2. Treo tranh tết
Tranh tết là nghệ thuật hội họa dân gian lạc quan chiêm ngưỡng của nhân dân Trung Quốc. Những ngày đẹp trời mùa xuân, nhà nhà ngoài dán câu đối tết trước cửa ra, còn dán vài tờ tranh tết trên tường trong nhà, để tăng thêm không khí vui vẻ ngày xuân, thể hiện niềm hân hoan chúc mừng tiễn năm cũ đón năm mới.
Tranh tết, truy về nguồn gốc, nó cũng như câu đối tết có nguồn gốc từ tập tục cũ thời cổ đại xa xưa treo đào phù trừ ta đuổi quỷ. Về tranh tết, xuất hiện sớm nhất là tranh cửa, mà tranh cửa có xuất xứ từ tranh thần giữ cửa. Trong “Kinh sở tuế thời ký” của Tống Lẫm có nói: Nguyên đán mỗi năm vẽ hai vị thần dán hai bên cửa, bên trái là Thần Trà, bên phải là Uất Lũng, tục gọi là môn thần. Cho nên có thể nói nguồn gốc trực tiếp của tranh tết là tranh môn thần.
Môn thần sớm nhất là hai anh em Thần Trà và Uất Lũng trên tấm bùa yểm tà ma, điều này có liên quan đến thần thoại anh em họ xử phạt ác quỷ được ghi trong “Sơn hải kinh”. Đời Hán còn có phong tục trên cửa vẽ hổ, bởi vì người ta tin rằng hổ ăn thịt trăm con quỷ. “Hổ, là con vật dương tính, đứng đầu trong bách thú … ăn thịt ma quỷ”. Thế là liền vẽ tranh hổ giữ cửa nhà, bảo vệ gia thất. Ngoài ra, còn có tập tục dán tranh gà trống ở trước cửa nhà, trong “Kinh sở tuế thời ký” ghi: “mồng một tháng giêng, là ngày tam nguyên. … dán tranh gà trên cửa, treo cây lau sậy, cấm bùa yểm tà ma kế bên, bách quỷ sẽ sợ”. Gà kêu là mặt trời mọc, gà cũng trở thành “con vật dương tính”, trên cửa có tranh con gà là quỷ sợ. Cho đến ngày nay vẽ hổ vẽ gà vẫn còn là đề tài của vẽ tranh. Chỉ có tập tục treo cây lau sậy trước đây mất đi, Nhật Bản ăn tết vẫn còn giữ phong tục treo cây lau sậy trước cửa.
Đến đời Đường, môn thần có những thay đổi, do hai người Tần Quỳnh và Úy Trì Kính Đức là hai nhân vật có thật trong lịch sử đã thay thế hai anh em Thần Trà và Uất Lũng trong thần thoại. Trong tiểu thuyết “Tây du ký” của Ngô Thừa Ân đời Minh có thuật lại câu chuyện như sau: Tiểu Bạch Long không làm mưa đúng ngày giờ, phạm vào điều luật của trời, theo luật mà bị xử trảm, mới cầu cứu Đường Thái Tông. Đường Thái Tông vì không cứu được Tiểu Bạch Long theo lời hứa, đêm về nằm mộng nghe thấy tiếng kêu của quỷ chính là tiếng của Tiểu Bạch Long đòi mạng, không cách nào an giấc được. Sáng hôm sau ông đem chuyện này nói với đại thần trong triều. Đại tướng Tần Quỳnh tâu với hoàng đế rằng mình sẽ mặc giáp trụ, cầm kiếm cầm giản (loại binh khí cổ) giữ ở cửa cung. Một vị đại tướng khác là Úy Trì Kính Đức cũng nguyện vì hoàng thượng mà ra sức bảo vệ. Thái Tông đồng ý. Đêm đó Đường Thái Tông quả nhiên được an giấc, không mơ thấy tiếng kêu của quỷ nữa. Từ đó về sau Đường Thái Tông có thể yên lòng vỗ giấc, nhưng ông không nhẫn tâm để hai vị tướng cứ đêm đêm giữ ở cửa cung, bèn hạ lệnh vẽ hình hai người Tần Quỳnh và Úy Trì Kính Đức treo ở hai bên cửa cung cấm, quỷ cũng không dám lại gần. Ngày tháng lâu dần sự việc này được truyền đi xa, trên làm dưới bắt chước, thế là dân gian lấy hai người này làm “môn thần”. Truyền thuyết này được truyền rộng rãi trong dân gian, có thể nói Tây du ký là thu thập những câu chuyện dân gian chỉnh sửa mà thành, nó đã chứng minh nguyên nhân của sự thay đổi “môn thần”.
