Quan điểm trên tuy diễn tả chính xác tình hình thực tế, song lại mang thành kiến. Nói chung, tìm hiểu một nền văn hóa khác là một công việc không mấy dễ dàng, và càng khó khăn hơn để hiểu một quốc gia rộng lớn và cổ xưa như Trung Quốc. Nếu loại bỏ các thành kiến thì ngành Hán học ở Mỹ đi từ “Hán học truyền thống” đến “Nghiên cứu Trung Quốc hiện đại” thật sự giúp người Mỹ hiểu nhiều điều sâu sắc ẩn chứa bên trong quá trình phát triển của đất nước suốt hơn 200 năm qua.
Khởi điểm của ngành Hán học ở Mỹ bắt đầu từ những năm đầu lập quốc. Theo ghi chép, ngay từ năm 1818, vị Tổng thống thứ ba ở Mỹ Thomas Jefferson (1743-1826)đã rất quan tâm đến “loại ký tự biểu ý” ở Trung Quốc trong một lá thư ông viết gửi bạn mình. Tuy nhiên, sự hiếu kỳ của ông vẫn là sự hiếu kỳ. Vào thời đó khắp nước Mỹ không thể tìm một người da trắng biết nói, viết tiếng Hán!
Nhà truyền giáo chính là những người tiên phong
Cũng giống như quá trình hình thành và phát triển ngành Hán học ở Châu Âu, chính các nhà truyền giáo đi khắp hang cùng ngõ hẻm để truyền bá kinh Phúc âm (Tin lành) đã đặt cơ sở cho ngành Hán học ở Mỹ. Đứng đầu trong số ấy là Elijah Coleman Bridgeman sớm đặt chân đến Trung Quốc vào những năm 30 thế kỷ XIX. Với hy vọng hiểu được đất nước phương Đông huyền bí này, họ đã bắt đầu công việc biên soạn quyển từ điển Hán – Anh, dịch các sách vở kinh điển Trung Quốc.
Hán tự vốn rất phức tạp, phương ngữ lại đa dạng, khó viết, khó học đối với người nước ngoài. Vì vậy, khi các nhà truyền giáo vốn dĩ phải đi sâu vào cuộc sống thường nhật của dân chúng để thực hiện công việc của mình thì khó khăn không phải là ít. Lúc ấy, cuốn Tự điển xuyết âm Trung văn (中文缀音字典) bằng tiếng phổ thông Bắc Kinh có kèm phiên âm tiếng Quảng Đông, Phúc Kiến và Thượng Hải được xem như một công cụ hữu ích đối với họ. Tác giả của cuốn từ điển - Samuel Wells Williams (1812-1884)từ một thợ in của một giáo hội trở thành người làm công tác biên soạn tự điển hơn một thập kỷ và nghiên cứu văn hóa Trung Hoa trong hơn 40 năm - đã trở thành giáo sư người Mỹ đầu tiên về Hán học của Đại học Yale.
Trong thời kì tiếp xúc Trung – Mỹ đầu tiên này còn có rất nhiều những câu chuyện hấp dẫn khác. Chẳng hạn, ngày nay các thư viện Mỹ đang lưu giữ hàng triệu đầu sách Trung Quốc. Một trong các nơi lưu trữ nhiều bộ sách quý giá nhất là Thư viện Quốc hội Mỹ. Bộ sách này có được là do Chính phủ Mỹ chỉ đạo Đại sứ quán Mỹ tại Trung Quốc tiến hành “trao đổi” với triều đình nhà Thanh vào năm 1869. Phía Mỹ tặng cho Thanh triều các loại sách vở, thư tịch phương Tây và các loại giống cây trồng, còn phía Thanh triều cung cấp các tư liệu điều tra dân số mới nhất cho phía Mỹ, song Thanh triều không có nguồn tư liệu này nên để đáp lễ, Thanh triều đã tặng một ngàn bản thư tịch kinh điển cho phía Mỹ. Đây được xem như bộ thư tịch Trung Hoa sớm nhất và có giá trị nhất tại Mỹ.
