Để giải mã câu tục ngữ, đầu tiên xin bàn đến hình ảnh con trâu và con ngựa trong văn hóa Việt Nam và phương Đông .
Hơn ai hết, người Việt Nam luôn dành tình cảm hết sức đặc biệt đối với con trâu thân thuộc. Vào thời kỹ thuật canh nông còn lạc hậu, ở đâu có ruộng, ở đó có trâu. Việt Nam, Đông Nam Á, Nam Trung Hoa xưa vốn là chiếc nôi của nông nghiệp lúa nước, nơi con trâu được thuần dưỡng rất sớm trong lịch sử canh nông. Chính ở điểm này, con trâu tìm thấy chỗ đứng khá vững chắc của mình.
Đối với một người Việt Nam truyền thống, trong đời người ngắn ngủi phải thực hiện được ba việc lớn, gồm tậu trâu, cưới vợ và làm nhà. Con trâu là một thứ gia sản sống, một thứ tài sản biết đẻ ra các tài sản khác. Bởi thế có câu “con trâu là đầu cơ nghiệp”. Hơn cả một thứ tài sản, con trâu còn là “người bạn” thân thiết của nhà nông, “người bạn” luôn lắng nghe, chia sẻ số phận thăng trầm của họ. Và đây là lời nhắn nhủ đầy tình thương của một anh nông dân đối với “người bạn” của mình:
“Trâu ơi ta bảo trâu này, Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta
Cấy cày vốn nghiệp nông gia, Ta đây trâu đấy ai mà quản công”
Và với sức lao động của mình, con trâu được động viên:
“Chừng nào cây lúa còn bông, Thì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn”
Đó cũng là lý do con trâu góp mặt trong câu chuyện tình đầy cảm động Chàng Ngưu ả Chức, trong tên gọi của những cơn mưa rả rích ngày hè - mưa Ngâu (Ngâu, ngưu, sửu là biến âm của cùng một từ chỉ con trâu phương Nam).
Tương tự, người Việt Nam ta còn mượn hình ảnh con trâu làm chất liệu để đúc kết thành nhiều bài học quý giá ở đời qua các tục ngữ cổ như “Trâu ta ăn cỏ đồng ta”, “Ruộng sâu trâu nái không bằng con gái đầu lòng”, “Trâu chậm uống nước đục”, “Trâu buộc ghét trâu ăn”,“Mua trâu xem vó, lấy vợ xem nòi”, “Không có trâu bắt bò cày”v.v..
Con trâu còn được hiểu là biểu tượng của sự chân chất, hiền hòa. Câu chuyện 12 con giáp từ kể rằng theo lời Thượng đế con vật nào đến trước sẽ được chọn trước, trâu đã ra đi từ hừng sáng, song vì quá hiền lành đã để con chuột láu lỉnh ngồi lên lưng mình và cuối cùng chuột đã phóng về đích trước. Và thế là trâu đành phải chấp nhận vị trí thứ hai, sau tý là đến sửu…
Có một thực tế rằng trong tâm thức dân gian Việt Nam trâu có vị thế cao hơn bò. Bò tuy nhanh nhẹn hơn, song không thể giúp nhiều công việc đồng áng bằng trâu. Trong câu chuyện Thằng Bờm, chiếc quạt mo đã được ra giá bằng “ba bò chín trâu” (bò chỉ có ba mà trâu lại đến chín). Trâu nhiều thì lúa gạo sẽ nhiều, của cải nhiều, đời sống trở nên thịnh vượng. Vì thế, khi gả con hay cho con cái ra riêng nhiều gia đình tặng trâu làm của hồi môn. Tương tự, trong dãy địa chi (12 con giáp), sửu được cụ thể hóa thành trâu chứ không phải bò như ở các nước Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên.
