- Từ các định nghĩa đã có…
Theo từ điển Tiếng Việt do Văn Tân chủ biên (1977) thì“chửi là dùng lời độc ác và thô tục nói phạm đến người khác”, còn theo từ điển Tiếng việt do Hoàng Phê chủ biên (1992) thì chửi là “thốt ra những lời cay độc để làm nhục cho hả giận”. Còn Từ điển American Heritage® Dictionary of the English Language, Fourth Edition coi chửi (vituperate) là động từ chỉ việc quở trách hay chỉ trích gay gắt hoặc quá mức, trách móc; hay là việc sử dụng ngôn ngữ gay gắt, chửi rủa om sòm. Nguyễn Thị Tuyết Ngân trong bài viết “Đặc trưng ngôn ngữ văn hoá trong các lối chửi của người Việt” đã định nghĩa khái niệm này tương đối rõ nét và mang tính khoa học :“Chửi là một hiện tượng văn hóa ngôn từ phản chuẩn bày tỏ một cách chủ động phản ứng bất bình nhằm làm giảm căng thẳng tinh thần của người chửi và hạ uy tín của người bị chửi” [Nguyễn Thị Tuyết Ngân 1993: 32].
Số lượng các từ ngữ với nghĩa là “chửi” trong các ngôn ngữ thường khá phong phú. Với các ngôn ngữ phương Tây, trong tiếng Anh có: scold, revile, berate, rail, chide, upbraid, reprove, reproach, ballyrag, vituperate, bullyrag, clapperclaw, objurgate, abuse...; trong tiếng Nga có: ругать, ругаться, бранить, браниться, поругать, распекать, поносить, оскорблять, бранить, ругать, ругаться, ревизовать... Trong một số ngôn ngữ phương Đông, số lượng từ với nghĩa ‘chửi’ phong phú hơn hẳn. Chẳng hạn, tiếng Trung có: 骂 (mạ), 诟 (cấu), 呵 (kha), 诃 (kha), 谴 (khiển), 詈 (lị), 呲 (tử), 僝僽 (sàn sậu), 叱喝 (sất kha), 叱骂 (sất mạ), 唾骂 (thóa mạ), 喝斥 (hát xích), 嘲诟 (trào cấu), 嚷骂 (nhưỡng mạ), 大骂 (đại mạ), 嫚骂 (man mạ), 怒叱 (nộ sất), 怒骂 (nộ mạ), 斥骂 (xích mạ), 毁讟 (huỷ độc), 毒骂 (độc mạ), 海骂 (hải mạ), 痛诋 (thống để), 痛骂 (thống mạ), 苛责 (hà trách), 呵骂 (kha mạ), 诃詈 (kha mạ), 诃咄 (kha đốt), 诃谴 (kha khiển), 诋排 (để bài), 诋毁 (để huỷ), 诋訾 (để tư), 诋谤 (để báng), 诟谇 (cấu toái), 谇骂 (toái mạ), 谤骂 (báng mạ), 谩骂 (mạn mạ), 谴何 (khiển hà), 谴呵 (khiển kha), 谴诃 (khiển kha), 责骂 (trách mạ), 贬辱 (biếm nhục), 造谤 (tạo báng), 骂街 (mạ giai), 骂詈 (mạ lị)... Trong tiếng Việt, nếu nhóm theo hình thức thì có: chửi thề, chửi tục, chửi cha, chửi xéo, chửi bới, chửi móc, chửi leo, chửi đổng, chửi phong long…; nhóm theo nội dung, mức độ thì có: chửi mắng, chửi bới, chửi độc, chửi thề, chửi đổng, trách mắng, quát mắng, quát tháo, nhục mạ, lăng mạ, mắng nhiếc, mắng chửi, sỉ nhục, sỉ vả, bài xích, báng bổ, nguyền rủa, hạ nhục, làm nhục, phỉ báng...; nhóm theo tính chất thì có: chửi té khói, chửi không kịp vuốt mặt, chửi như vãi trấu, chửi như tát nước (vào mặt), chửi tưới hột sen, chửi tá lả, chửi tá lả bùng binh, chửi búa xua, chửi tứ tung, chửi tùm lum tà la, chửi sa sả, chửi cho tắt đài, chửi thẳng vào mặt, chửi sủi bọt mép, chửi như hát, v.v…
Số lượng từ vựng dồi dào như vậy chứng tỏ việc chửi khá phổ biến và rất đa dạng ở Việt Nam và một số dân tộc phương Đông. Không có gì đáng ngạc nhiên khi hầu hết các học giả đều đồng ý với nhau rằng: người Việt chửi nhiều, không những thế, một số người còn nói thêm: người Việt không những chửi nhiều mà còn chửi hay. Trần Ngọc Thêm đánh giá rằng người Việt Nam có một nghệ thuật chửi độc nhất vô nhị mà không có dân tộc nào trên thế giới có được [Trần Ngọc Thêm 2013: 290]. Còn Võ Phiến thì xem chửi chính là một biểu hiện đặc sắc của dân tộc tính Việt Nam, điều này được nói đến trong hai bài viết đăng trên tạp chí Bách Khoa năm 1968 là “Chửi” và “Từ chuyện chửi tục”. Trong bài viết Nghệ thuật chửi móc đăng trên baomoi.com, Anh Tú còn cho rằng: “Chửi móc, nói móc mới là nghệ thuật cao nhất của chửi, khiến người nghe phải phát điên và có khi uất quá mà chết” [Anh Tú 2010].