Liên quan đến Thư viện Quốc hội Mỹ còn có một câu chuyện hấp dẫn khác. Có một chuyên gia nông nghiệp Mỹ chuyên nghiên cứu các loại giống cam ở Mỹ. Một lần nọ chuyên gia này tiến hành nghiên cứu một giống cam đang trồng tại Mỹ. Qua nghiên cứu, ông truy tìm gốc tích của giống cam này đến Mexico, rồi Bồ Đào Nha và cuối cùng ông phát hiện ra rằng nguồn gốc ban đầu chính là ở khu vực ven biển miền Nam Trung Quốc. Ông sang Trung Quốc tiến hành thu thập tư liệu sách vở liên quan đến giống cam này trong 23 năm ròng rã, được hơn 20.000 quyển. Sau đó, ông quyết định về nước với số thư tịch nói trên. Do số thư tịch này cồng kềnh, ông đã quyết định gửi vào Thư viện Quốc hội Mỹ. Thư viện Quốc hội vì bảo đảm rằng bộ sách tư nhân này không bị khai thác quá mức nên đã mua lại bộ sách này, làm phong phú thêm phần thư tịch Trung Hoa tại Thư viện.
Ngành Hán học châu Âu dịch chuyển sang Mỹ
Giống như các ngành khoa học khác, ngành Hán học ở Mỹ thế kỷ XIX non trẻ chỉ là phân nhánh của ngành học thuật Châu Âu. Do vậy, nhiều sinh viên Mỹ đã du học sang châu Âu. Chính các sinh viên này sau khi ra trường cùng với các học giả Mỹ công tác tại châu Âu trở thành lực lượng quan trọng trong việc phát triển ngành Hán học ở Mỹ. Đặc biệt là đến cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, nước Mỹ dần dần thoát khỏi hiện tượng “phụ thuộc” này. Giới khoa học Mỹ chủ động giữ liên lạc với các học giả châu Âu, những người đã từng đến Mỹ giảng dạy hay nghiên cứu, từ đó thúc đẩy ngành học thuật Mỹ phát triển.
Trong thời gian này, học giả người Đức Berhold Laufer sang Mỹ nghiên cứu tại Bảo tàng lịch sử Chicago được xem như một nhà Hán học xuất sắc nhất. Berhold không những là nhà khảo cổ, nhà nhân chủng học, mà còn là một nhà ngôn ngữ học kiệt xuất. Ngoài tiếng Đức, tiếng Anh, ông còn biết các thứ tiếng Trung, Nhật, Mãn, Mông, Tạng, Phạn, Ba Tư, Mã Lai v.v.. Ông đã cống hiến cho nền học thuật rất nhiều các tác phẩm có giá trị, chẳng hạn Đồ gốm Trung Hoa đời Hán; Từ các dụng cụ bằng ngọc nhìn về ngành khảo cổ và tôn giáo Trung Hoa; Trung Hoa và Ba Tư, v.v..
Cùng thời gian này, một số các trường đại học tại Mỹ bắt đầu tổ chức các buổi tọa đàm bằng tiếng Hán. Buổi tọa đàm đầu tiên được tổ chức tại Đại học Yale. Vị diễn giả đầu tiên chính là tác giả của cuốn Tự điển xuyết âm Trung văn - Samuel Wells Williams. Tiếp theo sau, Đại học Harvard và một số trường đại học khác cũng liên tục tổ chức những buổi tọa đàm tương tự.
Ngành Hán học truyền thống theo kiểu thưởng ngoạn
Năm 1901, Đại học Comlumbia tổ chức buổi tọa đàm dành cho giáo sư Đinh Long (丁龙Dean Lung). Liên quan đến sự kiện này có một câu chuyện rất cảm động. Chuyện kể rằng người tổ chức buổi tọa đàm này là ông Horace W. Carpentier, một học sinh cũ của Đại học Columbia. Trong quá trình đi khai thác vàng ở San Francisco, Carpentier lâm vào con đường nghiện rượu, thướng hay gây sự. Một lần nọ, sau khi đã chuốc say, Carpentier bị người khác đánh trọng thương, ngã lăn ra đường. Ngay lúc ấy, một người gốc Trung Hoa tên là Long Đích Ân tức Đinh Long đang thất nghiệp đi lang thang ngang đường. Đinh Long đã mang Carpentier về nhà. Cũng có thể nói là hai người có duyên với nhau, Đinh Long không những trở thành một người giúp việc trung thành mà còn là người bạn thân thiết của Carpentier. Chỉ có điều gã nghiện rượu này ngựa quen đường cũ, hễ uống say rồi thì không còn phân biệt phải trái, thướng xuyên ẩu đã với Đinh Long. Về phía mình, Đinh Long mang Trung Thứ (忠?恕), Tín Nghĩa (信?) của Khổng Tử ra để giảng giải cho Carpentier. Carpentier rất cảm phục người bạn của mình nên đã tự bỏ ra số tiền 100.000 đôla để tổ chức buổi tọa đàm cho Đinh Long tại Đại học Columbia nhằm giới thiệu tư tưởng truyền thống Trung Hoa với công chúng Mỹ. Lúc bấy giờ, một số nhà khoa học châu Âu nổi tiếng như nhà Hán học người Anh Herbert A. Giles, nhà Hán học người Pháp Paul Pelliot v.v. cũng đến tham dự buổi tọa đàm này.
