ĐẶC TRƯNG VÀ HÀM NGHĨA CỦA TỪ “VĂN HÓA”
1. Giới thuyết “Văn hóa”
Từ “Văn hóa” đã có từ rất lâu trong hệ thống ngôn ngữ Trung Quốc.
Nghĩa gốc của “văn”, trong “Thuyết văn” giải thích là “đường nét đan xen nhau”, chỉ các loại hoa văn đan xen nhau, ý nghĩa này được mở rộng chỉ các loại ký hiệu tượng trưng bao gồm ngôn ngữ văn tự. (卡西尔) Kaxier nói “người là động vật ký hiệu”, sự sáng tạo văn hóa của con người cũng chính là sáng tạo ra một thế giới ký hiệu. Sau này “văn” được mở rộng thêm nhiều tầng nghĩa khác. Thứ nhất, cụ thể hóa là văn vật điển tích, chế độ lễ nhạc, văn chỉ các “đạo nghệ” đối lập với “đức hạnh”. Trong lời tựa sách Thượng Thư có ghi rằng Phục Hy vẽ Bát quái, tạo ra chữ viết, từ đó mà văn chương sách vở được sinh ra. Thiên Tử Hản sách Luận ngữ có ghi lại lời của Khổng Tử rằng: “Văn Vương ký một, văn bất tại tư hồ” (Văn Vương đã mất rồi, thì văn có còn ở đây nữa không). Thứ hai, từ nghĩa “hoa văn” như trên cho ra nghĩa tô điểm những gì đẹp đẽ, mở rộng nghĩa là làm cho đẹp đẽ thêm, gia công thêm, vẽ ngang vẽ dọc tô điểm cho trời đất, “văn” đối lập với “chất”, “văn” đối lập với “thực”. Cho nên thiên Nghiêu điển sách Thượng Thư viết rằng “kinh vĩ thiên địa viết văn” (vẽ ngang vẽ dọc tô điểm cho trời đất là văn), thiên Ung dã sách Luận ngữ nói rằng: “chất thắng văn tắc dã, văn thắng chất tắc sử, văn chất bân bân, nhiên hậu quân tử” (chất trội hơn văn là hoang dại, văn trội hơn chất là “sử” (史), văn chất hòa nhau, đó là quân tử”. Thứ ba, từ hai tầng nghĩa trên, tiến thêm bước nữa “văn” được suy diễn là đẹp, thiện, văn đức giáo hóa, và văn từ, văn chương, “văn” đối lập với “chất phác”, hoặc đối lập với “võ”. Trịnh Huyền viết “văn ưu mỹ dã, thiện dã” (văn là mỹ, là thiện).
Nghĩa gốc của “Hóa” là biến, cải, hóa sinh, tạo hóa, hóa dục. Thiên Tiêu Dao Du sách Trang Tử viết: “Hóa nhi vi điểu, kỳ danh viết bằng” (hóa thành con chim, tên của nó là chim Bằng). Thiên Hệ từ hạ sách Chu Dịch: “nam nữ cấu tinh, vạn vật hóa sinh” (nam nữ giao hòa tinh khí, thì vạn vật sinh thành). Thiên Tố vấn sách Hoàng đế nội kinh có câu: “hóa bất khả đại, thời bất khả vi” (sự biến hóa thì không thể thay thế được, thời thì không thể đi ngược lại được). Thiên Trung Dung sách Lễ ký: “khả dĩ thán thiên địa chi hóa dục” (có thể khen ngợi sự hóa dục của thiên địa). Chung quy lại, “hóa” chỉ hai vật tiếp xúc nhau, thì một hoặc cả hai thay đổi hình thái, tính chất. Ý nghĩa này được mở rộng chỉ giáo dục hành động, hướng đến cái thiện, khuyến cáo làm cho người hồi tâm, “hóa nhi thành chi” (biến hóa mà thành).
Việc sử dụng liên kết hai từ “văn” và “hóa” đã sớm thấy trong Dịch truyện do Nho sinh cuối thời Chiến quốc biên tập. Tượng truyện trong thiên Bôn quái sách Dịch nói rằng “cương nhu giao thố, thiên văn dã. Văn minh dĩ chỉ, nhân văn dã, quán hồ thiên văn, dĩ sát thời biến; quán hồ nhân văn, dĩ hóa thành thiên hạ” (cương nhu giao hòa nhau, là thiên văn. Văn minh đến đúng mức của nó, là nhân văn, xem xét thiên văn, quan sát sự biến đổi của thời tiết tự nhiên, xem xét nhân văn, lấy sự biến hóa mà thành thiên hạ).
