1. “Tiểu niên” (đưa ông Táo về trời)
“Tiểu niên” còn gọi là “tiểu tuế”, “tiểu niên dạ”. Ngày này khác nhau ở từng địa phương, phần lớn là hai ngày hai mươi ba và hai mươi bốn. Ở Hoài Bắc An Huy lại là ngày mười lăm tháng giêng, ở Sơn Đông có nơi là ngày mồng một tháng sáu, còn có nơi là ngày mồng tám tháng chạp.
Phong tục ăn “tiểu niên” cũng có lịch sử từ cổ xưa. Trong “Tứ dân nguyệt lệnh” của Thôi Thực đời Đông Hán nói: ngày tháng chạp sáng càng sáng, gọi là tiểu tuế, kính rượu bề trên, kính chúc quân sư”. Điều này chứng tỏ rằng vào đời Hán hơn hai ngàn năm trước đã có phong tục ăn “tiểu niên” tôn sư kính trưởng. Vào đời Tống ăn “tiểu niên” chỉ giới hạn trong nhà, không có chúc mừng bên ngoài. Vào ngày này cả nhà đoàn tụ, đốt pháo, đại loại giống như ăn tết. Đời Thanh ăn “tiểu niên”, trong “Long miên tạp ức” của Diêu Hưng Tuyền có ghi huyện Động Thành An Huy ăn “tiểu niên” như sau: Tối ngày hai mươi bốn tháng chạp, làm rượu ngọt kính tổ tiên, từ trong mật thất ra đến ngoài cửa, suốt từ trong ra ngoài đèn đuốc sáng trưng, tiếng pháo hoa vang dội, không khác gì ngày tết, người địa phương gọi là ăn “tiểu niên”. Ăn “tiểu niên” ngoài việc “rót rượu kính tổ tiên” ra còn có phong tục quét dọn và cúng ông Táo.
2. Quét dọn
Quét dọn là một trong những nghi thức đuổi trừ bệnh tật thời cổ đại, tương truyền thời Nghiêu Thuấn đã có tục này, sau này trở thành công việc tổng vệ sinh cuối năm. Thời Đường Tống tục quét dọn này rất phổ biến. Trong Mộng lương lục của Ngô Tự Mục người Tống có viết: cuối tháng mười hai, …, nhà nhà lớn nhỏ đều quét cổng nhà, tống những ô uế cho sạch sẽ nhà cửa, treo thần Chung Quỳ, bùa yểm trừ tà ma, dán câu đối tết, cúng tế thần linh, tổ tiên … để cho năm mới bình an”. Hiện nay vẫn còn câu ngạn ngữ: “Hai mươi bốn tháng chạp, quét bụi dọn nhà”.
Quét dọn tức là quét dọn nhà cửa, sơn vách, dán lại các cửa sổ bằng giấy mới, v.v. còn gọi là “trừ bụi”, “quét nhà”. Ngày xưa nhà có cây cột cây làm cột trụ, kết cấu nhà phức tạp, phòng ốc phức tạp, ngày thường rất ít có thời gian quét dọn cho sạch sẽ toàn bộ, đồ dùng gia đình, các đồ đạc linh tinh để tùy ý, ngày tháng lâu dần mạng nhện giăng khắp, chuột rắn làm tổ. Đến ngày “tiểu niên” này (có nơi trước ngày này một hai ngày), người ta bao đậy giường bàn ghế bằng khăn thật kỹ, sau đó bắt đầu quét dọn từng phòng ngủ phòng khách, không bỏ sót các ngóc ngách, chà sạch từng tấm ván nhà, còn cột cái chổi vào đầu cây tre, quét sạch từng chỗ từng chỗ trên nóc nhà, xà cột, tường vách. Sau đó sơn lại vách, rửa sàn nhà, lau chùi cửa sổ. Công việc quét dọn như vậy làm sạch sẽ các góc ngách bụi bặm lâu ngày, làm cho nhà cửa thay đổi sáng sủa sạch sẽ hơn.