Trở lại vấn đề, cho đến tận thập niên 1930, mặc dù ngành Hán học đã thâm nhập vào “lâu đài khoa học” (学术殿堂) ở các trường đại học Mỹ, song vẫn chưa được quan tâm thật sự. Theo giáo sư Trương Hạo (张灏), Đại học bang Ohio thì trong giai đoạn này các giáo sĩ Tin lành và các học giả châu Âu là lực lượng nghiên cứu Hán học cơ bản nhất. Người phương Tây thời ấy nghiên cứu Trung Hoa cũng chỉ vì truyền giáo, thông thương, mở rộng thuộc địa, hoặc đơn giản chỉ vì xem Trung Hoa là một quốc gia huyền bí, “biệt lập” với thế giới phương Tây, v.v.. Nói chung, người phương Tây thời ấy nghiên cứu Trung Hoa với tâm trạng “thưởng ngoạn cổ vật” và bằng sở thích cá nhân là chính. Cũng vì thế, các nghiên cứu về nghệ thuật, tôn giáo, triết học, văn học và khoa học Trung Quốc của người phương Tây thời ấy mặc dù có giá trị học thuật nhất định song “cái thuộc về Trung Quốc thì quay về với Trung Quốc, cái thuộc về phương Tây thì phương Tây nắm”. Trong cách nhìn về lịch sử của người phương Tây vẫn không có khái niệm “Trung Quốc”, vì thế sự hưng thịnh, suy vong của Trung Quốc cũng không làm các học giả phương Tây thời kì này quan tâm.
Ngành “Nghiên cứu Trung Quốc theo trường phái Mỹ”
Liệu “tâm lý cũ kỹ” này đến khi nào mới có sự biến đổi? Theo nhà nghiên cứu Trương Bằng Viên, thuộc ban Lịch sử cận đại Viện nghiên cứu Trung Quốc thì kể từ sau chiến tranh Nha phiến năm 1842, quan hệ tranh chấp giữa Trung Quốc và các nước phương Tây bắt đầu căng thẳng. Mãi đến khi Chiến tranh Thế giới thứ I nổ ra, Trung Quốc với danh nghĩa thành viên phe Hiệp ước (Hiệp ước quốc) đã chính thức bước ra thế giới, cùng sánh vai với các nước Anh, Pháp, Mỹ. Sau khi Chiến tranh Thế giới thứ II kết thúc, Đảng Cộng sản lên nắm quyền ở Trung Quốc đại lục. Trong suốt 30 năm chiến tranh lạnh Nga – Mỹ, vị thế của Trung Quốc không ngừng được nâng lên trên trường quốc tế, ngành Hán học đi từ một bộ môn khoa học vốn ít ai để ý đã trở thành một ngành khoa học được quan tâm – ngành Nghiên cứu Trung Quốc kiểu Mỹ, nhất là chủ yếu nghiên cứu về các vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội Trung Quốc cận đại tính từ sau Chiến tranh Nha phiến.
Cũng trong khoảng thời gian giữa Chiến tranh Thế giới thứ I và thứ II, tại Mỹ đã bắt đầu xuất hiện nhiều hiệp hội học thuật. Các hiệp hội này không ngừng đổ tiền của, sức lực để bồi dưỡng nhân tài, sưu tầm, thu mua thư tịch, xuất bản các tạp chí khoa học định kì. Còn đối với ngành nhiên cứu Trung Quốc, hàng loạt hiệp hội như thế được thành lập, chẳng hạn Hiệp hội Thái Bình Dương học của Mỹ (美国太平洋学会) thành lập năm 1925; Hiệp hội hợp tác phát triển Hoa-Mỹ华美协进会) thành lập năm 1926; Ủy ban thúc đẩy nghiên cứu Viễn Đông (远东研究促进委员会), cũng chính là tiền thân của Viễn Đông học Hội (远东学会) và Hội Nghiên cứu Châu Á (亚洲研究学会) ngày nay thành lập năm 1928, Học viện Harvard-Yenching thành lập năm 1928 v.v..
