1. Dán câu đối tết
Dán câu đối tết là một trong những phong tục truyền thống quan trọng của ăn tết. Mỗi năm đến ba mươi tết, Trung Quốc từ thôn quê đến thành thị đều dán câu đối đỏ, tô thêm không khí mùa xuân, làm cho ngày tết càng thêm sáng rực sắc màu.
Câu đối tết còn gọi là ‘môn đối’, nó có nguồn gốc từ “bùa yểm tà ma” thời cổ đại xa xưa. Trong điển tích “Sơn hải kinh” của Trung Quốc cổ có ghi: trong biển xanh có một ngọn núi, trên núi có một cây đào lớn, tỏa bóng ba ngàn dặm. Cành đông bắc của cây gọi là quỷ môn, là cánh cửa ra vào của hàng vạn con quỷ. Trên cây đào có hai vị Thần Trà và Uất Lũng thống lĩnh bọn quỷ này, đối với những con quỷ ác làm hại dân thì dùng lau sậy buộc chặt chúng lại rồi cho cọp ăn. Hoàng Đế dựa theo đây mà tạo ra nghi thức đuổi quỷ, đúng giờ đuổi trừ quỷ ác, trước cửa sừng sững đào nhân, trên cửa sổ vẽ một bức tranh có hình Thần Trà, Uất Lũng và con cọp. Sau đó, dân gian lúc ăn tết dùng gỗ cây đào treo hình vẽ hai vị thần ở trước cửa để trừ quỷ đuổi tà, loại gỗ cây đào này và bức tranh gọi là “đào phù” (bùa yểm tà ma). Trước thời Ngũ đại, ăn tết đều treo bùa yểm tà ma.
Hiện tượng viết câu đối tết trên bùa yểm tà ma là bắt đầu từ Hậu Thục thời Ngũ đại. Trước một năm Hậu Thục vong quốc, Thục chủ Mạnh Sưởng lệnh cho học sĩ Tân Hoàng Tốn đề gỗ bùa yểm tà ma trước cửa lăng tẩm, nhưng chê văn từ của ông ấy không hay, bèn tự mình đề bút viết câu đối “Tân niên nạp dư khánh, gia tiết hiệu trường xuân”, đây là câu đối tết sớm nhất ở Trung Quốc. Sang năm Hậu Thục bị tướng Tống Lỗ Dư Khánh đánh phá, ngày sinh của Tống Thái Tổ gọi là trường xuân tiết, bức câu đối tết này của Mạnh Sưởng trở thành lời sấm “vong quốc chi âm” và được ghi lại. Đến đời Tống ăn tết treo câu đối tết trở thành tập tục phổ biến trong dân gian. Đông kinh mộng hoa lục nói: “đến gần tết nhà nhà đều đặt mua tranh thần giữ cửa, thần Chung Quỳ, gỗ đào, đào phù”. Người đời Tống treo tranh thần giữ cửa được ấn vào tấm ván gỗ, treo đào phù trên đó có viết câu đối tết. Trong bút ký đời Tống ghi có văn nhân thích tập tục viết câu đối tết. Tô Đông Pha bị gián chức quan Hàng Châu, vào một ngày gần giao thừa nọ đến thăm người bạn Vương Văn Phố, thấy ông bạn đang làm đào phù, liền đề trên đó một câu dí dỏm: “Môn đại yếu dung thiên kỵ nhập, đường thâm bất giác bách nam hoan”. Ngoài ra, Vương An Thạch trong bài thơ “ngày Nguyên đán” có câu “Thiên môn vạn hộ đồng đồng nhật, tổng bả tân đào hoán cựu phù” (trăm nhà vạn cửa lúc sớm mai, đều đổi đào phù cũ thành mới), cũng có thể chứng minh lúc đó thịnh hành treo đào phù có viết câu đối tết.
Dưới ảnh hưởng của tập tục treo câu đối tết, người ta vào ngày lành giờ tốt, lúc có niềm vui trong nhà, ăn tân gia đều treo câu đối ở trước cửa hoặc trên cột nhà, thế là xuất hiện “doanh liên” (câu đối treo cột nhà). Căn cứ vào các ghi chép, những năm đầu triều Nguyên, nhà thư pháp nổi tiếng Triệu Mạnh Phủ ghé qua lầu Minh Nguyệt ở Dương Châu, người chủ lầu thỉnh cầu Triệu Mạnh Phủ đề bút viết câu đối, Triệu vui vẻ nhận lời viết: “Xuân phong lãng uyển tam thiên khách, Minh Nguyệt Dương Châu đệ nhất lầu”. Câu đối này vế đối hoàn chỉnh, nội dung rất thích hợp với tửu lầu, người chủ rất vui mừng lấy tử kim hồ hậu tạ Triệu Mạnh Phủ. Đây là một câu chuyện hay trong giới văn đàn.