Ở miền Bắc Trung Quốc, ngày quét dọn đó cũng là ngày thay đổi giấy dán cửa sổ, làm cho nghệ thuật cắt giấy phát sinh và phát triển. Nhà theo kiểu xưa không có cửa sổ bằng kiếng, đa số là dùng giấy dán, mỗi lần đến cuối năm thì gỡ giấy cũ xuống, dán giấy mới lên. Đến ngày “tiểu niên”, các cô con gái con dâu khéo tay bận rộn hẳn lên, họ ngồi với nhau mãi miết xếp những tờ giấy đỏ, nhẹ nhàng dùng kéo cắt thành hình những “hoa lan hoa cúc”, “lí dược long môn”, “bát tiên quá hải”. Họ cắt cho các cô tái giá là: “hỷ thước đăng chi”, cắt cho cô dâu mới là: “liên sinh quý tử”, cắt cho ông bà là: “thọ tinh bàn đào”, cắt cho các chủ tiệm, thương nhân là: “thần tài tụ bảo”, mỗi đối tượng mỗi khác nhau, mỗi một bức đều rất sinh động, thể hiện điềm may mắn, tốt đẹp, chúc mừng và ước nguyện của ngày tết.
Nghệ thuật cắt giấy ngày nay, chúng ta thỉnh thoảng vẫn có thể thấy các tác phẩm “long giáng ngũ độc”, “hồng chỉ hồ lô” kiểu như vậy. Có người nói: “hồng chỉ hồ lô dán ngoài cửa là thâu ôn quỷ”. Ông Hổ được cho rằng có tác dụng trừ tà trấn quỷ. Trong các tác phẩm này có màu sắc ma thuật của nghệ thuật cắt giấy thời cổ đại.
Có gia đình không chỉ dán giấy lên khung cửa sổ mà trên vách trong phòng cũng dán những tác phẩm bằng giấy cắt có nội dung chúc mừng, sáng rực cả các phòng ngủ phòng khách, thật là rực rỡ hẳn lên, giống như là tết đến ngay rồi vậy.
3. Tế ông Táo
Tế ông Táo là hoạt động không thể thiếu thời xưa. Cái bếp thời cổ đại sớm nhất giống như lò sưởi trong nhà, là nơi tập trung lửa, công dụng là xua đuổi cái lạnh mùa đông mang đến sự ấm áp trong nhà, dần dần trở thành quen thuộc. Nó làm thay đổi kết cấu cơ thể con người, có tác dụng thúc đẩy sự tiến hóa vể thể chất và sự phát triển văn minh nhân loại.
Dưới ảnh hưởng của quan niệm “vạn vật hữu linh”, có bếp tức là có thần bếp. Thần bếp còn gọi là Táo quân, Táo vương bồ tát, hoặc còn gọi là Lão Táo gia, Táo vương gia. Do tính thần bí của lửa, thời cổ đại xa xưa người ta đặc biệt tôn kính thần Táo, lúc đó tương truyền rằng các thần Táo đều là những vị thần lớn có danh tiếng như Hoàng Đế, Viêm Hoàng, Hỏa Thần Chúc Dung, v.v.. Qua quá trình lịch sử lâu dài người ta sử dụng và khống chế được lửa một cách tốt hơn, tính thần bí của lửa giảm xuống, vị trí của thần Táo cũng không ngừng giảm theo, thời Xuân Thu xuất hiện cách nói lão phụ là thần Táo, đến đời Đường lại xuất hiện cách nói lãng tử Trương Tử Quách là thần Táo. Đến đời Minh Thanh, về cách nói Thần Táo có rất nhiều dị bản, song phần lớn đều cho rằng những ông có địa vị hèn mọn là thần Táo, chứng minh rằng địa vị của thần Táo lúc này đã rất thấp.
Cách cúng ông Táo các thời đại khác nhau cũng không giống nhau. Đời Hán có tục “hoàng dương tế Táo”. Về lai lịch của phong tục này, trong “Hậu Hán thư -Âm thức truyện” có ghi:
Thời Tuyên Đế, Âm Dư Phương, … ngày “lạp nhật” nhóm lửa buổi sớm là ông Táo xuất hiện. Dư Phương lại tạ chúc mừng, nhà có dê bụng vàng, lấy tế ông Táo. Từ đó về sau, gia đình khá giả … đến ba thế hệ sau mà còn phồn thịnh, sau câu chuyện này thường lấy dê bụng vàng tế ông Táo vào “lạp nhật”.