Quan trọng không kém so với các hiệp hội học thuật này và các quỹ học bổng như Rockefeller Foundation, Ford Foundation và Carnegie Foundation ở New York đã bắt đầu đầu tư nghiên cứu Đông Á bằng những khoản chi phí khổng lồ từ thập niên 1930.
Khi chính trị kết hợp với kinh tế
Theo giáo sư Vương Linh Linh (王玲玲), Tổ trưởng Tổ tư liệu, Trung tâm nghiên cứu Quan hệ quốc tế, Đại học Chính trị Đài Loan, trong khoảng thời gian ngắn 12 năm từ 1958 đến 1970, các tổ chức tài chính đã đầu tư gần 26 triệu đôla cho các dự án nghiên cứu vùng Viễn Đông tiến hành ở Mỹ. Bên cạnh đó, Chính phủ Mỹ lại hỗ trợ thêm gần 15 triệu đôla cho công tác nghiên cứu. Nhờ vậy, thật sự chẳng có gì ngạc nhiên khi Mỹ đạt được những thành tựu vượt bậc trong lĩnh vực nghiên cứu Trung Quốc.
Tuy nhiên, ngành Nghiên cứu Trung Quốc tại Mỹ tuy đã phá vỡ tình trạng trì trệ của ngành Hán học truyền thống, song nó vẫn bị giới hạn ở phướng diện mới khác. Theo giáo sư lịch sư Trư?ng Hạo, Đại học bang Ohio, do kể từ sau Đại thế chiến thứ II, Mỹ tự xem mình là người lãnh đạo thế giới tự do, tiến hành nghiên cứu cái gọi là “nghiên cứu khu vực” tập trung vào các lĩnh vực kinh tế và chính trị, do vậy khó tránh khỏi hiện tư?ng “mang lại lợi ích trước mắt”. Các tác giả đa phần đều mong muốn công trình nghiên cứu của mình đạt được những giá trị thực tế, phục vụ cho việc đề ra chính sách ngoại giao, quốc phòng và kinh tế của Mỹ.
Trong tình hình như vậy, ngành nghiên cứu Trung Quốc ở Mỹ tập trung vào Trung Quốc cận đại, phạm vi nghiên cứu hạn hẹp nên khó tránh khỏi xu hướng đưa ra quan điểm phiến diện, lập luận mang tính võ đoán. Các vấn đề nghiên cứu tương đối thịnh hành có thể kể ra như “Chủ nghĩa đế quốc đã xâm chiếm Trung Quốc như thế nào”, “Kitô giáo ở Trung Quốc”, “Triết học chính trị và hệ thống giáo dục đại chúng truyền thống Trung Quốc” .…, nói chung là các vấn đề nhằm thực hiện mục đích tìm hiểu “Trung Quốc hiện đại”. Còn những vấn đề không liên quan đến Trung Quốc hiện đại thì khó tránh khỏi bị lãng quên hoặc ít người chú ý.
Về khái niệm “hiện đại hóa”
“Lý luận hiện đại hóa” mà giáo sư John K. Fairbank, Khoa Sử Đại học Harvard lần đầu tiên áp dụng thật sự là cơ sở lý luận quan trọng nhất. Song bản thân kết cấu của lý luận này đã mang nhiều thiếu sót, lại áp đặt một cách miễn cưỡng trong tình hình thực tế phức tạp của Trung Quốc, nên thực tế khó tránh khỏi tình trạng “sai một li đi một dặm”.