Câu đối tết đổi sang dùng giấy đỏ viết và chính thức gọi “xuân liên” 春联 (câu đối tết) bắt đầu từ triều Minh khai quốc hoàng đế Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương. Tương truyền rằng Chu Nguyên Chương rất thích câu đối, sau khi định đô ở Nam Kinh, ông đã từng hạ lệnh từ công khanh sĩ cho đến thứ dân, trước cửa nhà đều phải treo một bức câu đối tết. Ông còn ban tặng câu đối tết cho đại thần trong triều, và còn cải trang vi hành, xem nhà nhà treo câu đối mà lấy làm vui. Tương truyền có một lần Chu Nguyên Chương khi cải trang vi hành, thấy có một hộ gia đình chưa treo câu đối, hỏi thăm mới biết người chủ gia đình này làm nghề giết bò lợn, không biết chữ, đang lúc buồn tìm không thấy người viết câu đối, thế là ông vui vẻ đề bút: “Song thủ phách khai sinh tử tộ, nhất đao cát đoạn thị phi căn”. Uy phong của người thống trị đề xướng làm cho phong trào treo câu đối càng phát triển, câu đối xuất hiện khắp thôn quê thành thị, đến nay vẫn còn thịnh hành ở khắp đất nước.
Song, ở các thành phố lớn như Thượng Hải, do trình độ đô thị hóa cao, ảnh hưởng của xã hội nông nghiệp truyền thống dần dần phai nhạt, nhà treo câu đối vào tết ngày càng ít. Tết năm 1999 người ta làm một cuộc điều tra ở Phố Đông Thượng Hải, tiếp cận 320 gia đình, treo câu đối, tranh tết trước cửa (bao gồm cả các nhà chỉ treo một bức tranh tết cắt bằng giấy, một bức chữ “Phước”) chỉ có 116 nhà, chiếm 36,2%, những nhà treo câu đối ngang và câu đối đứng chỉ có 28 nhà, chiếm 8,4%. Nhưng đại đa số các thành phố nhỏ treo tranh tết vẫn không thể thiếu được vào dịp tết.
Ngày nay dán câu đối tết phần lớn đều được làm vào ngày giao thừa, trước đây sau ngày đưa ông Táo là có nhà bắt đầu dán. Trong “Câu đối tết – Yến kinh tuế thời ký” Phú sát Đôn Suy đời Thanh nói: “câu đối tết, tức đào phù. Từ sau khi bước vào tháng chạp đã có văn nhân viết câu đối kiếm tiền. Sau khi đưa ông Táo, là dần dần treo, hàng ngàn hàng vạn nhà thay toàn bộ mới”. Câu đối treo lên cửa là tết gần kề.
Treo câu đối trở thành dấu hiệu của tết, trong xã hội truyền thống, ăn tết mà không có câu đối tết là một việc không thể tưởng tượng được. Trước đây câu đối tết của những nhà quan lại thế tộc ngoài giấy đỏ chữ mực ra, còn dùng phấn vàng phấn bạc viết thành “kim tự, ngân tự”, không phải dùng để dán, mà dùng để treo vào khung cửa, mi cửa. Qua tết thì tháo xuống cất giữ lại, ngày giao thừa sang năm treo lại. Câu đối tết như vậy có thể cho thấy gia chủ giàu có, thường dân, những gia đình nghèo khổ thì không cách gì bắt chước theo nổi. Những gia đình nghèo không những không có tiền mua những câu đối đắt tiền, mà trước đây còn có người không biết chữ, người ta mua về giấy đỏ lại không có người viết bèn quệt lọ nồi vào đế chén rồi úp xuống thành một vòng thay thế cho chữ, sau đó dán lên cửa cho giống cảnh ăn tết!
Trên thực tế câu đối tết là một loại thơ có hình thức đặc biệt, số chữ nói chung là từ ba trở lên, nhiều nhất có thể đạt tới hơn năm trăm chữ. Yêu cầu của hai vế đối trên dưới là “số chữ bằng nhau, kết cấu tương đồng, tính chất từ tương đương, bằng trắc hài hòa”. Viết câu đối cũng là một hoạt động sáng tác văn học, những văn nhân có hoàn cảnh và địa vị xã hội khác nhau các thời đại thông qua câu đối tết mà thể hiện nguyện vọng, kiến giải, yêu ghét của mình. Thời phong kiến, các quan mà sự nghiệp đang hưng khởi trong giới quan lại thường đề những câu như “Đế đức càn khôn đại, Hoàng ân vũ lộ thâm”. Giới thư sinh tự cho mình là thanh cao thường đề những câu như “Xuân phong đại nhã năng dung vật, thu thuỷ văn chương bất nhiễm trần”. Các gia đình giàu có thường đề “Hướng dương môn đệ xuân thường tại, tích thiện nhân gia khánh hữu dư”. Các khách sạn, thương gia thường đề “Sinh ý hưng long thông tứ hải, tài nguyên mậu thịnh đạt tam giang”. Câu đối mà người nghèo thường dùng là “Niên niên nan quan niên niên quá, xứ xứ vô gia xứ xứ nhà”. Những câu đối hay là những câu đối có thể diễn đạt một cách chuẩn xác tư tưởng tình cảm hoàn cảnh của chủ nhân, ý tứ sâu sắc, ngôn lời mới mẻ, làm cho người nghe có cảm nhận hay lạ.