Theo các nhà nghiên cứu tâm lý, chửi rủa là liều thuốc giảm đau công hiệu, giúp chúng ta đối phó với nỗi đau đớn, với những cảm xúc mãnh liệt trong cuộc sống, là cách chống đỡ nhanh chóng và hiệu quả mà rất nhiều người trên thế giới hiện nay đang sử dụng. Bài viết “Chửi thề trước mặt con” của Monica Bielanko, một người mẹ ba con ở Mỹ đã được bình chọn là một trong những chia sẻ nuôi dạy con hay nhất năm 2015. Theo quan điểm của Monica Bielanko, việc xấu xa nhất không phải là việc một đứa trẻ chửi thề, mà là hành vi nhục mạ người khác với những từ ngữ miệt thị mới là hành vi đáng hổ thẹn. Bất kỳ từ ngữ nào cũng có thể trở thành những “từ ngữ xấu xa, độc ác, tục tĩu nếu như bạn sử dụng nó như một vũ khí làm tổn thương người khác” [ Minh Phương 2015].
Chửi đâu chỉ có chửi tục, chửi thề, chửi cũng có khi là một câu “chửi yêu”. Khi bà mẹ miền Bắc bảo con “Cha con đẻ mẹ mày!”; các mệ, các o Huế mắng những đứa trẻ tinh nghịch “Mả cha mi…” thì đó là những lời chất chứa tình yêu thương, sự thân tình âu yếm… Hay như bài chửi mất gà nổi tiếng của người đàn bà xứ Bắc với lối gieo vần bài bản, nhịp nhàng, lên bổng xuống trầm, câu trước nối câu sau…chửi mà như đọc thơ, như ca như tế khiến kẻ trong cuộc nghe tức ói máu mà không làm gì được, còn người ngoài nghe vừa cảm thấy “sướng tai” vì lời chửi đầy chất nhạc, vừa “sướng lòng” bởi người đàn bà ấy đã thay cả làng dạy cho kẻ trộm một bài học thích đáng, vừa “nhẹ tay” khi không nêu đích danh mà chừa con đường thoát cho kẻ trộm, kẻ nào lỡ dại sẽ vì “nhột” mà chừa, còn hơn là bị bêu rếu sỉ nhục trực tiếp giữa bàn dân thiên hạ. Trong lịch sử thơ ca văn chương của dân tộc, không khó để tìm thấy những tình tiết xung đột, những lời văn câu thơ mang tính chửi rủa. Những câu chửi, thơ chửi cho dù có hay không yếu tố tục nhưng trên hết là giá trị nghệ thuật, giá trị biểu trưng mà nó mang lại, đặc biệt là những giá trị nhân sinh mà tác giả đã gửi gắm qua nó. Lời chửi là vũ khí đấu tranh sắc bén của nhà văn, là tiếng lòng uất ức của nhân vật, là sự bất lực trước thời cuộc, thậm chí là tiếng kêu lầm than của một đất nước, một dân tộc… Gạt bỏ sự tục tĩu thông thường, chúng ta sẽ thấy ẩn chứa trong “lịch sử chửi rủa” của một dân tộc, là những khoảng lặng lịch sử cần được nhìn nhận.
Như vậy, có thể thấy trong xã hội ghi nhận sự tồn tại hai luồng quan điểm giữa tính phi giá trị (cho rằng đó là hiện tượng phản chuẩn cần bị xã hội lên án và nghiêm cấm sử dụng) và tính giá trị (công nhận những giá trị về mặt nghệ thuật, giá trị về mặt biểu trưng cho văn hoá dân tộc, giá trị về mặt tâm lý, xã hội…) của hiện tượng, đặc biệt trong văn hoá Việt Nam. Sự tồn tại cả hai quan điểm trên là điều mà các định nghĩa trước đây chưa khái quát được.