Về điểm này, giáo sư Trương Hạo đã phân tích tỉ mỉ các khía cạnh. Ông cho biết “Lý luận hiện đại hóa” vốn đã bắt nguồn từ thời kì Khai sáng ở thế kỷ XVIII. Cốt lõi cơ bản của lý luận này đơn giản là: quá trình “hiện đại hóa” bao gồm quá trình công nghiệp hóa, quá trình xây dựng tư bản chủ nghĩa, sự trỗi dậy của tầng lớp trung lưu, chấn hưng dân chủ và tự do tư tưởng v.v. tất cả đều đúng. Đây đồng thời là tiêu chuẩn giá trị duy nhất để đánh giá mức độ “phát triển” của một quốc gia. Lý luận này dẫn chứng rằng ở các nước “tụt hậu” vốn không thuộc “thế giới phương Tây”, truyền thống và quá trình hiện đại hóa luôn đối lập nhau. Nói cách khác, họ cho rằng truyền thống chính là trở ngại lớn cho các nước trên con đường hiện đại hóa. Xuất phát từ quan điểm này, nhà xã hội học phương Tây Max Weber từ đầu thế kỷ XX đã nhận định rằng chính pháp luật, chế độ bổng lộc, nền giáo dục trọng văn và đặc biệt là tư tưởng Nho giáo vốn lúc nào cũng nói nhân nói nghĩa, coi thường tìm tòi lợi ích cá nhân là những trở ngại lớn nhất đối với Trung Quốc trên bước đường phát triển. Do vậy, Trung Quốc đừng trách các cường quốc ra tay hiếp đáp, có trách thì hãy trách chính nền kinh tế, văn hóa, chính trị truyền thống lạc hậu trì trệ của chính mình.
Liệu văn hóa truyền thống Trung Quốc có phải là một trở ngại cho sự phát triển?
Xuất phát từ quan niệm “hiện đại là trên hết”, nhiều học giả đã dùng thư?c đo phướng Tây để áp dụng kiểm chứng trong trường hợp Trung Quốc. Các vấn đề gây nhiều bàn luận tranh cãi trong lĩnh vực này có thể kể ra như “Ngành thướng nghiệp Trung Quốc luôn luôn phồn vinh, tại sao Trung Quốc không phát triển chủ nghĩa tư bản và tầng lớp trung lưu?” “Nhật cải cách thành công, tại sao Trung Quốc thì không thể?” và “Tại sao ngành khoa học Trung Quốc bị trì trệ?” v.v.. Do coi Trung Quốc đã “thất bại” trong quá trình hiện đại hóa nên họ chỉ tìm tòi, phân tích nguyên nhân gây nên thất bại mà bỏ qua những mặt mạnh của quốc gia này.
Giáo sư Trương Hạo nhận định: “Quan điểm trên đây mang tính phiếm diện”. Đầu tiên, nhiều người đã bắt đầu hoài nghi liệu “hiện đại hóa” có mang lại sự thịnh vượng cho đất nước và hạnh phúc cho người dân không? Thứ hai, nếu đơn giản chia lịch sử thành hai bộ phận “truyền thống” và “hiện đại”, trong đó “truyền thống” bị xem là thứ lạc hậu, là lực cản cho sự phát triển thì tính đa dạng phức tạp của truyền thống và các mối quan hệ hữu cơ mật thiết giữa “truyền thống” và “hiện đại” đã vô hình trung bị xem nhẹ hoặc bỏ qua.
Mặc dù có không ít khuyết điểm kể trên, song việc áp dụng “lý luận hiện đại hóa” vào nghiên cứu trường hợp Trung Quốc cũng đã trở thành một trào lưu cho đến tận hôm nay. Do chịu ảnh hướng của học thuyết này, những học giả theo “trường phái tự do” ở Mỹ dẫn đầu là Fairbank đã theo cánh “tả khuynh” trong cuộc chiến công khai giữa Đảng Cộng sản và Quốc Dân Đảng vào những năm 1940. Trong quan niệm của họ, chủ nghĩa cộng sản tất nhiên là không thể xông vào các quốc gia “tiên tiến” như Mỹ được, song trong trường hợp một quốc gia lạc hậu như Trung Quốc thì Chủ nghĩa Cộng sản lại chính là lực lượng “cách tân”, “phát triển”.
Cách nhìn khinh miệt, kì thị..
Theo quan điểm này Chủ tịch Mao Trạch Đông của Trung Quốc không những không phải là một quân cờ “quốc tế cộng sản” của Liên Xô trong quá trình nhuộm đỏ thế giới mà ngược lại chính là “nhà cải cách ruộng đất” ở Trung Quốc – một biểu tượng của tinh thần bài trừ chủ nghĩa phong kiến và quan liêu của người Trung Quốc. Song, không ít người phướng Tây lại có ý nghĩ phiến diện về con đường mà Trung Quốc đại lục lựa chọn.