Chữ “văn” ở đây là từ nghĩa hoa văn diễn giải mà ra. “Thiên văn” chỉ quy luật tự nhiên của đạo trời, “nhân văn” chỉ quy luật xã hội nhân luân, tức là chỉ mối quan hệ đan xen ngang dọc giữa người với người trong cuộc sống như chồng vợ, cha con, anh em, bạn bè, vua tôi, làm thành mạng lưới phức tạp, giống như hiện tượng hoa văn. Đoạn này cho thấy người trị quốc phải quan sát thiên văn mà hiểu rõ sự biến hóa của thời thế trật tự, cũng phải quan sát nhân văn, khiến cho người trong thiên hạ có thể tuân theo văn minh lễ nghi, tư tưởng “lấy văn giáo hóa” đã quá rõ ràng.
Sau thời Tây Hán, “văn” và “hóa” hợp thành một từ hoàn chỉnh. Văn hóa có ý nghĩa là “văn trị giáo hóa”. “Văn hóa” ở đây đối lập với “võ công”, hoặc đối lập với cái tự nhiên do trời đất tạo ra, hoặc đối lập với cái “dã man”, cái “chất thực” chưa được giáo hóa.
Trong hệ thống ngôn ngữ các dân tộc phương Tây, có nhiều từ tương ứng với “văn hóa”. “Văn hóa” tiếng Đức là Kultur, tiếng Anh tiếng Pháp là culture, đều xuất phát từ tiếng Latinh Cultura. Tiếng Latinh “Cultura” có rất nhiều nghĩa như trồng trọt, cư trú, luyệt tập, kính thần, lưu tâm, v.v., nhưng chủ yếu là nghĩa trồng trọt. Nghĩa được mở rộng hơn là giáo hóa tâm linh, phong cách, tinh tấn, tri thức của con người. Ý nghĩa này gần với hàm ý “văn trị giáo hóa” của từ “văn hóa” cổ đại Trung Quốc. Chỗ khác nhau là “văn hóa” của Trung Quốc ban đầu vốn chỉ về lĩnh vực tinh thần, còn culture lại phát sinh từ hoạt động sản xuất vật chất của con người, sau đó mới mở rộng đến lĩnh vực tinh thần. Phân tích từ ý nghĩa này, hàm nghĩa của culture rộng hơn của “văn hóa”, lại càng phù hợp với một từ khác trong hệ thống ngôn ngữ Trung Quốc đó là từ “văn minh”. “Văn minh” tìm về từ nguyên, như Khổng Dĩnh Đạt đời Đường khi giải thích “Hác trí văn minh” (thiên Nghiêu Điển sách Thượng Thư) nói rằng: “kinh thiên vĩ địa viết văn, chiếu lâm tứ phương viết minh” (vẽ ngang vẽ dọc tô điểm cho trời đất là văn, chiếu sáng khắp tứ phương là minh), “Văn minh” là từ sự sáng tạo vật chất của con người (đặc biệt là việc dùng lửa) mở rộng đến ánh sáng tinh thần chiếu sáng khắp mặt đất. Cho nên từ “văn minh” càng gần với từ Văn hóa nghĩa rộng bao gồm sáng tạo vật chất và sáng tạo tinh thần mà chúng ta thường giải thích.
Văn hóa là một khái niệm mang nội hàm phong phú được nhiều nhà khoa học tìm tòi nghiên cứu, khởi đầu là ở Châu Âu thời cận đại. Suy xét nguyên nhân mà văn hóa được các nhà khoa học quan tâm đến, chủ yếu có liên quan đến những nhân tố sau:
Thứ nhất, qua nhiều phong trào văn hóa phản phong kiến từ thời phục hưng, người ta nhận thức rằng, phong tục, tín ngưỡng, hình thái xã hội cho đến ngôn ngữ, không phải như người ta nói trong thế kỷ thần học đọng lại không thay đổi, mà là có một quá trình động thái mang tính lịch sử.
Thứ hai, do phát kiến địa lý mà trong quá trình thám hiểm thế giới và mở rộng bờ cõi của thực dân khởi lên mạnh mẽ, người Châu Âu phát hiện rằng, chế độ xã hội, phong tục tập quán, ngôn ngữ văn tự ở những nơi khác nhau có sự khác biệt rất xa, văn hóa của con người lộ ra dáng vẻ đa dạng phức tạp.