2.. … đến phân tích khái niệm
Trong 100 người tham gia khảo sát của chúng tôi về câu hỏi “Bạn hiểu thế nào là chửi?” thì 95% cho rằng chửi là hiện tượng xấu, dùng từ ngữ thô tục, phản cảm gây xúc phạm đến người khác, 5% còn lại thì cho rằng quan niệm từ xưa đến nay đều cho rằng chửi là hành động xấu xa, không nhằm mục đích truyền đạt thông tin mà chỉ gây náo loạn nơi công cộng. Khi nói đến chửi, hầu hết mọi người đều nghĩ ngay đến chửi thề, chửi tục, bị coi là hiện tượng kém văn hoá cần hạn chế và ngăn cấm. Cũng không thể trách việc đánh đồng đó bởi người Việt chửi thề, chửi tục rất nhiều, ở bất kỳ đâu từ cơ quan công quyền, cơ quan nhà nước đến các công ty tư nhân, từ hàng quán vỉa hè đến nhà hàng sang trọng, từ những nơi công cộng đến khu phố văn hóa, thậm chí ngay cả trong gia đình. Đó cũng là lý do khiến hiện tượng này ở Việt Nam bị nhìn nhận một cách phiến diện.
Các cách hiểu đã nêu về khái niệm “chửi” có thể được tổng hợp lại trong bảng 1.
Bảng 1: Tổng hợp các cách hiểu về khái niệm “chửi”
Điểm chung của các định nghĩa trên:
- Tất cả đều cho rằng chửi là một hành động ngôn từ;
- Là một hiện tượng mang tính chủ động;
- Sử dụng những từ mang tính chất “ác ý” : từ thô tục, cay độc, độc ác, phản chuẩn…
- Nhằm hạ nhục, xúc phạm đối tượng cụ thể (3 trong số 4 định nghĩa trên cho rằng chửi có đối tượng cụ thể: Từ điển Văn Tân (cb), Hoàng Phê (cb) và Nguyễn Thị Tuyết Ngân).
Ở các định nghĩa trên vẫn còn tồn tại những vấn đề sau:
Thứ nhất, ngôn ngữ là công cụ giao tiếp chính của con người. Ngôn ngữ được biểu đạt dưới hai hình thức ngôn từ và phi ngôn từ. Ngôn từ bao gồm hai dạng lời nói và văn bản. Nếu hiểu chửi là một hành động sử dụng ngôn từ (như các định nghĩa nói trên) là công cụ chính thì vô hình chung, chúng ta đã bỏ qua một dạng truyền đạt thông tin trong giao tiếp, đó là hình thức phi ngôn từ thuần tuý, được thể hiện qua thái độ, cử chỉ, trang phục, biểu cảm khuôn mặt, chất giọng… (phân biệt với hình thức phi ngôn từ mang tính biểu tượng, nhằm diễn đạt một ý nghĩa nào đó, mang tính ẩn dụ, hoán dụ).
Thứ hai, các định nghĩa trên đều cho rằng nguyên liệu của chửi là các từ ngữ mang tính chất ác ý, độc ác, nguyền rủa nhằm xúc phạm, hạ nhục người khác… điều này đúng nhưng chưa đủ, đó là sự nhìn nhận ở góc độ hẹp. Một lời chửi vẫn có thể được cấu tạo từ những từ ngữ hoàn toàn “trong sáng”, “sạch sẽ”. Điều quan trọng khi nhận định một lời nói hay một câu viết có phải là một câu chửi hay không, yếu tố chính là nội dung chứ không phải là hình thức bên ngoài. Một hành động chửi phải hội đủ những đặc trưng cơ bản của hành động , đồng thời phải được xem xét trong hoàn cảnh và trường hợp cụ thể. Ví dụ: Hai bà hàng xóm chửi nhau, một bà nói: “Tôi không hơi đâu nói với bà, tôi để con tôi ra tiếp chuyện bà”, câu nói này chứa đựng hai hàm ý chửi, nhục mạ: thứ nhất là nghĩa tại ngôn, theo đó bà chỉ ngang hàng với bậc con tôi; thứ hai là nghĩa tình huống, khi thực tế người đàn bà kia không có con, nên câu nói này ngầm có ý chửi bà kia là người “tuyệt tự, vô sinh”, với nền văn hóa coi trọng việc sinh đẻ thì đây là câu chửi rất độc địa, khiến bà kia dù rất tức giận và tủi thân nhưng không làm gì được.
