nội công ngoại quốc”, nhưng có phần không giống các chùa Ông, chùa Bà vì cái sân thiên tỉnh thay vì ở trước chính điện thì lại đưa ra sau, phía trước có võ ca (để hát bội/hát chầu), ba gian hai chái không khác với kiểu kiến trúc đình làng Nam bộ. Kiểu thức kiến trúc này cùng hòa trộn kiến thức kiến trúc đền miếu Hoa và đình Việt. Nói chung, nó cũng rất là Minh Hương.
Nguồn: my.opera.com