Văn hóa lưu truyền biến đổi theo thời gian và có sự khác biệt theo không gian, gây hứng thú cao cho các nhà tư tưởng. Từ thời cận đại, sự tiến bộ vượt bậc của sức sản xuất xã hội đã làm cho điều kiện nghiên cứu được cải thiện lớn, đặc biệt là xã hội phát triển theo xu thế đặt ra nhu cầu cấp bách về bồi dưỡng tinh thần, càng thúc đẩy việc nghiên cứu văn hóa một cách chuyên môn hóa tiến triển một bước dài, và đã cơ bản hình thành như sau:
Nhân loại phát triển từ “loài thú đứng thẳng” “ăn sống nuốt tươi, mờ mịt về đạo nhân”, dần dần hình thành nên cái “đạo nhân” vừa có mối liên hệ vừa có sự khác biệt với “đạo trời”, đây là một quá trình sáng tạo văn hóa. Trong sự sáng tạo và phát triển văn hóa này, chủ thể là con người, khách thể là tự nhiên, mà văn hóa là sự thống nhất của các mặt đối lập con người và tự nhiên, khách thể và chủ thể. Cái gọi là “tự nhiên” ở đây, không chỉ nói về giới tự nhiên tồn tại bên ngoài và đối lập với bản thân con người, mà còn chỉ bản năng con người, các tính chất của thân thể con người, tính tự nhiên nội tại. Xuất phát điểm của văn hóa là dựa vào hoạt động cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội, tiến đến cải tạo con người. Con người sáng tạo văn hóa, đồng thời văn hóa cũng sáng tạo con người. Do vậy, hàm nghĩa thực chất của văn hóa là “nhân loại hóa”, là quá trình chủ thể con người thông qua hoạt động thực tiễn, thích ứng, lợi dụng, cải tạo khách thể giới tự nhiên mà dần dần hình thành quan niệm giá trị của mình. Thành quả của quá trình này vừa phản ánh sự thay đổi không ngừng của công năng, hình thái, diện mạo tự nhiên, vừa phản ánh sự nâng cao và hoàn thiện không ngừng ở con người cá thể và tố chất quần thể.
Nói tóm lại, phàm tất cả các hoạt động mà vượt qua bản năng, có tác dụng một cách có ý thức đối với giới tự nhiên và xã hội cùng với kết quả của nó, đều thuộc về văn hóa; hoặc nói rằng “nhân hóa tự nhiên” tức là văn hóa.
2. Khái niệm “văn hóa”
Trong thời gian dài người ta sử dụng khái niệm “văn hóa”, nội hàm và ngoại diên của nó có sự khác biệt rất lớn, đến nay đã có hơn 160 định nghĩa về văn hóa (do một học giả người Mỹ tổng kết lại). Định nghĩa tuy nhiều, nhưng trên đại thể có thể phân thành hai loại văn hóa nghĩa rộng và văn hóa nghĩa hẹp.
“Văn hóa” nghĩa rộng là chỉ tất cả của cải vật chất và tinh thần do con người sáng tạo nên. Nó nói lên sự khác biệt về bản chất giữa con người và động vật nói chung, giữa xã hội loài người và giới tự nhiên, nói lên phương thức sinh tồn đặc biệt của con người cao hơn giới tự nhiên, nghĩa bề mặt rất rộng, được gọi là “đại văn hóa”. Do nội dung phong phú của nó mà có những phân loại rất khác nhau. Có khi văn hóa được phân thành hai loại văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần; có khi văn hóa được phân thành ba loại: văn hóa vật chất, văn hóa chế độ, văn hóa tư tưởng; cũng có khi văn hóa được phân thành năm loại: văn hóa mang tính sinh sản, văn hóa mang tính đời sống, văn hóa mang tính giao tế, văn hóa mang tính chế độ, và văn hóa mang tính quan niệm.
“Văn hóa” nghĩa rộng lập luận về ý nghĩa “người sở dĩ trở thành con người”, cho rằng chính sự xuất hiện của văn hóa mà “biến con người động vật thành con người sáng tạo, con người tổ chức, con người tư tưởng, con người biết nói, và con người kế hoạch”, do vậy xã hội loài người – toàn bộ đời sống lịch sử tất cả đều thuộc về “văn hóa”.
Văn hóa theo nghĩa hẹp thì ngược lại với văn hóa nghĩa rộng.