Thứ ba, các định nghĩa trên đều cho rằng mục đích của chửi là xúc phạm, hạ nhục người khác, đây cũng là cách nhìn hẹp, bởi vì nó không thể bao quát được các loại chửi khác như chửi thề, chửi đổng - là lối chửi không có đối tượng cụ thể mà cũng không nhằm xúc phạm hay hạ uy tín cụ thể của một ai. Như vậy, hiểu mục đích của chửi là hạ uy tín, xúc phạm người khác là chưa đầy đủ.
Thứ tư, hầu hết các định nghĩa đều không đề cập đến nguyên nhân xuất phát của hành động chửi chính là sự bất bình, là nguyên nhân cốt lõi khiến chủ thể có những hành động ngôn từ để bày tỏ những cảm xúc tiêu cực đó. Chỉ riêng định nghĩa của Nguyễn Thị Tuyết Ngân khắc phục được hạn chế này. Đây là đặc điểm cần được tiếp thu.
Thứ năm, hầu hết các quan niệm đều cho rằng chửi là một hành động phản chuẩn mực xã hội, bị lên án và nghiêm cấm ở một số quốc gia, nhiều nền văn hoá... vì nó có chứa yếu tố sỉ nhục, xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm người khác. Tuy nhiên, việc xác định một hành động chửi ở mức độ nào thì bị xem là xúc phạm thì còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố, nhiều góc độ.
Về mặt yếu tố: có hai thang đo là “mức độ xúc phạm” của câu chửi và “mức độ cảm thấy nhục nhã” của người bị chửi. Có khi người chửi cảm thấy lời nói đó không xúc phạm nhưng người nghe cảm thấy rất xúc phạm, hoặc người chửi cảm thấy lời nói đó sẽ xúc phạm rất nhiều đến người nghe nhưng người nghe lại cảm thấy không có gì. Điều này rất khó xác định vì nó mang tính chủ quan, để đánh giá chính xác cần phải xem xét ở nhiều yếu tố khác như tính cách, nghề nghiệp, hoàn cảnh nhân thân, tâm lý xã hội… của cả chủ thể lẫn đối tượng. Mặc dù hành vi “nhục mạ người khác bằng lời nói” đã được đưa vào luật nhưng cũng khó khăn trong việc định danh tội lỗi cũng như khung hình phạt xử lý.
Về mặt góc độ: chửi tưởng chừng là một hoạt động của riêng chủ thể và đối tượng, nhưng sẽ là một thiếu sót nếu bỏ qua góc nhìn xã hội. Do không bị tác động trực tiếp của những lời chửi rủa nên góc nhìn xã hội mang tính khách quan hơn khi đánh giá một hành động chửi là đúng hay sai, nên hay không nên. Góc nhìn xã hội còn là góc nhìn quan trọng trong việc nhìn nhận giữa tính giá trị - phi giá trị của một hành động chửi..
3. Định nghĩa khái niệm
3.1 Trên cơ sở những vấn đề còn tồn tại nêu trên, cộng với việc kế thừa và tiếp thu những đặc điểm của hiện tượng từ các quan niệm, định nghĩa đã có, chúng tôi khái quát bốn đặc trưng chính của hiện tượng chửi như sau:
- Chửi là một hành động giao tiếp ngôn từ, có thể có các hình thức phi ngôn từ kèm theo
- Là một hành động mang tính chủ động của chủ thể
- Có nguyên nhân là sự bất bình của chủ thể
- Có mục đích chính là giải tỏa những ẩn ức tâm lý cho chủ thể
Như vậy, có thể định nghĩa hiện tượng chửi như sau: Chửi là một hành động giao tiếp ngôn từ, có thể đi kèm với các hình thức phi ngôn từ, để bày tỏ một cách chủ động phản ứng bất bình, nhằm giải tỏa những ẩn ức về mặt tâm lý cho người chửi.