Âm Dư Phương thấy ông Táo, nhà nghèo không có gì bèn lấy con dê duy nhất trong nhà mà cúng, sau này khá lên đến các đời sau, người trong nước thấy có hiệu nghiệm, lấy dê tế Táo mà thành phong tục.
Đời Tống bắt đầu dán hình Táo quân làm bằng gỗ, dùng kẹo đường tế ông Táo, lại có phong tục “tuý tư mệnh” tức dùng rượu cúng cho ông Táo say. Sự thay đổi về phong tục tế ông Táo này có liên quan đến sự thay đổi chức năng và địa vị của ông Táo. Thời xa xưa, phạm vi quyền hạn của ông Táo chỉ giới hạn trong nhà bếp, cai quản lửa củi ăn uống, nhưng qua quá trình truyền từ đời này sang đời khác, một mặt vị thế của ông Táo luôn giảm xuống, mặt khác phạm vi quyền lực của ông lại không ngừng mở rộng, dần dần trở thành vị “khâm sai đại thần” của Thượng đế trú trong từng gia đình. Đời Tây Hán có bộ sách gọi là “Hoài nam tử”, trong đó viết thế này: ông Táo ngày cuối tháng âm lịch trở về trời, bẩm tấu với Thượng đế lỗi lầm của người dân. Chứng tỏ rằng sớm vào đời Tây Hán ông Táo đã có chức năng giám sát, ông mỗi cuối tháng thì bẩm tấu với Thượng đế tội trạng nhân gian, Thượng đế căn cứ vào tội trạng lớn hay nhỏ mà giảm dương thọ của người trần thế.
Ông Táo trú dài hạn trong gia đình, mỗi ngày ngồi trên bàn cao, nghe không sót một lời, thấy không sót một việc của từng người già trẻ bé lớn trong nhà, và ghi vào trong quyển sổ không sót một điều gì, chuẩn bị cuối tháng hoặc cuối năm trình tấu với Thượng đế, kiết hung họa phúc tương lai tất có ứng nghiệm. Nếu như vậy thì nhân gian này ai không sợ ông? Ai không tránh né ông? Nhưng đối với cái ông thần chuyên quản những việc không đâu này có tránh cũng tránh không khỏi, có kính cũng không giải quyết được vấn đề, người ta không biết làm sao bèn dùng kẹo cúng cho ông, để ông ta sau khi dùng kẹo bị dính lưỡi, khi lên trời diện kiến Ngọc Hoàng khó mở miệng, không báo cáo được. Lại dùng rượu đổ lên cửa nhà bếp là mưu tính làm cho thần say, để thần lên trời trong bộ dạng say bí tỉ, cũng là để ngăn ngừa ông gặp Thượng đế báo cáo tội trạng của con người. Trong Đông Kinh mộng hoa lục của Mạnh Nguyên Lão đời Tống có viết: “ngày hai mươi bốn giao năm, … dán con dế bếp. Lấy rượu ngọt đổ lên cửa bếp, gọi là “túy tư mệnh”. “Tư mệnh” ở đây gọi nguyên là “đông trù tư mệnh” tức là chỉ ông Táo. Trong “Mộng lương lục” của Ngô Tự Mục có viết: “ngày hai mươi bốn, không phân biệt giàu nghèo, nhà nhà đều chuẩn bị cơm rau kẹo đậu”, kẹo là loại có tính dính cao.
Ông Táo nghiểm nhiên là ông chủ của gia đình. Trước đây hình ông Táo thường được vẽ mặc quan phục, bên cạnh có vợ, hai bên có câu đối “thượng thiên ngôn hảo sự, hạ giới bảo bình an” (lên trời tâu điều tốt, dưới trần bảo hộ trong nhà được bình an), thật là “nhất gia chi chủ”. Nếu như nói con người dùng cách dán miệng, cho uống rượu say để ngăn ông “lên trời kể tội nhân gian” là cách khống chế cứng nhắc, vậy thì con người còn áp dụng biện pháp tốt hơn, đó là hối lộ, có thể gọi là biện pháp khống chế mềm dẽo. Hai biện pháp cứng nhắc và mềm dẽo này được kết hợp lại mà sử dụng. “Tân Hà huyện chí” Hà Bắc có ghi:
Ngày hai mươi ba, quét dọn nhà cửa, đêm làm kẹo tế Táo quân, lấy máng cỏ cho ngựa Táo quân ăn. Nói rõ lý do sáng sớm mai ông Táo về trời sớm, tâu những sự việc trong một năm của nhân gian, những lý do sở dĩ quyến rũ như vậy là để chặn cái miệng của ông.