Văn hóa nghĩa hẹp chủ yếu bao gồm văn hóa chế độ và văn hóa tư tưởng mà con người sáng tạo ra. Trong nhiều sách viết rằng văn hóa theo nghĩa hẹp chỉ thiên về mặt văn hóa tư tưởng. Nó loại trừ xã hội loài người – bộ phận hoạt động sáng tạo vật chất và kết quả của hoạt động sáng tạo vật chất trong đời sống lịch sử, nó chuyên về hoạt động sáng tạo tinh thần và kết quả của hoạt động sáng tạo tinh thần, cho nên được gọi là “tiểu văn hóa”. Năm 1871 theo quyển "văn hóa nguyên thủy” của nhà văn hóa học người Anh Tylor, văn hóa là “một chỉnh thể phức hợp bao gồm tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, pháp luật, tập tục và năng lực tập quán có được của bất cứ người nào là thành viên của xã hội”, đây là lý thuyết kinh điển thời kỳ sớm của văn hóa nghĩa hẹp. Trong hệ thống ngôn ngữ Hán, nghĩa gốc của văn hóa là “lấy văn giáo hóa”, tức thuộc phạm trù của “tiểu văn hóa”. Đầu thập niên 40 thế kỷ XX, Mao Trạch Đông khi đề cập đến văn hóa chủ nghĩa dân chủ mới nói rằng “một nền văn hóa nhất định là sự phản ánh chính trị và kinh tế về mặt hình thái quan niệm của một xã hội nhất định”. Văn hóa ở đây cũng thuộc về văn hóa theo nghĩa hẹp.
Đương nhiên, theo lôgich văn hóa nghĩa hẹp thuộc về văn hóa nghĩa rộng, chúng tồn tại trong mối liên hệ không thể tách rời. Chúng tôi khi nghiên cứu về sáng tạo tinh thần của nhân loại, không thể bỏ qua tác dụng quyết định và ý nghĩa cơ sở của hoạt động sáng tạo vật chất; ngược lại cũng vậy. Chúng ta không thể tách một cách rạch ròi giữa “đại văn hóa” và “tiểu văn hóa”, đây là một yêu cầu cơ bản của phương pháp luận và văn hóa quan chủ nghĩa duy vật lịch sử.
3. Mối quan hệ giữa văn hóa và văn minh
Hai khái niệm văn hóa và văn minh có mối quan hệ cũng có sự khác biệt. Mối quan hệ của chúng chủ yếu thể hiện ở, văn hóa là cơ sở của văn minh, nhưng không nhất định văn hóa có thể sinh ra văn minh. (路易地-多洛) LuYiDi – DuoLuo trong Văn hóa cá thể và văn hóa đại chúng cho rằng “có một số nền văn hóa không trở thành nguồn gốc của văn minh vĩ đại”. Khởi nguyên của văn minh, các học giả có xu hướng cho rằng sự phát minh và sử dụng văn tự là sự mở đầu của nó. Mác cho rằng còn nên bao gồm việc xác lập phân công xã hội. Nền văn minh, tính từ khi lịch sử văn tự ra đời, sớm nhất không quá sáu bảy ngàn năm. Nhà lịch sử học người Anh (汤因比) TangYinBi trong quyển Nghiên cứu lịch sử nói rằng “nếu như chúng ta nói là toàn bộ lịch sử của nhân loại trên quả địa cầu, vậy thì chúng ta đã có thể phát hiện ra thời gian ra đời của văn minh, so với thời gian lịch sử toàn bộ nhân loại thực ra có một khoảng cách rất xa. Nó chỉ vỏn vẹn chiếm hai phần trăm hoặc một phần năm mươi thời gian toàn nhân loại. Văn minh cũng thuộc trong văn hóa, sự tiến bộ của văn minh dựa vào sự phát triển của văn hóa, còn sự phát triển của văn hóa tất nhiên thúc đẩy sự tiến bộ của văn minh. Sự khác biệt của chúng chủ yếu là: văn hóa là tư chất bẩm sinh của con người trái với trạng thái động vật, là bản chất quy định việc trở thành người của con người; còn văn minh là trạng thái trái ngược với sự dã man của chính con người, chú trọng ở phương diện văn trị giáo hóa, quy phạm lễ nghi, tu dưỡng đức tính. Chính vì vậy chúng ta mới nói con người là động vật văn hóa mà không nói con người là động vật văn minh.