Chửi là một hành động giao tiếp ngôn từ: Đây là đặc trưng đầu tiên và quan trọng nhất trong việc cấu thành một hành động chửi. Trước hết, đó phải là một hành động giao tiếp, thông tin giao tiếp được truyền đi với chất liệu truyền dẫn chính là ngôn từ. Ngôn từ được biểu đạt bằng lời nói (hữu thanh) và chữ viết (vô thanh). Một hành động chửi có thể có hoặc không có hình thức phi ngôn từ đi kèm. Ở dạng lời nói, hầu hết các trường hợp đều có các hình thức phi ngôn từ đi theo để diễn đạt cảm xúc giận dữ, thái độ bất bình của người chửi. Tuy nhiên, cá biệt cũng có những trường hợp không có hình thức phi ngôn từ đi kèm (ví dụ: trường hợp những người lạnh lùng, hoặc người không muốn thể hiện cảm xúc…). Ở dạng văn bản, hình thức phi ngôn từ ít được thể hiện hơn dạng lời nói, tuy nó có thể được miêu tả cụ thể bằng lời, ví dụ: "Giận quá, tôi đưa tay lên miệng làm loa thét: -Con c.!" (Nguyễn Quang Sáng): ở đây hình thức phi ngôn từ được miêu tả cụ thể bằng cụm từ “giận quá” thể hiện cảm xúc, thái độ của chủ thể.
Chửi mang tính chủ động, tức là một hành động do chính chủ thể tự giác lựa chọn thực hiện một cách có ý thức. Trong cuộc sống có nhiều cách để bày tỏ sự bất bình, giải tỏa cảm xúc… như khóc, la, cãi nhau, đánh nhau, đập phá đồ đạc… việc lựa chọn chửi hay không hoàn toàn do chủ thể tự quyết định.
Nguyên nhân gây ra hiện tượng chửi là sự bất bình của chủ thể, dễ nhận thấy nhất đó là những cảm xúc tiêu cực như giận dữ, phẫn nộ, tổn thương, đau đớn… Thực tế vốn dĩ phức tạp và nhiều va chạm mà không ai trong chúng ta có thể tránh khỏi, cho nên nguyên nhân của sự bất bình cũng rất đa dạng và phức tạp. Một lời nói cho dù hội đủ các đặc trưng của hiện tượng chửi nhưng có nguyên nhân xuất phát không phải từ sự bất bình thì lời nói đó cũng không được xem là một lời chửi.
Mục đích của hiện tượng chửi là giải tỏa những ẩn ức tâm lý của người chửi. Ẩn ức là những ức chế tồn tại bên trong chúng ta. Trong cuộc sống, không phải vấn đề gì cũng có thể giải tỏa, con người với nhiều mối quan hệ phức tạp của mình khiến họ phải kiềm chế một cách vô thức hoặc hữu thức. Tựu trung lại, ẩn ức có thể chia làm hai dạng chính: ẩn ức sinh lý và ẩn ức tâm lý. Ẩn ức sinh lý là những ức chế về mặt sinh lý, tức ức chế tự nhiên của cơ thể, hình thành, tồn tại và giải tỏa không phụ thuộc vào sự điều khiển của ý thức con người. Trong khi đó, ẩn ức tâm lý là những ẩn ức được tạo thành do ý thức, suy nghĩ, quan niệm của con người, chịu sự chi phối của não bộ, chịu sự cấm đoán của những cấm kỵ, quan niệm của xã hội nên con người phải hạn chế và kiềm nén bản thân.
Ẩn ức tâm lý cũng có liên quan đến sinh lý, đó là những ẩn ức liên quan đến tính dục và bài tiết. Ví dụ: Khi xã hội xuất hiện sự cấm kỵ về “cái tục” thì việc nói tục, chửi thề, chửi tục liên quan đến tính dục, bài tiết chính là sự giải tỏa ẩn ức tâm lý bị xã hội kiềm hãm và thể hiện mong muốn được “phá cấm”. Trong môi trường bị kiềm chế, khi có cơ hội được nói tục, văng tục, họ cảm thấy “sảng khoái”, “thích thú”, là cách giải tỏa tinh thần nhanh chóng và trực tiếp. Tuy nhiên, sự giải tỏa này cũng có giới hạn của nó, đó là sự kiểm soát về mặt không gian (hạn chế ở những nơi công cộng, những môi trường xa lạ…), kiểm soát vể mặt chủ thể (chỉ khi nào giận dữ, bất bình mới phát ra những lời chửi rủa…), kiểm soát về mặt thời gian (tuổi tác, chế độ chính trị…). Vì mục đích chính là giải tỏa ẩn ức của bản thân chủ thể, nên chửi là hành động có hoặc không có đối tượng chửi cụ thể, cũng như có hoặc không có mục đích hạ uy tín, xúc phạm đối tượng, mà chuyện có hay không phụ thuộc hoàn toàn vào nguyên nhân gây ra ẩn ức.