Đút lót Táo quân là ngăn ông lên trời nói những điều có hại. Một số nơi ở Sơn Đông cúng ông Táo ngoài kẹo ra còn có trà, rơm cỏ, vỏ đậu, bạch phiến, bánh nướng. Các loại thức ăn này, ngoài trà cúng ông Táo để ông thông cổ, còn có cỏ để cho con vật ông cưỡi ăn, vỏ đậu để vợ ông cho gà ăn, bạch phiến để cho heo ăn, bánh nướng để cho chó ăn. Người ta lo lót hối lộ cho ông Táo thật là hết lòng hết dạ! Người ta cho rằng dùng biện pháp mềm cứng đối với ông Táo như vậy, ông đến trước Thượng đế tự nhiên “nói nhiều những điều tốt, không nói những điều xấu”.
Những lời chúc khi tế ông Táo càng lộ rõ tâm nguyện của con người: “dán bánh đầy miệng ông, kẹo dính đầy lưỡi ông, hôm nay lên trời lời tốt phải nói nhiều”. Trong “Tế Táo từ” của Phạm Thành Đại đời Tống miêu tả phong tục tế Táo quân, trong đó có đoạn viết:
Cổ truyền tháng chạp hai mươi bốn, ông Táo chầu trời tâu muôn sự;
Xe mây ngựa gió chút luyến lưu, nhà có mâm chén hậu lễ tế;
Đầu heo hầm nhừ cùng cá tươi, bánh đậu ngọt bánh thông tròn;
Nam thì dâng cúng nữ tránh đi, tưới rượu đốt giấy tiền Táo quân vui;
Đầy tớ cải vả thần chớ nghe, chó mèo dơ bẩn thần chớ giận;
Tiễn Táo no say lên cửa trời, thìa dài thìa ngắn chớ đổi thay.
Cầu xin được lợi trở về chia đôi!
Tám câu trước trong đoạn thơ là nói về tình hình cúng ông Táo, năm câu sau là những lời chúc của người chủ nhà cúng, cũng là nhắn nhủ với ông Táo lên trời chớ có nói điều này điều nọ trong gia đình, chỉ nói nhiều những điều tốt, nếu như xin được về những điều tốt thì hai bên cùng chia hưởng.
Trước đây dân gian có câu tục ngữ: “Nam bất bái Nguyệt, nữ bất tế Táo”. Cúng ông Táo là việc của người nam làm chủ gia đình, người nữ khi cúng ông Táo phải tránh đi, không được tham dự. Bài thơ của Phạm Thành Đạt được dẫn trên có thể thấy được tình hình cúng ông Táo của người Tống “Nam thì dâng cúng nữ tránh đi”. Trong “Đế kinh tuế thời ký thắng” đời Thanh cũng nói: “vào cuối ngày hai mươi ba, nhà nhà cúng ông Táo … người nam cúng, nói những lời tránh ác được thiện. Phụ nữ ở trong phòng, …”. Mãi đến ngày nay cúng ông Táo vẫn còn người nữ tránh khỏi, chỉ cho phép người nam tham dự.
Tuy người ta tin rằng ông Táo lên trời báo cáo việc lớn việc nhỏ trong gia đình sẽ ảnh hưởng đến phúc họa của cả nhà, người ta dùng nhiều thủ đoạn nào là biện pháp cứng rắn rồi mềm dẽo để bịt miệng ông Táo lại, những gia đình nghèo không mua được các loại đồ cúng như kẹo cũng đành phải tủi thân ông Táo nhận những lễ vật đơn giản. Có gia đình nghèo thậm chí chỉ có mỗi một chén nước lạnh tế ông Táo. Thời kỳ Dân quốc thịnh hành câu ca dao “tiểu tử khổ” ở huyện Loan Bình, hát thế này:
Táo vương gia, tôi họ Trương,
Một chén nước lạnh ba nén hương;
Năm nay tiểu tử sống khổ cực,
Sang năm sẽ ăn kẹo quan đông.