4. Đặc trưng của văn hóa
Biết được đặc trưng vốn có của văn hóa có ý nghĩa quan trọng đối với việc nhận biết chính xác và phân tích hiện tượng văn hóa. Văn hóa có những đặc trưng như sau:
(1). Tính tượng trưng
Tính tượng trưng của văn hóa chỉ tất cả các hiện tượng văn hóa chẳng qua đều là tượng trưng hoặc phản ánh loại hình văn hóa cụ thể. Ví dụ như rìu đá vốn nó không phải là văn hóa, nhưng nó phản ánh năng lực và kỹ thuật chế tạo công cụ của con người xã hội nguyên thủy. Giống như vậy, thái cực quyền là tượng trưng của văn hóa Trung Quốc, “相扑” là tượng trưng cho văn hóa Nhật Bản. Nhà bạt Mông Cổ là tượng trưng cho văn hóa dân tộc Mông Cổ, v.v.. Văn hóa sở dĩ có đặc trưng này là bởi vì văn hóa là hệ thống mềm tạo nên xã hội, nó phản ánh ý nghĩa đặc biệt của con người thông qua hiện tượng hoặc sự vật cụ thể. Do đó hiện tượng hoặc sự vật cụ thể chỉ là tượng trưng hoặc phản ánh ý nghĩa văn hóa đặc biệt nào đó của con người, chứ nó không ngang hàng với nền văn hóa nào đó. Từ tính tượng trưng của văn hóa có thể liên tưởng đến tính mô thức và tính ký hiệu của văn hóa. Nhà nhân học người Mỹ Ruth Benedict thông qua việc nghiên cứu văn hóa các bộ tộc khác nhau người Anh Điêng Bắc Mỹ và dân tộc Nhật Bản, cho rằng văn hóa là những “mô thức” mang đầy cá tính đặc biệt. Bà đã gọi văn hóa các bộ tộc Anh Điêng là “Nhật Thần hình”, “tửu thần hình”, “vọng tưởng cuồng hình”, khái quát mô thức văn hóa Nhật Bản là “hoa cúc và dao”. (卡西尔) KaXiEr trong Nhân luận cho rằng “tư duy ký hiệu hóa và hành vi ký hiệu hóa là đặc trưng mang tính đại diện phong phú nhất trong đời sống con người, và toàn bộ sự phát triển của văn hóa nhân loại đều dựa vào điều kiện này”. Bất kỳ một nền văn hóa nào đều biểu hiện một số ký hiệu tượng trưng hoặc hệ thống các ký hiệu.
(2). Tính phức hợp
Tính phức hợp của văn hóa chỉ bất kỳ một hiện tượng văn hóa nào cũng đều thuộc một hệ tổ hợp của các hiện tượng văn hóa có mối quan hệ nội tại, nó chủ yếu thể hiện trên hai phương diện: Thứ nhất, xoay quanh một hoạt động xã hội nào đó có thể sinh ra một loạt các hiện tượng văn hóa tương quan. Ví dụ như hoạt động tôn giáo, thì bao gồm các hiện tượng văn hóa tôn giáo như giáo lý tôn giáo, nghi thức tôn giáo, kiến trúc tôn giáo, tổ chức tôn giáo v.v.. Thứ hai, bất kỳ hiện tượng văn hóa nào cũng không tồn tại độc lập. Nó luôn tổ hợp cùng với hiện tượng văn hóa khác, tạo nên một hệ thống văn hóa phức tạp. Ví dụ như hiện tượng văn hóa giáo dục, có mối liên hệ không thể tách rời với chế độ chính trị, trình độ khoa học chính trị.
(3). Tính dân tộc
Các dân tộc khác nhau ở môi trường khác nhau dần dần hình thành phương thức sản xuất và phương thức sinh hoạt khác nhau, sinh ra những loại hình văn hóa khác nhau. Đây chính là tính dân tộc của văn hóa. Tính dân tộc văn hóa của dân tộc này khác với tính dân tộc văn hóa của dân tộc khác, đó là đặc trưng làm cho văn hóa dân tộc này khác với văn hóa dân tộc kia. Bất kỳ đặc điểm văn hóa của dân tộc nào cũng đều phải thông qua tác dụng tổng hợp của các điều kiện mà văn hóa dựa vào tồn tại, qua thời gian dài tích lũy mới hình thành nên, tính dân tộc của văn hóa được tích lũy trong ý thức của một dân tộc.
Sự tiến bộ của nhân loại dựa vào sự tiến bộ của các dân tộc, phải dựa vào việc phát huy đặc sắc văn hóa của các dân tộc mà làm phong phú tính đa dạng của văn hóa thế giới, như ông (熊十分) XiongShiFen trong Luận lục kinh có nói “ thế giới đại đồng tương lai, dựa vào các hệ thống văn hóa, mỗi hệ thống phát huy sở trường của mình, sau đó so sánh lẫn nhau, học tập lẫn nhau, dung hợp lẫn nhau”. Việc phát triển đặc trưng dân tộc có ích đối với mỗi dân tộc, đều là cống hiến quý báu đối với văn hóa toàn nhân loại. Với ý nghĩa này văn hóa càng là của dân tộc, càng là của nhân loại.