Trên thực tế, trong tác phẩm mới nhất của mình mang tên Quan sát Trung Quốc (中国¹察), Fairbank thể hiện hai khuynh hướng trái ngược nhau đối với Trung Quốc Cộng sản: vừa thướng vừa sợ. Ông vừa kỳ vọng vừa lo sợ rằng một khi nó mạnh sẽ “cắn lại” thế giới. Đó là quan niệm chủ đạo trong việc nghiên cứu Trung Quốc trong nửa thế kỷ qua. Tương tự như vậy, Arthur Doak Barnett – một quan chức cao cấp trong Chính phủ Hoa Kỳ, đồng thời cũng là nhà nghiên cứu Trung Quốc trong thập niên 1960 đã từng đề ra “chính sách nhân nhượng”, “bao vây mà không cô lập” đối với Nhà nước CHND Trung Hoa. Đây được xem như một phản ứng của sự cảm thông nói trên.
Nhờ vào những năm giảng dạy ở Mỹ và mối liên hệ với các học giả Trung Quốc học tại đây, giáo sư Trương Hạo đã vạch rõ “quan niệm cộng sản” trong lòng những chuyên gia về Trung Quốc của Mỹ như sau: “Cho dù đã từng có ảo tương đối với chủ nghĩa Mác, họ vẫn coi chủ nghĩa cộng sản như là một “quái vật” (妖怪), theo họ, đó là một “căn bệnh” (恶疾) không thể tồn tại trong xã hội phướng Tây. Vì vậy, một khi một quốc gia nào đó bị con “quái vật” này quyến rũ và bị “nhiễm bệnh”, thì chỉ vì quốc gia ấy có bệnh bẩm sinh! Nếu không thì hãy nhìn xem trường hợp châu Âu, chủ nghĩa cộng sản đã hình thành và hoạt động ngay giữa Tây Âu nhiều năm nay nhưng các quốc gia này vẫn tồn tại vững chãi !”.
Giáo sư Trương Hạo cũng cho rằng thứ “tình cảm (情结: tình tiết) cộng sản” ấy nói chung rất phù hợp với thuyết “Lý luận hiện đại hóa”. Đồng thời, “cho dù các chuyên gia Trung Quốc học có bày tỏ tình cảm của mình dành cho Trung Quốc sâu đậm đến mấy, dù cho họ có cố gắng đứng ở góc độ khách quan để nhìn nhận đánh giá Trung Quốc đến mấy đi nữa thì tâm lý khinh miệt và kì thị vẫn âm thầm ăn sâu vào tận xương tủy của họ. Loại thành kiến phiến diện này rất khó để loại bỏ.”
Tìm kiếm quan điểm mới, phướng pháp mới..
Cái gọi là “Lý luận hiện đại hóa” tồn tại khá lâu cuối cùng cũng đã có phản ứng. Hơn 10 năm nay, các học giả thuộc trường phái Tân Nho đứng đầu là giáo sư Wm. Theodore de Barry, Đại học Columbia – người nghiên cứu “Tống Minh lý học”, chủ trư?ng kêu gọi nghiên cứu lại các ưu điểm và giá trị của truyền thống văn hóa Trung Quốc.
Nhắc lại vấn đề, nhìn sang nước Mỹ, mặc dù ngành “Nghiên cứu Trung Quốc” tập trung vào thời kỳ cận đại đang đóng vai trò chủ đạo, nhưng chúng ta cũng đừng quên rằng lĩnh vực nghiên cứu Hán học chuyên tập trung vào cái đẹp, cái kỳ bí của một nước Trung Quốc cổ đại hình thành trước đây vẫn thu hút một lực lượng đông đảo các chuyên gia tham gia nghiên cứu. Thành tựu nghiên cứu của họ cũng rất đáng kể, ít nhiều cũng đã đóng góp tạo ra thế cân bằng tương đối đối với khuynh hướng nghiên cứu chủ đạo nói trên tại Mỹ.
Giáo sư Trương Bằng Viên chỉ rõ “hiện nay ở Mỹ nếu có 2000 học giả đang nghiên cứu Trung Quốc học thì trên đại thể có khoảng 1500 học giả thuộc trường phái chủ đạo, còn lại 500 học giả là những người yêu thích khám phá cái đẹp, cái huyền bí của nước Trung Hoa truyền thống. Dĩ nhiên, lịch sử đất nước Trung Hoa truyền thống dài đến như vậy, các lĩnh vực nghiên cứu lại phong phú đến như vậy, con số 500 học giả lại phân tán trong nhiều lĩnh vực nghiên cứu khác nhau nên khó tránh khỏi cảm giác “rất yếu ớt”.