Người nghèo cúng tế đối với ông Táo là một thái độ tốt, năm nay chỉ có một chén nước lạnh, xấu hổ một chút, song nguyện rằng sang năm sẽ mời ông Táo ăn kẹo Quan Đông. Tương truyền rằng Phúc Châu có một cậu tú tài nghèo tên là Trịnh Thầm Chi, bởi vì không có tiền ăn tết bèn vẽ một con ngựa, một dây pháo, ba ly nước sạch thay thế lễ vật dâng ông Táo, và đề thế này:
Nhất phỉ mã truy nhất chi tiên,
Tống quân kỵ khứ tảo thăng thiên.
Ngọc Hoàng nhược vấn nhân gian sự,
Vi đạo văn chương bất giá tiền.
(Một con ngựa truy một cây roi,
Tiễn Táo cưỡi ngựa sớm lên trời.
Ngọc hoàng có hỏi chuyện nhân gian,
Thưa nghiệp văn nên vẫn bần hàn.)
Vị thư sinh này ảo tưởng rằng nhờ ông Táo chầu Ngọc Hoàng tâu lên cái nghèo khó của văn nhân “văn chương bất giá tiền”, hy vọng rằng nhờ vào đó mà cải thiện hoàn cảnh.
Trong mắt của con người, ông Táo là vị thần phẩm chất xấu xa, là một ông thèm ăn, cho nên khi người ta cúng ông Táo cũng châm biếm, đào cái khổ, trêu chọc ông. Dùng kẹo tế ông chính là mang tính chất trêu chọc đó, có nơi đêm giao thừa đón ông Táo trở về, tết vừa mới qua thì người lớn xúi con nít làm bể cái miệng hình ông Táo, để đề phòng ông trộm ăn thức ăn trong nhà bếp.
Người ta trêu chọc ông Táo, dám làm nhiều điều bất kính với ông, nguyên nhân chính là sau khi loài người nắm được cái huyền bí của lửa, ông Táo là “chủ của lửa”, cái tính chất thần bí đã mất đi, và dần dần nhân cách hóa, thế tục hóa. Trong truyền thuyết dân gian, ông Táo không ngoài những lãng tử, kẻ lười biếng, tên hành khất, kẻ xui xẻo, quỷ nha phiến có địa vị thấp, thậm chí là tên tham quan lấy cắp tiền bị người ta đánh chết tại vách bếp, điều này làm cho người ta liếc ông một cách khinh thường.
4. Bận rộn tết
Bắt đầu từ hai mươi tháng mười hai, đặc biệt là sau khi ăn “tiểu niên” hai mươi ba tháng chạp, không khí tết đột nhiên rộn ràng hẳn lên, người người bận rộn xung quanh việc ăn tết, mỗi ngày đều bận rộn có một vài việc phải làm. Bài ca tết huyện Lư Long Hà Bắc hát thế này:
Hai mươi ba đưa ông Táo,
Hai mươi bốn viết câu đối,
Hai mươi lăm xay đậu phụ,
Hai mươi sáu mổ thịt tết,
Hai mươi bảy làm thịt gà,
Hai mươi tám hấp táo hoa,
Ngày ba mươi phải hao dầu.
Bài đồng dao ăn tết của Bắc Kinh nội dung cũng tương tự với bài ca tết này. Xay đậu, mổ thịt, làm gà, hao dầu đều là những thứ chuẩn bị tết dùng; hấp táo hoa có liên quan đến ăn tết cúng tế thần linh, tổ tiên; đưa ông Táo, viết câu đối là việc mà ăn tết không thể thiếu được.