(4). Tính thời đại
Tính thời đại của văn hóa chỉ trong cùng một dân tộc, do quy luật vận động của tự thân văn hóa và sự thay đổi của môi trường, mà ở những giai đoạn lịch sử khác nhau xuất hiện những hình thái khác nhau. Tính thời đại của văn hóa cũng giống như tính dân tộc của văn hóa, không phải là tác phẩm tuỳ ý do tinh thần chủ quan của con người tạo ra, mà là được hình thành và phát triển dần dần trong quá trình các dân tộc không ngừng thích ứng và cải tạo môi trường xã hội và tự nhiên.
(5). Tính địa vực (tính địa phương/tính khu vực/ tính vùng)
Tính khu vực của văn hóa chủ yếu chỉ trong phạm vi rộng lớn của văn hóa dân tộc có tính khu vực văn hóa tồn tại. Ví dụ như trong lịch sử Trung Quốc có văn hóa Trung nguyên, văn hóa Sở, văn hóa Tề Lỗ, văn hóa Ngô Việt, văn hóa Tấn v.v.. như nói về hí khúc, Lô kịch của Thượng Hải, Côn kịch của Tô Châu, Tích kịch của Vô Tích, Hoài kịch của Tô Bắc, mỗi loại có hàm ý văn hóa địa phương sâu sắc.
(6). Tính cộng hưởng
Tính cộng hưởng của văn hóa là chỉ văn hóa có đặc tính được một cộng đồng, một xã hội, cho đến toàn nhân loại cùng chung hưởng. Từ tính cộng hưởng của văn hóa có thể suy ra các đặc tính khác của văn hóa, như văn hóa có tính khuếch tán và tính thẩm thấu, tính dây chuyền và tính kế thừa. Các đặc tính này của văn hóa có mối liên hệ mật thiết với tính cộng hưởng của văn hóa. Chính vì văn hóa có tính khuếch tán và tính kế thừa, văn hóa mới có thể được người nơi khác hoặc người đời sau cùng tiếp nhận, ngược lại chính vì văn hóa có tính cộng hưởng mà nó mới có thể lan tỏa. Tính cộng hưởng của văn hóa không giống như tính cộng hưởng ở của cải vật chất. Khi người ta đem một phần của cải của họ góp chung với người khác thì số lượng còn lại của họ sẽ giảm đi, nhưng tính cộng hưởng của văn hóa không làm cho tài nguyên văn hóa vốn có ban đầu giảm đi.
ĐẶC TRƯNG CỦA VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG TRUNG QUỐC
Đặc trưng của văn hóa truyền thống trung quốc là gì? Từ thời “Ngũ Tứ” trở đi, rất nhiều học giả khi nghiên cứu so sánh văn hóa Trung Tây, đã đưa ra nhiều quan điểm. Từ thập niên 80 thế kỷ XX, một lần nữa người ta bàn luận đến vấn đề này, khi đó nhận thức của con người được nâng cao hơn rất nhiều. Nhưng văn hóa của một dân tộc hoặc một quốc gia rất rối rắm phức tạp, trong đó có sự khác biệt lớn giữa các giai đoạn lịch sử, dân tộc, giai cấp, khu vực, thời đại, lại bao gồm các thành phần và thành tố văn hóa mang tính tích cực và tiêu cực các loại, cho nên rất khó mà nắm được một cách chính xác và toàn diện. Trong quyển Cơ sở văn hóa Trung Quốc, Ông (梁漱溟) LiangShuMing khi bàn về đặc trưng của văn hóa Trung Quốc đã thốt lên rằng “lạ thay! Lạ thay!, khó mà nói một cách rõ ràng được”, các học giả khác cũng có những tổng kết và kết luận nghiên cứu khác nhau, đủ để thấy được tính phức tạp của vấn đề này, cho nên ở đây chỉ đưa ra một khái quát cơ bản.