3.2 Do số lượng từ ngữ trong tiếng Việt dùng để chỉ việc chửi và ám chỉ việc chửi rất đa dạng và phong phú, cho nên việc nhầm lẫn, quan niệm sai về các khái niệm là phổ biến trong cộng đồng. Những đặc trưng trên đây giúp chúng ta khu biệt, phân biệt hiện tượng với những khái niệm dễ gây nhầm lẫn như nói tục - văng tục - chửi tục; chửi thề - chửi tục; chửi - mắng…
3.2.1 Nói tục – văng tục - chửi tục: Từ tục theo nghĩa rộng bao gồm cái tục trong tính dục (dâm tục), cái dơ bẩn trong bài tiết và trong mối quan hệ giáng cấp (mạo phạm, bất kính, vô lễ, chuyển đổi vai vế với súc vật…) [Trần Duy Khương 2008: 26]. Theo Từ điển Tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên năm 1998, từ “tục” được giải thích là từ mang nghĩa “thô bỉ, tỏ ra thiếu lịch sự, thiếu văn hoá” , thường bị hạn chế và cấm cản trong các hoạt động giao tiếp. Như vậy, các khái niệm như nói tục – văng tục – chửi tục trước hết phải là những hiện tượng sử dụng từ tục làm chất liệu diễn đạt chính.
Nói tục: đây là hành động giao tiếp sử dụng ngôn từ tục, mang tính chủ động, được thực hiện trong môi trường thân thuộc, nhằm mục đích tìm kiếm cảm giác thích thú từ việc “phá cấm” những chuẩn mực xã hội trong việc sử dụng ngôn từ tục, là cách giải tỏa những ẩn ức tính dục khi bị xã hội cấm kỵ.“…người ta sẽ dùng đến từ ngữ phi chính thống nếu trong tư duy của họ xuất hiện sự khao khát muốn tìm lại lạc thú từ việc vi phạm cấm kỵ” [Trần Duy Khương 2008: 29]. Môi trường hoạt động của nói tục là môi trường quen thuộc như bạn bè hoặc những người có cùng sở thích nói tục, còn trong môi trường xã giao công khai, người ta rất ít, hiếm khi dùng vì e dè người khác sẽ đánh giá xấu về mình hoặc nghi ngờ mục đích phát ngôn của mình. Tất nhiên, việc kiểm soát điều này ở mỗi người lại khác nhau, phụ thuộc vào nhiều yếu tố như trình độ học vấn, khả năng kiểm soát suy nghĩ, trạng thái cảm xúc, môi trường sinh sống… Nói tục được thể hiện qua những câu chuyện tiếu lâm, những hình thức diễn tục dân gian như ca dao, tục ngữ, phong dao, đố tục giảng thanh, nói lái, nói trại, các bài hát hội hè…
Văng tục: Ở khía cạnh từ vựng, từ văng thể hiện một hành động bộc phát (vô thức, bị động) vuột miệng nói ra lời nào đó khi chưa kịp suy nghĩ như văng bậy, văng chữ văng nghĩa… Văng tục phân biệt với nói tục ở tính chủ động, mục đích sử dụng và môi trường hoạt động. Trạng thái văng tục là trạng thái bị động của chủ thể, khi hành động sử dụng từ tục lâu dài đã trở thành thói quen và được chủ thể sử dụng một cách vô thức không phân biệt bất cứ môi trường nào, mục đích nhằm nhấn mạnh trạng thái tình cảm, lập trường. Ví dụ: “Đ.mẹ, thằng này đá hay quá!” (cảm xúc phấn khích khi xem đá banh).
Chửi tục: Đây là hành động giao tiếp sử dụng ngôn từ tục để bày tỏ một cách chủ động phản ứng bất bình đối với một đối tượng cụ thể, nhằm giải tỏa những ẩn ức tâm lý của người chửi. Ví dụ: “Đ.mẹ, mày có tin tao đào cả mồ mả nhà mày lên mà đái vào không?”.
Cả ba loại trên đều có đặc điểm chung là dùng ngôn từ tục làm chất liệu chính. Điểm giống và khác nhau giữa nói tục – văng tục - chửi tục được thể hiện ở bảng 2.