“Song gần đây ngày càng có nhiều học giả Mỹ đều nhận thấy một điều rằng: nếu không hiểu biết và tôn trọng truyền thống Trung Hoa, muốn bỏ qua truyền thống mà hiểu được Trung Hoa thời kì cận đại là một việc làm không tưởng”.
Mặt khác, theo giáo sư Trương Hạo, người Mỹ nghiên cứu Trung Quốc trư?c kia nhấn mạnh tính khách quan của “người quan sát ngoài cuộc”, song ngày nay họ đã thay đổi góc nhìn, tự nhận là “người tham dự trong cuộc”. Khi nghiên cứu, họ coi sự đồng tình và thông hiểu là xuất phát điểm nghiên cứu. Chính vì thế, xu hướng nghiên cứu này rất được coi trọng. Hiện tại, mặc dù xu hướng này chưa tạo ra được sự khác biệt cụ thể, nhưng giáo sư Trương Hạo suy đoán rằng những thay đổi về mặt tâm lý này sẽ tác động trực tiếp đến quan điểm, phướng pháp thậm chí đến kết luận của nhà nghiên cứu. Theo đó, ảnh hướng tương lai của xu hướng này sẽ rất đáng kể.
Các con rồng hậu duệ người Hoa thoát khỏi túc mệnh luận (夙命)
Phó giáo sư Châu Dương Sơn (周阳山), Viện nghiên cứu Chủ nghĩa Tam dân, Đại học Đài Loan cho rằng, mấy năm gần đây do Nhật Bản và “bốn con rồng châu Á” đã dần dà phát triển thịnh vượng, kéo theo những thay đổi đáng kể tình hình nghiên cứu Khu vực Đông Á tại Mỹ. Thay vì tập trung mổ xẻ vấn đề “vì sao Nhật Bản thành công?”, họ đã bắt đầu chú ý đến các con rồng Đài Loan, Hồng Kông, Singapore, nói chung là các con rồng “hậu duệ của người Hoa”. Một lần nữa, tinh thần Nho giáo và chế độ truyền thống Trung Hoa vốn trước đây bị coi là không có giá trị nay lại được khẳng định.
Phó giáo sư Châu Dương Sơn tiếp tục nhận định, những năm gần đây ngành “Nghiên cứu Đài Loan” dần dần cũng được đ?nh hình. Chẳng hạn, giáo sư Thomas Gold, Khoa Xã hội học, Đại học California tại Bekeley đã công bố quyển “Lãnh thổ và xã hội Đài Loan” có thể được xem như một ví dụ điển hình. Có thể nói, lãnh thổ Đài Loan dần dà đã nổi lên trong nền học thuật quốc tế, cộng với lực lượng học giả Đài Loan đông đảo đang học tập và làm việc tại Mỹ sẽ tạo ra một “lực đẩy” quan trọng để thúc đẩy xu thế coi lãnh thổ Đài Loan là đối tượng nghiên cứu. Xem ra, xu thế này rất khả quan.
Lạc quan vẫn là lạc quan, song đ?ng ở một phướng diện khác, chúng ta không khỏi quan tâm đến một số vấn đề. Theo nhà nghiên cứu Trương Bằng Viên, Viện Nghiên cứu Trung Quốc, mấy năm gần đây cả Nhật Bản và Hàn Quốc đã đầu tư lượng lớn tài chính, sách vở, nhân tài để tổ chức các diễn đàn “Hội thảo Nhật Bản học”, “Hội thảo Hàn Quốc học”, đồng thời tài trợ cho các kế hoạch nghiên cứu lớn lấy Nhật Bản và Hàn Quốc làm đối tượng. Thậm chí Nhật Bản đã mua hẳn một số học viện nhỏ làm tiền đồn tấn công vào giới học thuật Mỹ. Dưới hình thức đầu tư tiền của này, Nhật Bản và Hàn Quốc không những đã hâm nóng lĩnh vực nghiên cứu về đất nước của họ mà còn giúp đánh bóng hình tượng và nâng cao vị thế của nước họ trên trường quốc tế.