Trong bối cảnh hiện đại, khi mà máy móc đã thay thế dần sức cày, hình ảnh con trâu dần vắng bóng. Dù vậy, con trâu vẫn bàng bạc trong tâm thức mỗi người con đất Việt. Ở đâu đó trong tâm tưởng, bức tranh Đông Hồ “Mục đồng” vẫn gợi cho chúng ta những ký ức hồn nhiên thời thơ ấu. Ở đâu đó trong những trang sách, tiếng bì bõm của lũ trâu đen vẫn vọng về trong mùa len trâu vùng nước nổi. Và vẫn còn đó trong những địa danh quen thuộc, là Bến Nghé (Tp. Hồ Chí Minh), là Trâu Quỳ (Hà Nội), là Đa Ngưu, Trâu Đằm (Bắc Ninh)v.v.; vẫn còn đó âm sắc rộn ràng của hội chọi trâu Đồ Sơn như trong câu thơ:
"Dù ai buôn đâu, bán đâu, Mồng chín tháng tám chọi trâu thì về
Dù ai bận rộn trăm bề, Mồng chín tháng tám nhớ về chọi trâu"
Tương tự, vẫn còn đó tục tạ ơn trâu (14/7 âm lịch) và cúng vía trâu của người Thái Tây Bắc; còn đó lễ hội xuống đồng người Việt, người Tày, người Nùng; lễ hội đâm trâu Tây Nguyên v.v.. Rồi trâu được chọn làm biểu tượng của SEAGAMES 22 (2003), làm đối tượng không thể bỏ qua được của nhiều ngòi bút trong văn học đương đại như Sơn Nam, Nguyễn Ngọc Tư v.v..
Giống với Việt Nam, nhiều dân tộc Đông Nam Á khác cũng trân trọng con trâu. Người Minang Kabau (Indonesia) vốn rất nổi tiếng với lối kiến trúc có hai đầu chóp dựng đứng cao vút như những chiếc sừng trâu kiêu hãnh. Người Toraja (Indonesia) dùng gỗ đẽo thành đầu trâu và thờ cúng trong nhà. Đây đó trên những cánh đồng Dayak (đảo Borneo), Ifugao (Philippine), đông bắc Thái Lan, bán đảo Lôi Châu (Trung Quốc) v.v.. những con trâu vẫn đang miệt mài một nắng hai sương cùng với những người nông dân chân chất. Người Hmong (Miêu) tại Nam Trung Quốc và Đông Nam Á vẫn còn tôn thờ vị thủy tổ Si Vưu đầu có hai sừng trâu của mình.
Đó là trâu, còn ngựa? Trong câu tục ngữ “ngưu tầm ngưu, mã tầm mã” có tính đến mối quan hệ văn hóa giữa Việt Nam và phương Bắc.
So với phương Nam, phương Bắc vốn xuất phát từ nền văn minh du mục và nông nghiệp cạn, người ta chưa cần đến sức trâu cày cấy. Chính vì thế con trâu được gọi tên chung với con bò (ngưu), chỉ khác ở chỗ là nó gắn thêm từ nước ở phía trước để phân biệt (thủy ngưu). Thay vào đó, những cuộc di chuyển trên thảo nguyên bao la hay trên những con đường thiên lý đòi hỏi họ phải quý trọng con ngựa (sau đến là con lạc đà). “Nam di chu, Bắc di mã” (người phương Nam di chuyển bằng thuyền, người phương Bắc di chuyển bằng ngựa) là một minh chứng sống động nhất. Ắt vì thế, người phương Bắc dùng nhiều mỹ từ để diễn tả con vật của mình, nào là “tuấn mã”, nào là “kim mã”, “long mã” và gắn ngựa với ý nghĩa may mắn: “mã đáo thành công”. Khi xử lý một tên tội đồ, người ta dùng chiêu “tứ mã phanh thây”. Khi nói về kinh nghiệm đường đời, họ nói “Lão mã thức đồ” (Ngựa già biết rõ đường đi lối về) v.v.. Trong các chuyến buôn trà giữa vùng Vân Nam đầy hiểm trở ra với thế giới, người ta đánh hàng trên lưng ngựa, vượt muôn trùng không gian và thời gian để lại tên gọi “Trà mã cổ đạo” lưu danh thiên cổ.