1. Sức ngưng tụ và sức sống mạnh mẽ
Trên cánh rừng văn hóa thế giới, có bốn nước văn minh cổ đại lớn, cũng đã từng xuất hiện nhiều nền văn hóa ưu tú. Nhà lịch sử học người Anh (汤因比) TangYinBi cho rằng trong lịch sử nhân loại gần sáu ngàn năm đã xuất hiện 26 hình thái văn minh, nhưng trên thế giới chỉ có nền văn hóa Trung Quốc là phát triển trong thời kỳ dài liên tục mà không bị đứt đoạn. Sức sống mãnh liệt này là đặc trưng quan trọng của văn hóa Trung Quốc.
Sức sống mãnh liệt của văn hóa Trung Quốc thể hiện ở các mặt như sức đồng hóa, sức dung hợp, tính liên tục và ngưng tụ.
Cái gọi là “sức đồng hóa” là chỉ các yếu tố văn hóa bên ngoài sau khi nhập vào Trung Quốc dần dần bị Trung Quốc hóa và trở thành một bộ phận của văn hóa Trung Quốc. Ví dụ điển hình nhất là việc du nhập và Trung Quốc hóa đối với văn hóa Phật giáo. Phật giáo được sinh ra ở Ấn Độ, khoảng thời Lưỡng Hán thế kỷ I công nguyên bắt đầu truyền vào Trung Quốc, qua mấy trăm năm Ngụy Tấn, Tùy Đường, một bộ phận biến thành Phật giáo Trung Quốc hóa, như Thiền tông; một bộ phận được hòa tan trong lý học Tống Minh, trở thành bộ phận của văn hóa Trung Quốc.
Cái gọi là “sức dung hợp” là chỉ văn hóa Trung Quốc không phải là văn hóa Hán đơn thuần hoặc văn hóa lưu vực sông Hoàng Hà, mà là trên cơ sở văn hóa Hán thu hút một cách có động lực văn hóa các dân tộc trong biên giới Trung Quốc và các khu vực khác – văn hóa Sở, văn hóa Ngô, văn hóa Tây vực…, hình thành nên văn hóa Trung Hoa với nội hàm phong phú. Văn hóa các dân tộc Trung Hoa đều hòa trong mạch máu văn hóa Trung Quốc. Không có sự dung hợp này cũng không có sự vĩ đại tinh thâm của văn hóa Trung Quốc. Đương nhiên, sự dung hợp văn hóa các khu vực, các dân tộc cũng bao hàm nghĩa đồng hóa.
Sức dung hợp và đồng hóa của văn hóa Trung Quốc được hình thành trong lịch sử, nó làm cho văn hóa Trung Quốc có tính thống nhất, đồng thời nó không phải là hiện tượng văn hóa ngẫu nhiên đơn giản, mà nó là sự biểu hiện của sức sống văn hóa. Một dân tộc có sức sống văn hóa mạnh mẽ như vậy, trong lịch sử thế giới thật hiếm thấy. Nhà sử học người Anh 汤因比 (TangYinBi) đầu thập niên 70 thế kỷ 20 đã từng có cuộc đối thoại nổi tiếng với nhà hoạt động xã hội học giả Nhật Bản, trong cuộc đối thoại này ông nói rằng “nói về người Trung Quốc, mấy ngàn năm nay, đã đoàn kết hàng tỷ dân trên lĩnh vực văn hóa chính trị thành công so với bất kỳ dân tộc nào trên thế giới. Họ đã thể hiện bản lĩnh về thống nhất văn hóa chính trị, kinh nghiệm thành công đó không có gì có thể sánh được.”
Sức dung hợp và đồng hóa của văn hóa Trung Quốc là cơ sở nội tại của sức sống liên tục mà không gì sánh được. Văn hóa của một dân tộc có tính liên tục, tính tiếp diễn, tức là văn hóa của dân tộc này không bị đứt đoạn về mặt thời gian, khâu này mắc với khâu kia liên tục phát triển. Nếu xuất hiện bước nhảy mang tính gián đoạn về mặt thời gian, thì trong thời kỳ lịch sử này nó có tính thống nhất nhất định, và đạt được sự phát triển, trong thời kỳ lịch sử khác nó hoàn toàn mất đi tính thống nhất này, thậm chí đến sự tồn tại của bản thân nó cũng bị văn hóa của hệ thống khác thay thế, cho dù sau này trong thời kỳ lịch sử nào đó, nó lại khôi phục và phát triển, chẳng hạn như nền văn hóa của Ai Cập, Babilon, Hi lạp và La Mã cổ v.v.. Văn hóa Ai Cập do Alexandre đại đế chiếm lĩnh mà Hy Lạp hóa, César chiếm lĩnh mà La Mã hóa, Arập di cư vào và Islam hóa; văn hóa Ấn Độ do người Aryan xâm lược mà Aryan hóa, văn hóa Hy Lạp, La Mã do người Germain xâm lược mà cáo chung và ngủ giấc ngủ ngàn năm. Nhưng lịch sử văn hóa Trung Quốc qua ngàn năm chưa từng có gián đoạn, chứng tỏ rằng sức tiếp diễn liên tục của nó không gì có thể sánh được.
