1. Tính thị
Tính /姓 (họ) nói lên huyết thống của thị tộc, có nguồn gốc sớm nhất là từ xã hội mẫu hệ. Tính đầu tiên xuất hiện từ tôtem của thị tộc, các tôtem này thường là những vì sao, hiện tượng thiên nhiên, các loài động thực vật. Trong quá trình giao lưu giữa những thị tộc ở gần nhau, người ta lấy tôtem (như là ký hiệu của thị tộc) làm biểu tượng cho thị tộc mình, để phân biệt với thị tộc khác ở nơi khác. Ký hiệu thị tộc này là nguồn gốc sớm nhất của tính. Như vậy sự ra đời của tính sớm hơn nhiều so với văn tự. Sau khi văn tự ra đời, tính mới có ý nghĩa văn tự, ý nghĩa đó dựa trên hình đồ ký hiệu tôtem.
Thị /氏 là danh hiệu mà quý tộc cổ đại dùng để chỉ hệ thống tông tộc. Bắt đầu từ giữa thời nhà Hạ, thị trở thành một nhánh của tính. Thị là sản phẩm đặc biệt của xã hội đã xuất hiện tư hữu, nó nói lên công huân và địa vị. Thời Tiên Tần, nữ thì xưng tính, nam thì xưng thị.
2. Nguồn gốc tính thị của người Hán
Theo truyền thuyết, tính của người Trung Quốc cổ đại ra đời từ thời Ngũ Đế. Từ khi Bàn Cổ khai thiên lập địa, qua Tam Hoàng, Ngũ Long, đến Phục Hy thì đã có tính và thị. Tiếp tục qua các thời Viêm Hoàng, Nghiêu Thuấn, Hạ, Thương, Chu, Xuân Thu Chiến Quốc, đến Tần gồm thu sáu nước xây dựng chính quyền trung ương tập quyền đầu tiên, tính và thị được kết hợp thành một. Tính thị của người Trung Quốc có lịch sử ít nhất năm nghìn năm.
Trước đây, người ta cho rằng tính có trước, thị có sau. Trên thực tế, tính và thị được dùng chung với nhau, mối quan hệ giữa tính và thị cũng có thay đổi. Thời kỳ sớm nhất, thị là xưng hô của thị tộc, bộ lạc, liên minh thị tộc. Trong truyền thuyết và nhiều thư tịch nói rằng các loại thị này có trên một trăm. Sớm nhất có thị Bàn Cổ, thị Thiên Hoàng, thị Địa Hoàng, thị Nhân Hoàng, thị Ngũ Long; sau đó là thời đại Tuần Phi với hai mươi hai thị như thị Cự Linh, thị Hoàng Thần, thị Quỷ Ngỗi, thị Không Tang, thị Thứ Dân, v.v.; tiếp theo là thời kỳ Nhân Đề Ký với mười ba thị như thị Thần Phóng, thị Thục Sơn, thị Hỗn Độn, thị Hữu Sào, thị Toại Nhân, thị Dung Thành, v.v.. Trong thời kỳ này quan trọng nhất là thị Hữu Sào và thị Toại Nhân. Thị Hữu Sào dạy dân bắc cây làm tổ, đào đất làm trại. Thị Toại Nhân phát minh cái khoan lấy lửa, dạy người nấu chín thức ăn, dạy dân kết thằng để ghi lại sự việc.
Vào thời Phục Hy, giai đoạn này vùng Trung Nguyên xuất hiện các bộ lạc hoặc nhà nước sơ khai như thị Cộng Công, thị Bách Hoàng, thị Chu Nang, thị Hạo Anh, thị Lật Lục, thị Hách Tư, thị Côn Ngô, thị Yết Thiên, thị Âm Khang, thị Trung Hoàng, thị Nữ Oa, v.v.. Tính xuất hiện sớm nhất ở Trung Hoa là vào thời Phục Hy. Trung Quốc thông sử của Phạm Văn Lan cho rằng tính Phong là tính đầu tiên của Trung Quốc. Một thị quan trọng nhất ở giai đoạn này là thị Trung Hoàng, thủ lĩnh của thị Trung Hoàng là Thương Hiệt, tương truyền ông sáng tạo ra chữ viết thay cho kết thằng kỳ sự.
Thị Thần Nông, tức Viêm Đế, tính Khương. Hoàng Đế có hai mươi lăm người con, trong đó có mười hai tính là: Cơ, Tây, Kỳ, Kỷ, Đằng, Châm, Nhiệm, Tuần, Hy, Khiết, Huyên, Y. Trên thực tế mười hai tính này là các tộc được tách ra từ bộ lạc thị Hùng, những đứa con khác bởi vì không đủ thực lực để thành lập bộ tộc cho riêng mình nên không có tính. Đây là thời kỳ tính là chi hệ của thị. Hoàng Đế và Tây Lăng Thị Nữ sinh con Huyền Ngao, hiệu là thị Thanh Dương, tích gọi là Thiếu Hạo. Thị tộc Thiếu Hạo di chuyển về phía đông, trở thành thủ lĩnh của tộc Đông Di, đổi tên là thị Kim Thiên, hậu thế mang tính Doanh, tính Yển. Đứa con thứ của Hoàng Đế và Tây Lăng Thị Nữ là Xương Ý. Xương Ý lấy con gái của thị Thục Sơn sinh Chuyên Tu, tách thành thị Cao Dương, hậu thế mang tính Mê, tính Kỷ, tính Đổng, tính Vân, tính Tào v.v.. Cháu chắt (tằng tôn) của Hoàng Đế là Đế Cốc gọi là thị Cao Hạnh, hậu thế mang tính Tử. Con của Đế Cốc là Nghiêu gọi là thị Thảo Đường, hậu thế mang tính Kỳ; v.v..