Cần biết rằng, người Trung Hoa không nói “ngưu tầm ngưu, mã tầm mã”. Thay vào đó, họ sử dụng ngựa và bò để kết thành các thành ngữ, tục ngữ khác, chẳng hạn “tác ngưu đương mã” (“làm thân ngựa bò”, tương đương với câu “làm thân trâu ngựa” ở Việt Nam), “kỵ ngưu ôn mã” (cưỡi bò đòi chăn ngựa = đứng núi này trông núi nọ), “hô ngưu hô mã” (cho là bò cũng được, cho là ngựa cũng đươc = mắng, khen tùy ý), “đồng ngưu giác mã” (bò không sừng nhưng ngựa mọc sừng = điều trái lẽ thường), “thổ ngưu mộc mã” (bò đất ngựa gỗ=điều không có thực), “kỵ ngưu tầm mã” (cưỡi bò tìm ngựa=truy xét ngọn nguồn sự việc), “ngưu canh điền, mã thực cốc” (bò cày ruộng còn ngựa ăn thóc=người này làm cho người khác ăn) hoặc “ngưu thực thảo, mã thực cốc” (bò ăn cỏ còn ngựa ăn thóc = đãi ngộ không công bằng) v.v.. Trong tất cả tình huống, đối với họ, con ngựa mới là vật được mong đợi, quý trọng; ngược lại còn bò luôn chịu phần thua thiệt. Hơn nữa, giả sử “ngưu” là trâu đi nữa thì họ “cưỡi trâu” đi “tìm ngựa”, “chăn ngựa”, chứ không phải cưỡi ngựa đi tìm trâu! Trên thực tế, người ta vẫn thi thoảng nhìn thấy trâu cày ruộng ở các vùng miền nông nghiệp lúa nước cực nam Trung Quốc, song nó không mang ý nghĩa văn hóa sâu đậm bằng ngựa.
Trở lại với tục ngữ “ngưu tầm ngưu mã tầm mã”, có lẽ bắt đầu từ ý thức phân biệt “ta” và “họ” nói trên, tổ tiên ta mượn các từ Hán Việt để tạo tục ngữ, qua đó gửi gắm một kinh nghiệm sống: người có cùng sở thích, nguyện vọng thường hay tìm đến với nhau. Cũng chẳng biết tự bao giờ, sự pha trộn giữa trâu và ngựa bị gán cho một ý nghĩa tiêu cực: đầu trâu mặt ngựa. Ban đầu, thành ngữ này dùng để chỉ ý nghĩa trắng – đen không phân minh, lâu dần chuyển thành phường lưu manh vô lại. Cũng có ý cho rằng thành ngữ này xuất phát từ hai tướng quỷ Ngưu Đầu – Mã Diện dưới thập điện Diêm cung trong truyền thuyết Đạo giáo. Dù thế nào đi nữa, các ý nghĩa này xuất hiện muộn, không thể hiện được nội dung đích thực của “ngưu tầm ngưu, mã tầm mã” trong cách nói của người Việt.
Dẫu biết, chim cùng màu lông sẽ bay chung một đàn, kiến cùng loài sẽ tha chung mồi về tổ, song cần phải chấp nhận một thực tế rằng khi đất nước mở cửa giao lưu với thế giới, chúng ta phải tự điều chỉnh chính mình để hòa vào dòng chảy chung của thời cuộc. Lấy một ví dụ cụ thể, một diễn đàn gần đây bình luận rằng người Việt Nam ít nói cảm ơm, xin lỗi. Có ý kiến cho rằng người Việt quen diễn tả tình cảm bằng tấm lòng chứ không bằng câu chữ. Điều đó đúng, nhưng nó đã không còn phù hợp nữa. Vậy tại sao chúng ta không làm theo lời dạy của ông bà từ ngàn xưa để lại: “Đi với Bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy”!.
Chẳng phải bằng cách này ta vừa bước ra với thế giới, vẫn vừa đảm bảo “ngưu tầm ngưu, mã tầm mã” đấy sao?