Bảng 2: So sánh các khái niệm nói tục, văng tục, chửi tục
Đối tượng được nói đến trong tiêu chí “Có đối tượng cụ thể hay không” là đối tượng mà hành động chửi nhắm đến. Điều này liên quan đến mục đích chính của hành động, ở nói tục, mục đích chính là chủ thể tìm thấy sự thích thú khi “phá cấm” những rào cản của xã hội về việc sử dụng ngôn từ tục, mục đích của hành động nói tục không nhắm vào bất kỳ một đối tượng cụ thể nào khác, mặc dù trong những câu chuyện tục có đối tượng cụ thể. Tương tục, văng tục cũng là hành động mà chủ thể sử dụng khi muốn nhấn mạnh lập trường, là cách thể hiện trạng thái tình cảm của họ một cách mạnh mẽ hơn mức bình thường, cho nên văng tục cũng không nhắm đến đối tượng cụ thể nào. Ngược lại, chửi tục có nguyên nhân từ sự bất bình gây ra bởi một người nào đó
Dựa vào bảng 2, ta có thể thấy:
Văng tục phân biệt với nói tục ở tính chủ động, mục đích sử dụng và môi trường hoạt động.
Văng tục phân biệt với chửi tục ở tính chủ động, nguyên nhân (sự bất bình), mục đích hành động và đối tượng.
Nói tục phân biệt với chửi tục ở nguyên nhân, mục đích và đối tượng.
3.2.2. Chửi thề - chửi tục: đều là hai hình thức của chửi, ngoài những đặc trưng cơ bản của hiện tượng, chúng còn có những đặc điểm riêng.
Chửi thề là hiện tượng chửi sử dụng ngôn từ tục một cách chủ động (như chửi tục) nhưng được thực hiện khi chủ thể đang cần giải tỏa cảm xúc tiêu cực ngay lập tức. Chửi thề là cách giải tỏa cảm xúc tiêu cực tự thân trước những sự việc không như ý trong cuộc sống (khó khăn, trở ngại, vấp váp, bất mãn…) và do đó, lời chửi thề không nhằm xúc phạm cụ thể người nào (không có đối tượng chửi cụ thể). Ví dụ:
- Mẹ kiếp, không biết số vũ khí sát thương hàng loạt ấy rốt cuộc đi đâu nhỉ? (George W.Bush)
- Đ.má, sao bài này khó dữ vậy!
- Giận quá, tôi đưa tay lên làm loa thét: - Con cặc! (Nguyễn Quang Sáng. Một chuyện vui)
Trong xã hội, văng tục và chửi thề là hai khái niệm tưởng chừng như tương đồng với nhau. Tuy nhiên, sự khác biệt trong việc định danh cũng đã thể hiện ít nhiều sự khác biệt về bản chất giữa hai khái niệm này.
Sự khác biệt giữa ba khái niệm Văng tục - Chửi thề - Chửi tục được tóm tắt trong bảng 3.
Bảng 3: So sánh các khái niệm văng tục, chửi thề, chửi tục
Như vậy, chửi thề phân biệt với chửi tục ở việc có hay không có đối tượng chửi cụ thể cũng như có xúc phạm đến người khác hay không, còn văng tục phân biệt với chửi thề ở tính chủ động và mục đích sử dụng.
3.2.3 Mắng và Chửi: đây là hai khái niệm cũng thường xuyên bị quan niệm sai và gây nhầm lẫn nhiều trong xã hội hiện nay.
Mắng là hiện tượng sử dụng ngôn từ để thể hiện phản ứng bất bình với một đối tượng cụ thể có quan hệ thân thiết, nhằm thực hiện chức năng giáo dục (răn đe, chỉnh đốn sai phạm…), thường kèm theo yêu cầu đối tượng không được tiếp tục vi phạm. Hành động mắng chỉ được thực hiện khi chủ thể thực hiện ở cấp bậc cao hơn đối tượng, thường là quan hệ giữa người lớn – người nhỏ (cha mẹ đối với con cái, ông bà đối với cháu, anh chị đối với em…), cấp trên – cấp dưới, thầy cô – học trò…
Hai khái niệm này có thể được phân biệt theo bảng 4.
Bảng 4: So sánh hai khái niệm mắng và chửi
Chửi mắng cũng là khái niệm được sử dụng nhiều trong đời sống hằng ngày, ví dụ như trong câu “cha mẹ có chửi mắng hay đánh đập là vì muốn chúng ta nên người, không học theo thói hư tật xấu”. Đây là một từ ghép gồm hai hành động “chửi” và “mắng”, trong đó, hành động chính là mắng, hay nói cách khác, chửi mắng là một loại mắng (do đó nó có đầy đủ các đặc trưng của hành động mắng), sử dụng những từ ngữ ở cấp độ mạnh (xúc phạm, giáng cấp, hạ nhục… đối tượng), cũng nhằm mục đích chính là giáo dục, răn đe. Tương tự như mắng, chửi mắng cũng được dùng trong những mối quan hệ thân thuộc khi chủ thể là người có cấp bậc cao hơn. Ví dụ:
- Sao mày ngu như heo vậy, bài này chỉ cần học thuộc công thức là làm được, làm lại bài này ngay cho bố!