Trong “Tân thái huyện chí” Hà Nam có miêu tả phong tục ăn tết thời đó như sau:
“Ăn tết”, là ngày lễ long trọng nhất, thời gian kéo dài nhất trong dân gian, bắt đầu từ mồng tám tháng chạp âm lịch, cho đến tết Nguyên tiêu năm sau mới kết thúc, người ta nói “ăn cơm mồng tám tháng chạp, là bắt tay nhanh vào làm việc tết” và “vừa đưa ông Táo xong, mùi tết đã phảng phất”, phần lớn sau ngày hai mươi tháng chạp là bắt đầu mua sắm hàng tết. Tục ngữ có câu: “hai mươi ba cúng ông Táo, hai mươi lăm xay đậu, hai mươi sáu mổ thịt, hai mươi bảy bắt cá giết gà, hai mươi tám hấp bánh bao, hai mươi chín mua hũ rượu, ba mươi tết đều đủ cả.”
Trên thực tế, bận rộn tết bắt đầu từ mồng tám tháng chạp. Như tục ngữ có câu: “ăn một tết lớn bận rộn nửa năm; phải giết thì giờ rỗi, đuổi kịp việc đồng án”. Trong xã hội truyền thống, nhân dân cực khổ canh tác một năm hầu như là để hưởng thụ một lần vào dịp tết. Không ít người vừa đến mùa thu hoạch hè hoặc thu đã nghĩ đến làm những gì để chuẩn bị ăn tết, ví dụ như dưa hấu mùa hạ phơi khô giữ lại đợi đến tết ăn; rau quả mùa thu ra sức bảo dưỡng tốt, đợi đến tết dùng. Ngày thường người ta có nhiều tính toán cho tết, qua ngày mồng tám thì bắt tay vào làm ngay những việc mà người ta đã tính. Sau khi cúng ông Táo, các công việc cho tết được tiến hành rộn ràng hẳn lên, các ngày giao thừa và tết là đỉnh cao của hoạt động tết; sau đó là ngày mồng ba tháng giêng, ngày khai trương đón thần tài, kéo dài đến tết Nguyên tiêu mười lăm tháng giêng lại náo nhiệt trở lại, mãi đến ngày lễ “Long đài đầu” mồng hai tháng hai mới hoàn toàn kết thúc. Tuy không giống trong ca dao hát rằng “bận rộn cả nửa năm”, song thời gian trước sau kéo dài gần hai tháng hoàn toàn là sự thật.
Bận rộn ngày tết cũng được phản ánh trong tác phẩm văn học thời cổ đại. “Hồng lâu mộng” là tiểu thuyết dài tập xuất sắc nhất thời cổ đại của Trung Quốc, được mệnh danh là bách khoa toàn thư về cuộc sống xã hội Trung Quốc thế kỷ XVIII. Hồi thứ năm mươi ba của bộ tiểu thuyết này viết rằng: “ngay lúc đó là tháng chạp, ngày cuối năm đã gần kề, Vương phu nhân và Phụng tỷ muội lo việc tết nhất. Trên dưới trong ngoài Vinh phủ khắp nơi đều bận rộn hẳn lên”.
Bận rộn tết không chỉ là chuẩn bị đồ ăn đồ dùng vật phẩm tế thần trong ngày tết, thương hiệu cửa hàng còn bận việc kết toán cuối năm, tính toán sổ sách một năm, đối với các khoảng nợ người ta thiếu mình thì đốc thúc họ nhanh chóng trả nợ. Cho nên tết đối với người thiếu nợ mà nói thì lo lắng vô cùng, đưa ông Táo là bắt đầu đốc thúc trả nợ, còn gọi là “tiểu niên quan”. Giao thừa là cơ hội đốc thúc trả nợ lần cuối cùng, những người thiếu nợ phải chạy đôn chạy đáo, còn gọi là “đại niên quan”. Thập niên 40, 50 thế kỷ XX thịnh hành ca kịch “Bạch Mao nữ”, có tình tiết ông địa chủ Hoàng Thế Nhân đêm giao thừa bức bách trả nợ, đánh chết người nông dân nghèo Dương Bạch Lao, cướp đi cô con gái của ông là Hỷ Nhi để trừ nợ.