Nhìn lại trường hợp lãnh thổ Đài Loan, mặc dù Đài Loan không thiếu những khoản đầu tư như vậy nhưng cả chính phủ và người dân chưa có chủ trương và tầm nhìn xa để xoay chuyển hướng nghiên cứu của giới học thuật Mỹ. Mặt khác, những năm gần đây, khối Xã hội Chủ nghĩa tan rã, chiến tranh lạnh Liên Xô – Mỹ chấm dứt đã góp phần làm giảm vị trí chiến lược của Trung Quốc đại lục. Ngành Nghiên cứu Trung Quốc cũng vì thế giảm đi giá trị thực tế và tính cấp thiết của mình. Xem chừng một ngày nào đó ngành Nhiên cứu Nhật Bản sẽ vượt qua mặt.
Ngành Nghiên cứu Trung Quốc ngày càng xuống dốc. Trước đây trong thời kì Trung Quốc đại lục vẫn còn đóng cửa, nước Mỹ chủ trương thực hiện “Phướng án giáo dục quốc phòng” của mình. Họ đã hô hào các trường đại học mở rộng đào tạo Hán ngữ, đồng thời chỉ đạo các đơn vị tình báo chính trị hãy thận trọng phân tích từng chi tiết nội dung của tờ Nhân dân nhật báo (人民日报) của Nhà nước CHND Trung Hoa nhằm nắm bắt được tình hình, xu thế phát triển của nền chính trị, kinh tế nước này. Rõ ràng, hiện tượng này sẽ không tái diễn trở lại.
Liệu Trung Quốc có bị thất bại một lần nữa?
Không chỉ thế, các trung tâm Nghiên cứu Trung quốc của các học giả gốc Hoa đều có chung một kết luận: trong lĩnh vực Nghiên cứu so sánh Đảng Cộng sản Trung Quốc mới nổi, Trung Quốc và Liên Xô – hai người anh cả trong khối XHCN thướng được đem ra thảo luận, so sánh nhiều nhất. Song những năm gần đây, cơn lốc Gorbachov đã cuốn đến thế giới phướng Tây, Liên Xô đã sớm tan rã, xóa bỏ tình trạng đóng cửa, còn Trung Quốc đại lục thì sau sự kiện Thiên An Môn ngày 6 tháng 4 năm ngoái cũng giảm sút phần nào uy tín quốc tế. Có người lo lắng rằng, không biết sau 10 năm nữa, trong quá trình tiến đến xây dựng quốc gia dân chủ tự do, liệu Trung Quốc có lại là một ví dụ thất bại khác không?
Một số người nghĩ rằng nghiên cứu Trung Quốc ở phướng Tây mò mẫm chẳng khác nào người mù sờ voi, thế thì tại sao lại có người quan tâm? Nhưng giáo sư Trương Hạo hệ thống thế giới chặt chẽ như vậy, việc các nước phướng Tây khi đầu tư kinh tế hay công nghệ vào khu vực Đông Á vốn lạc hậu này lại tùy thuộc vào tính khả quan trong kết luận của những nghiên cứu có liên quan. Để tránh rơi vào tình trạng càng lạc hậu càng bị thờ ơ, chúng ta cần phải quan tâm hơn nữa đến xu thế phát triển của ngành Trung Quốc học ở phướng Tây.
Kết luận, cho dù đứng ở góc độ học thuật thuần túy hay lợi ích hiện thực nhìn nhận thì ngành nghiên cứu Trung Quốc ở Mỹ vẫn có tác động sâu rộng đến Trung Quốc. Giống như một ví von của một học giả Đài Loan, những nghiên cứu này giống như những “tấm gương làm biến dạng trong nhà cười”, nhưng đó vẫn là cách mà người phướng Tây nhìn về Trung Quốc. Đối với những hình ảnh bị bóp méo mà họ đưa ra, chúng ta phải tự mình thừa nhận rằng từ đó ít nhiều ta vẫn có thể nhìn thấy nguyên hình của nó.
-------
Nguồn: Khi phương Tây gặp phương Đông – Hán học và các nhà Hán học quốc tế, tác giả Vương Gia Phụng – Lý Quang Chân, Sinorama xuất bản 1991 tại Đài Loan. Bản tiếng Việt: Nguyễn Ngọc Thơ dịch. -Tp. HCM: NXB ĐHQG TP.HCM, 2007 (theo sự cho phép của tạp chí Sinorama).