Đời Đường còn xuất hiện một vị thần giữ cửa khác đó là thần Chung Quỳ. Sự xuất hiện của ông hơi muộn, nhưng cũng là thần giữ cửa phổ biến trong dân gian. Trong “Bổ bút đàm” của Thẩm Quát đời Tống nói: năm Khai Nguyên, Đường Minh Hoàng (Huyền Tông) từ Li Sơn Hiệu Dương trở về, đột nhiên bị bệnh sốt rét ác tính. Ngự y đã dùng nhiều loại thuốc nhưng hơn một tháng vẫn không thấy chuyển biến tốt. Vào một đêm khuya nọ, Minh Hoàng mộng thấy một con quỷ nhỏ, mặc dồ màu hồng, một chân đi ủng, một chân để trần, giữa thắt lưng treo một chiếc ủng, lấy trộm tử hương của Dương quý phi và ống sáo ngọc của Đường Minh Hoàng vượt khỏi cung điện tẩu thoát. Minh Hoàng giận dữ quở mắng tiểu quỷ, con quỷ nhỏ tự xưng là “Hư Hao”. Lúc này thấy một con quỷ lớn đội một cái nón rách, mặc áo bào màu lam, buộc thắt lưng sừng, đuổi theo bắt con quỷ nhỏ, lấy tay móc đôi mắt của con quỷ nhỏ bỏ vào miệng ăn. Đường Minh Hoàng hỏi nó là ai, quỷ tâu rằng: thần tiến sĩ Chung Quỳ ở cuối Nam, vì dự khoa thi không đậu, va vào bậc thang điện thờ mà chết, phụng chỉ ban lục bào mà mai táng, thề rằng diệt trừ yêu nghiệt Hư Hao dưới trời. Đường Minh Hoàng tỉnh mộng thì hết bệnh. Thế là gọi một họa sĩ nổi tiếng tên là Ngô Đạo Tử đến vẽ hình Chung Quỳ. Ngô Đạo Tử dựa vào miêu tả của Đường Minh Hoàng mà vẽ thành, Đường Minh Hoàng xem kỹ bức tranh rồi nói: “Chẳng lẽ khanh có cùng giấc mộng với Trẫm hay sao mà lại vẽ giống thế này!”. Rồi thưởng cho Ngô Đạo Tử trăm lạng vàng, đem treo bức tranh ở cửa hậu tế. Hậu thế theo đó mà bắt chước vẽ thần Chung Quỳ trừ tà, vậy là trở thành thần giữ cửa . Đời Tống, “Chung Quỳ đánh quỷ” là một bức tranh thường thấy, không ít các họa sĩ lớn đời Nguyên Minh Thanh đã vẽ tranh đề tài Chung Quỳ. Tương truyền trong dân gian rằng: con dơi xuất hiện vào ban đêm, có thể biết được chỗ quỷ ẩn trốn, Chung Quỳ liền gọi dơi làm trợ thủ, cho nên thường thấy dơi cùng xuất hiện trong tranh. Hoạ gia còn mượn đồng âm “bức” (蝠 fu - con dơi) và “phúc” (福 fu - phước), vẽ con dơi bay trên không trung và đề “phúc tùng thiên giáng” (phước từ trên trời xuống); vẽ Chung Quỳ một tay cầm kiếm chỉ dơi và đề “chỉ kiến phúc lai”, hoặc “dẫn phúc nhập đường”. Các tiêu đề loại như vậy làm tăng thêm điềm tốt lành của bức tranh Chung Quỳ trừ tà đón phước, được dân chúng rất hoan nghênh.
Đến thời Bắc Tống cùng với sự phát triển của kỷ thuật điêu khắc gỗ, xuất hiện tranh tết bằng ván gỗ, gọi là “chỉ họa” (đến ngày nay các nơi Trung Nguyên những người lớn tuổi còn gọi tranh tết là “chỉ họa”). Tranh tết khắc bằng gỗ sớm nhất mà hiện nay có thể thấy đó là Tống bản, gọi là “Tuỳ triều yểu điệu trình khuynh quốc chi phương dung”, vẽ bốn nguời đẹp trong lịch sử Trung Quốc là Vương Chiêu Quân, Triệu Phi Yến, Ban Cơ, Lục Châu, gọi là “tứ mỹ đồ”.
Về mặt nội dung mà nói, tranh tết trước triều Minh phần lớn là thần giữ cửa, Táo quân, Chung Quỳ, Tứ đầu lộc mã v.v.. Đến thời Minh, đề tài của tranh tết mới nhiều hơn, và từ quỷ thần chuyển sang con người, xã hội. Xuất hiện các nội dung đại loại như “Bát tiên khánh thọ”, “nhị thập tứ hiếu”, “cữu cữu tiêu hàn đồ”, “nhất đoàn hòa khí đồ”. Đến đời Thanh, đề tài tranh tết càng phong phú hơn, nhiều đến mức không còn sót nội dung gì, như chính trị, quân sự, tôn giáo, lịch sử, địa lý, văn học, nghệ thuật, cho đến phong cảnh, phong tục dân gian v.v., các mặt đều thể hiện. Lúc này tranh tết thành một bộ bách khoa toàn thư về dân gian, văn hóa Trung Quốc ẩn ở trong ấy.