Đối với các gia đình trung lưu xã hội nông nghiệp, không ai thiếu họ, họ cũng không thiếu nợ ai, công việc tết chủ yếu là đi chợ tết mua sắm đồ tết. Sau ngày mồng tám, rau quả bánh trái thịt cá gà vịt ở các chợ họp bày tắc nghẽn cả đường; hoa, tranh tết, pháo, các loại bài vị thần đầy khắp. Người từ các thôn làng ra chợ tết tụ lại với nhau, người đông chen chúc, làm cho chợ chật đến nổi nước chảy không lọt. Dân quê hình như là mang trong người gần hết cái mà họ tích lũy được trong một năm để mua những gì cần dùng, đến chạng vạng tối mới tan chợ, người người tay xách vai mang mới về nhà. Một nhà hình như phải đi mấy cái chợ tết mới mua đủ đồ dùng tết.
Vui tết, chúc tết người ta không thể không mặc áo mới, phía phụ nữ bận việc cắt may, giặt giũ chăn đệm, cấm hoa cắt giấy. “Khuê nữ cần hoa cần pháo, ông lão cần cái nón mới”. Con gái thích đẹp, những ngày xuân trang điểm tươi tắn, trên đầu còn gắn một đóa hoa đẹp, càng làm cho người ta yêu thích. Con trai bản tính hiếu động, vào ngày xuân tụ năm tụ bảy vui đùa, đốt pháo, những thứ đòi cha mẹ cũng chỉ là đồ chơi các loại như pháo. Những người già tuy không nhất định phải mặc đồ mới, nhưng thay một cái nón mới cũng lấy làm vừa ý, vui đến nỗi họ cười không khép miệng lại được!
Không chỉ là may áo cắm hoa, phụ nữ còn bận việc nấu nướng bếp núc. Trong mấy ngày tết nói chung là kỵ nhóm lửa làm bếp, đều phải chuẩn bị thức ăn sẵn trước giao thừa, cho nên họ phải không ngừng hấp bánh, chiên xào nấu hai ba ngày trước giao thừa. Họ còn phải rửa sạch đồ dùng cúng, để chuẩn bị dùng đêm giao thừa và nguyên đán.
Khi cha mẹ mua pháo hoa, luôn không quên mua vài tờ giấy đỏ, sau đó mời người có học thức trong thôn viết câu đối tết và chữ “phúc”. Có những người viết những lời thận lợi may mắn đầu xuân, như “ngũ cốc phong đăng” (mùa màng bội thu), “kê áp thành quần” (gà vịt thành đàn), “đài đầu kiến hỷ” (ngẩng đầu thấy niềm vui), “xuân quang minh mị” (ánh xuân tươi sáng), v.v..
“Có tiền hay không có tiền đều về nhà ăn tết” ngoài đường người ta vội vàng trên đường phố, tranh thủ về đến nhà trước đêm giao thừa đoàn viên cùng gia đình. Tập tục ăn tết đoàn viên đã thâm căn cố đế, đến ngày nay vẫn còn có giá trị lớn, thúc giục hơn năm chục triệu nông dân làm công ở xa vượt ngàn dặm đường về quê ăn tết, từ đó mà tạo nên sự bận rộn trên mạng lưới đường sắt, đường bộ, đường không – dịp xuân mỗi năm một lần. Mỗi độ xuân về, các thành phố lớn như Quảng Châu, Thượng Hải, Bắc Kinh, Trịnh Châu v.v. và các đầu mối giao thông, sân ga rộn ràng nhộn nhịp, đầu người nhấp nhô, người ta xếp thành một hàng như con rồng dài chờ kiểm phiếu. Tàu hỏa thường vận động hết 100% thậm chí là 200% nhân lực, trong toa xe người ta chen chúc nhau, chưa từng đi qua thì không thể nào tưởng tượng ra được, không chỉ đầy ắp người trên dãy đi, mà đến nỗi phía dưới chỗ ngồi, trên giá để hành lý cũng có người nằm người ngồi. Chỉ cần có thể kịp về nhà có khó khăn khổ cực đến mấy cũng chịu được. Trong lòng của mỗi người đều mang tâm trạng hăm hở về ăn tết như nhau.
Nguồn: Người dịch
Tài liệu dịch:
Huỳnh Cảnh Xuân 2001: Phong tục lễ tết Trung Quốc. – NXB: Thượng Hải từ thư [黄景春:《中国新年礼俗》,上海辞书出版社,2001年]