Trước đây văn nhân, sĩ tử, thầy đồ còn thường mượn câu đối tết để phản ánh tệ nạn thời bấy giờ, gạn đục khơi trong, châm biếm bọn tà ác, biểu lộ thái độ căm tức trong lòng. Chẳng hạn như năm Càn Long, Giang Tây có một người làm quan tên là Ngô Tỉnh Khâm nhận hối lộ. Có một tú tài nhà nghèo tên là Ngô Điển tự biết mình không có tiền để đưa hối lộ, trong lúc bất mãn tuyệt đỉnh đã giận dữ đề lên cửa lớn phòng thi câu đối:
Thiểu mục yên năng bình văn tự
Khiếm kim an khả vọng công danh
Dịch nghĩa:Không có mắt sao có thể bình luận văn chương,
Không có tiền sao có thể nghĩ đến công danh.
Câu đối này ngang dọc kết hợp đúng với cái tên của Ngô Tỉnh Khâm, về nội dung thì thể hiện rõ ý nói ông ta làm quan bất công, không lấy tài năng văn chương mà đánh giá nhân tài, mà chỉ biết nhận của hối lộ để định công danh, hành động tham ô dối trên lừa dưới. Cách luật của câu đối nghiêm ngặt, vế đối chỉnh thể, hàm xúc uyển chuyển, lại chơi chữ, nhằm vào ba chữ Ngô, Tỉnh, Khâm tên của ông quan này, đạt đến hiệu quả nghệ thuật đã kích mạnh mẻ.
Huyện Xác Sơn tỉnh Hà Nam lưu truyền câu chuyện vui về một ông thầy viết câu đối: trước kia có một người giàu có mà không biết chữ, sáng ba mươi tết mời một ông thầy đến viết câu đối tết. Ông nhà giàu này gia sản lớn, nhà cửa nhiều, người thầy viết hết một buổi sáng cũng chưa viết xong, thật là vừa mệt vừa đói. Thế mà buổi cơm trưa lại chỉ có bốn thứ rau: cải xoăn, cải trắng, cà rốt, củ cải, đến một món thịt cá cũng không có. Người thầy biết được ông chủ nhà là kẻ keo kiệt, giận thầm, lẳng lặng ăn cơm, không nói một lời nào. Buổi chiều tiếp tục viết câu đối, người thầy cầm bút chấm mực, đưa tay thành gió, nhưng chỉ thấy ông viết:
Thanh la bặc hồng la bặc thanh hồng nhị la bặc
Hắc bạch thái bạch bạch thái hắc bạch nhị bạch thái.
(Củ cải xanh củ cải hồng xanh hồng hai củ cải
Rau cải xoăn rau cải trắng đen trắng hai rau cải.)
Ông thầy đưa cho chủ nhà đem câu đối này dán ở cổng lớn. Ông nhà giàu thấy Thầy tự nhiên thoải mái, nét chữ như rồng bay phượng múa, lực viết thấm mực đến mặt sau trang giấy, cho rằng bức này là tuyệt nhất liền dán ở cổng lớn. Ngày mồng một tháng giêng, không ít người đến nhà ông chúc tết, khi thấy câu đối trên cổng lớn đều ôm bụng cười rồi bỏ đi. Vị tiên sinh này đã lấy câu đối để châm biếm tay nhà giàu bủn xỉn nhỏ nhoi.
Câu đối tết sau năm 1949 ở Trung Quốc có thay đổi lớn về diện mạo, về nội dung có sự khác biệt xa so với trước đây, có người gọi là “tân xuân liên” (câu đối mới).
Để khống chế tốc độ gia tăng dân số, chính phủ từ thập niên 70 bắt đầu đề xướng kế hoạch hóa gia đình, kêu gọi kết hôn muộn sinh con muộn, người ta dần dần thoát khỏi quan niệm cũ “đông con nhiều phước”, xây dựng quan niệm mới “sinh con khỏe mạnh, nuôi con nên người”. Được đông đảo vợ chồng trẻ hưởng ứng lời kêu gọi này, quyết tâm chỉ sinh một đứa con, tháo bỏ sự trói buộc của cái gông xiềng “đông con nhiều phước”, tự phát triển một cách tốt hơn, nâng cao tố chất. Thanh niên trong chính sách kế hoạch hóa gia đình đạt được nhiều điều lợi, thế là xuất hiện câu đối:
Đề xướng vãn hôn phá cựu tục
Kế hoạch sinh dục thụ tân phong.
Nguồn: Người dịch
Tài liệu dịch:
Huỳnh Cảnh Xuân 2001: Phong tục lễ tết Trung Quốc. – NXB: Thượng Hải từ thư [黄景春:《中国新年礼俗》,上海辞书出版社,2001年]