Như vậy, thị trước triều Chu là tên bộ lạc, tên nhà nước sơ khai, hàm nghĩa của nó khác biệt rất lớn với thị của triều Chu. Tính cổ xưa nhất ở Trung Quốc trên cơ bản là xuất hiện từ sau hai ông Viêm Hoàng. Theo nhiều thư tịch thống kê, thời Tiên Tần tổng cộng có hơn ba mươi tính, thêm vào những tính tìm thấy trên đồ đồng thời Tây Chu được khảo cổ khai quật, tổng cộng cũng không quá năm mươi, thế nhưng số lượng của thị thì vượt xa con số này.
Thời Hạ ý nghĩa của thị bắt đầu thay đổi, thị có thể là đại diện cho một chi quan trọng trong họ tộc (tính) chư hầu của triều Hạ. Ví dụ như tính Kỷ (sau đế Chuyên Tu cháu của Hoàng Đế) đến triều Hạ lại phân ra các thị như thị Côn Ngô, thị Tô, thị Cố, thị Ôn v.v., và đều trở thành nước chư hầu của triều Hạ. Thời Hạ đã xuất hiện chế độ phân phong. Sử ký của Tư Mã Thiên cho biết, Vua Vũ mang tính Tự, hậu thế được phân phong thành các nước chư hầu như thị Hạ Hậu, thị Hữu Nam, thị Phí, thị Hạnh, thị Qua, v.v.. Triều Thương trên cơ bản kế tục chế độ triều Hạ.
Giữa tính và thị khoảng đầu thời Tây Chu trong mối quan hệ huyết thống có sự thay đổi quan trọng. Sau khi Chu Vũ Vương tiêu diệt nhà Thương, xác lập lại mối quan hệ mới giữa tính và thị. Tính theo hôn nhân, không thay đổi qua các thế hệ. Thị phân sang hèn, thay đổi tùy thời. Thời Tây Chu “liệt thổ phân phong”, các nước chư hầu cùng tính, khác tính có trên 1300. Quan hệ giữa thiên tử và chư hầu, dòng tộc của Thiên tử làm đại tông, chư hầu xưng là tiểu tông. Quan hệ trong nội bộ dòng tộc của vua chư hầu, chế độ tông pháp Tây Chu quy định con trai trưởng dòng chính của vua các nước chu hầu sẽ nối ngôi, tổ của một họ do con trai trưởng dòng chính này thờ tự và kế thừa, tính (họ) này không thay đổi qua hàng trăm thế hệ, đây gọi là đại tông. Những người con trai ngoài con trai trưởng dòng chính đều gọi là con thứ, còn gọi là “biệt tử”, sử gọi là công tử, họ không thể kế thừa quân vị, thường lấy phong ấp làm thị, gọi là tiểu tông. Người con trai trưởng dòng chính trong số “biệt tử” kế thừa thị tộc mới, trở thành đại tông của thị tộc mới, và những người con trai khác lại tiếp tục lập một chi thị mới. Những người con không được phân phong, hoặc lấy hiệu, thụy, quan, danh, tự, cư, sự, chức, thứ, v.v. của tổ tiên làm chi thị mới, sau năm đời bị hạ xuống thứ dân, không thể lập thị. Dòng tộc thuộc hệ dòng chính của vua chư hầu khi nước mất thì lấy tên nước làm thị, hoặc lấy tính được kế thừa làm thị. Thị là tiêu chí của đặc quyền và địa vị, quyền lớn có thị lớn, quyền nhỏ có thị nhỏ. Thời Xuân Thu Chiến Quốc sinh ra vô số thị, cũng làm mất đi vô số thị, nhưng tính thì không thay đổi. Vì vậy thời Tiên Tần bảo lưu được chỉ khoảng ba mươi tính, còn thị được lưu lại gần hàng nghìn cái. Tính thị mà chúng ta thường nói đến hầu như là xuất phát từ thị thời Tây Chu, chúng có sự khác biệt lớn với thị trước thời Hạ Thương.
Mãi đến Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Quốc, tính và thị mới kết hợp thành một, và đến thời Hán tính và thị hầu như không còn sự phân biệt nữa. Nguyên nhân cơ bản của sự hợp nhất tính và thị là, sau khi Tần Thủy Hoàng thống nhất thiên hạ, chế độ quận huyện được thi hành thay thế cho chế độ liệt thổ phân phong của triều Chu. Chế độ quận huyện triều Tần không có phong đất theo thế tập như quốc, ấp, hương, v.v.; cũng không có khanh vị năm đẳng công, hầu, bá, tử, nam; hoàng thân quốc thích, công huân võ tướng cũng không có đất phong của riêng mình. Chế độ phân phong tông pháp mất đi khiến cho giữa “thị” (nguyên là đại diện cho sang hèn) và “tính” (để khu biệt hôn nhân) trên cơ bản không còn sự phân biệt nữa, thị và tính chỉ còn lại tác dụng là hệ thống ký hiệu chỉ huyết thống.
Thời Tần Hán đặt nền móng cho tính thị của người Hán ổn định truyền qua các thế hệ. Tính thị tuy bắt nguồn từ thời thị tộc mẫu hệ, song truyền thuyết và các thư tịch có liên quan đều ghi nhận rằng tính thị từ sau Viêm Hoàng trên cơ bản là được truyền theo phụ hệ.
Nguồn: người dịch