Sản phẩm tranh gỗ Trung Quốc ở khắp các tỉnh, điều kiện sống, phong tục của nhân dân ở các địa phương khác nhau nên tranh cũng có sự khác biệt lớn, tranh tết cũng hình thành một đặc sắc của địa phương. Nơi sản xuất tranh tết nổi tiếng của cả nước có chín địa phương Hà Bắc, Tần Tấn, Sơn Đông, Tứ Xuyên, Lưỡng Quảng, Giang Triết, Dự Hoản, Tương Ngạc, Mân Đài. Ba loại tranh khắc gỗ dân gian lớn nổi tiếng nhất Trung Quốc là: tranh dương liễu xanh Thiên Tân, tranh đào hoa Tô Châu, tranh duy phương Sơn Đông. Chúng đều xuất hiện vào cuối đời Minh, đã có lịch sử trên ba trăm năm mươi năm, có vị trí quan trọng trong lịch sử tranh bản Trung Quốc.
Những năm cuối triều Thanh, tranh lịch tết và việc treo tranh lịch tết phổ biến đột ngột ở Thượng Hải, và nhanh chóng phát triển trên toàn quốc. Người thương nhân Thượng Hải là Trịnh Mạn Đà đã kết hợp tranh tết và lịch tháng thành một, sử dụng máy móc mà ấn thành, nội dung phần lớn là chọn đề tài về nhân vật truyền thống hoặc người đẹp, thời trang, trên tranh có lịch tháng gồm kỷ nguyên công lịch và âm lịch, gọi là tranh lịch tết.
Đêm giao thừa dán chữ “phúc 福” cũng có bước phát triển đồng thời với tranh tết. Ngày ba mươi tết, người ta lấy chữ “phúc” mà được viết trên giấy đỏ dán ở giữa nhà, ở trên tường trong phòng, trên cửa sổ, với ý nghĩa “nghinh xuân đón phúc”. Dán chữ “phúc” là người ta muốn gửi ước nguyện tốt đẹp vào năm mới và mong cầu cuộc sống mỹ mãn. Vậy thì “phúc” là gì? Nó không chỉ là hạnh phúc như chúng ta thường nói. “Phúc” trong thư tịch cổ giải thích rất nhiều nghĩa như “phù hộ, vui mừng, thiện, tốt lành, …”, nhìn chung nó có hàm ý là “trường mệnh phú quý”, “kiết tường như ý”. Trong “Hàn Phi Tử” thư tịch cổ Tiên Tần nói: “toàn thọ phú quý gọi là phúc”. Có nghĩa là sống lâu lại được giàu sang tức là “phúc”. Câu đối tết ngày xưa cũng thường gắn với chữ “phúc” và “thọ”, như câu đối tết vẫn thường thấy “Phúc như đông hải trường lưu thủy, thọ tỷ nam sơn bất lão tùng”. Phúc còn liên quan mật thiết với “thiện”, chỉ có hướng thiện làm điều thiện mới có điềm lành, bình an, mới có thể bảo đảm được phú quý và trường thọ. Do vậy mà một chữ “phúc” có thể khái quát được kỳ vọng của nhân dân Trung Quốc đối với cuộc sống thực tại, lại còn thể hiện khác vọng của con người đối với sự sinh tồn lý tưởng này, có nội hàm văn hóa phong phú.
Dán xong chữ “phúc” tiếp tục dán câu đối năm mới cát tường được viết một cách đặc biệt. Trên cót lương thực, vò gạo dán “Ngũ cốc phong đăng”, “Mễ diện như sơn”. Trên tủ thì dán “Hoàng kim vạn lượng”. Trên đầu giường dán “Thân thể kiện khang”. Trên máng gia súc thì viết “Tào đầu hưng vượng”. Trên lồng gà chuồng vịt thì dán “Kê áp thành quần”. Trên xe cộ thì dán “Nhật hành vạn lý”, “Xuân hạ thu đông dụng, đông tây nam bắc hành”, “Tứ quý bình an” v.v.. Trên cây trong vườn hoa sân nhà dán “Xuân quang minh mị”, “Đại kiết đại lợi”, “Các tường như ý” v.v.. Các câu này giống như là có hàm ý giải thích chữ “Phúc” trên nhiều phương diện cụ thể, được người ta xem là mục tiêu của cuộc sống.
Treo tranh tết xong, dán chữ “phúc” xong, cả nhà trong ngoài tràn ngập bầu không khí sáng sủa may mắn tốt lành, càng tăng thêm sự náo nhiệt ngày xuân.
Nguồn: Người dịch
Tài liệu dịch:
Huỳnh Cảnh Xuân 2001: Phong tục lễ tết Trung Quốc. – NXB: Thượng Hải từ thư [黄景春:《中国新年礼俗》,上海辞书出版社,2001年]