- Có vậy mà không làm được, sao mày ngu thế hả con!
Mắng yêu, chửi yêu là khái niệm đặc biệt, là hiện tượng giao tiếp có sử dụng ngôn từ tục, từ giáng cấp… nhưng lại nhằm mục đích thể hiện tình cảm yêu thương hoặc, là lời trách cứ nhẹ nhàng của người nói. Chúng ta thường nghe các bà, các mẹ, các chị mắng yêu như “Cha bố cô”, “Mồ tổ cha mày”, “Thằng chó con”… chất chứa tình yêu thương, sự thân tình âu yếm khi mắng những đứa con, đứa cháu… hoặc là lời trách cứ nhẹ nhàng: “Cha mày, tao già rồi ăn gì được mà mua lắm thế!”.
4. Kết luận
Như vậy, với sự phân tích và xác định rõ những đặc trưng khu biệt của hiện tượng chửi như đã nêu, chúng ta có thể kết luận rằng chửi không chỉ đơn thuần là một hành động ngôn từ, mà tổng quát hơn đó chính là một hành động giao tiếp sử dụng công cụ chính là ngôn từ có thể đi kèm với phi ngôn từ, nhằm mục đích giải tỏa những ẩn ức tâm lý tiêu cực tồn tại trong con người. Sự có hay không tính chất xúc phạm, thóa mạ người khác phụ thuộc vào nguyên nhân gây ra ẩn ức, chứ bản thân sự xúc phạm không phải là nguyên nhân chính cho sự xuất hiện và tồn tại của hiện tượng. Và do đó, sự tồn tại của một cái gọi là “chửi có văn hoá” là hoàn toàn khả thi khi lời chửi đó đảm bảo các yêu cầu, những thước đo về chuẩn mực văn hoá của một xã hội mà vẫn chứa đựng các điều kiện cần và đủ để cấu thành một hoạt động chửi.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Anh Tú 2010: Nghệ thuật chửi móc, http://www.baomoi.com/Nghe-thuat-chui-moc/104/3722756.epi
- Hoàng Phê (chủ biên) 1992: Từ điển tiếng việt, in lần thứ 2.- Đà Nẵng, Trung tâm Từ điển học.
- Minh Phương 2015: Bà mẹ chửi thề được báo Mỹ bình chọn là cách dạy con hay nhất. -http://giadinh.vnexpress.net/tin-tuc/to-am/ba-me-chui-the-duoc-bao-my-binh-chon-la-cach-day-con-hay-nhat-3334746.html
- Nguyễn Hưng Quốc 2010: Văn hóa chửi đổng. -http://www.voatiengviet.com/content/van-hoa-chui-dong-03-08-2010-86932617/850492.html
- Nguyễn Thị Tuyết Ngân 1993: Đặc trưng ngôn ngữ - văn hoá trong các lối chửi của người Việt. - Tạp chí Ngôn ngữ, số 1, t-38.
- Trần Duy Khương 2008: Hiện tượng sử dụng ngôn từ tục dưới góc nhìn văn hóa học.- Luận văn thạc sĩ văn hóa học (người hướng dẫn: GS.TSKH. Trần Ngọc Thêm), Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - ĐHQG Tp. HCM, 197 tr.
- Trần Ngọc Thêm 2006: Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam. – TP.HCM: NXB Tổng hợp, 670 tr.
- Trần Ngọc Thêm 2013: Những vấn đề Văn hóa học Lý luận và ứng dụng.– TP.HCM: NXB Văn hóa - Nghệ thuật, 675 tr.
- Văn Tân (chủ biên) 1977:Từ điển tiếng Việt, in lần thứ 2. -
- Võ Phiến 1968:Chửi, Tạp chí Bách khoa, Số 271, Tr. 18-24.
- Võ Phiến 1968: Từ chuyện chửi tục, Tạp chí Bách khoa, Số 273, Tr 29-36.
Nguồn: Tạp chí Tử điển học và Bách khoa thư, số 3 (41), tháng 5/2016
Và tác giả