Sở dĩ văn hóa Trung Quốc có sức sống mạnh mẽ như vậy là có nhiều nguyên nhân. Hoàn cảnh địa lý đặc biệt của đại lục Đông Á làm cho nó có sự ngăn cách tương đối, từ đó mà hình thành một hệ thống văn hóa độc lập, thống nhất, có được sự phát triển liên tục, đây là điều kiện khách quan, việc chưa từng đứt đoạn của chính trị là nguyên nhân bên trong mà văn hóa Trung Quốc có được sức sống liên tục. Các thời đại trong lịch sử Trung Quốc chính trị biến đổi, chính quyền thay đổi luân phiên, suy cho cùng cũng diễn ra trong nội bộ đại gia đình Trung Quốc. Tuy có giai đoạn lịch sử lâu dài, dân tộc thiểu số chiếm lợi thế về quân sự, thậm chí nhiều lần thiết lập chính quyền thống trị mạnh mẽ, nhưng về phương diện văn hóa lại bị văn hóa Trung Nguyên tiên tiến mà đại biểu là văn hóa nông nghiệp Hoa Hạ đồng hóa một cách tự giác hay không tự giác, diễn ra màn kịch “kẻ chinh phục bị chinh phục”.
Sức sống mạnh mẽ của văn hóa Trung Quốc còn biểu hiện ở sức ngưng tụ lâu đời. Sức ngưng tụ này cụ thể biểu hiện ở nhận thức tự tôn của tâm lý văn hóa và nhận thức vùng văn hóa vượt khu vực, vượt biên giới. Sớm vào thời Tây Chu năm 1000 tr. CN, tổ tiên người Trung Hoa đã có quan niệm “Phi ngã tộc loại, kỳ tâm tất dị” (không phải là tộc loại ta thì lòng dạ sẽ khác) , để biểu đạt việc xác nhận tính tự tôn về mặt tâm lý văn hóa.
Chính vì vậy mà mãi đến hôm nay, hàng vạn người Hoa phiêu bạc ở chân trời gốc biển nào, có khi sinh con đẻ cái, nối dòng nối dõi ở nước ngoài, nhưng cuống rốn văn hóa của họ vẫn gắn bó với máu thịt người mẹ Trung Hoa, trong tiềm thức của họ, một giây một khắc cũng không quên được mình là con cái Trung Hoa, con cháu Viêm Hoàng. Là quốc tịch Mỹ người Hoa, Giáo sư (杨振宁) YangZhenNing [Dương Chấn Ninh] người đạt giải Nobel Vật lý nói: “tôi cảm thấy chế độ xã hội, quan niệm lễ giáo, nhân sinh quan của truyền thống Trung Quốc có sức trói buộc rất lớn đối với tôi”.
2. Tâm thức văn hóa nông nghiệp trọng thực tế, mong cầu ổn định
Người ta thường gọi hình thái văn minh với nền kinh tế nông nghiệp tự cung tự cấp làm chủ thể là “văn minh nông nghiệp”, phân biệt với “văn minh công nghiệp” sau cách mạng tư sản.
Chủ thể của văn hóa Trung Quốc, bất luận là học thuyết bách gia chư tử mà làm nên văn hóa tinh anh, hay là phong tục tín ngưỡng dân gian làm nên văn hóa đại chúng, phần lớn có thể quy kết trong phạm trù văn minh nông nghiệp với loại hình “canh tác chiếm vị trí chi phối”, phân công xã hội không phát triển, quy trình sản xuất và tái sản xuất ở trạng thái đình trệ, văn hóa Trung Quốc thuộc loại hình văn hóa nông nghiệp.
Mảnh đất phì nhiêu phía đông Châu Á được nuôi dưỡng bởi sông Hoàng Hà và Trường Giang đã tạo điều kiện vô cùng thuận lợi cho tổ tiên người Trung Hoa theo sản xuất nông nghiệp cày sâu cuốc bẫm. Mấy ngàn năm nay, chủ thể của người Trung Quốc – nông dân “mặt trời mọc ra đồng, mặt trời lặn về nghỉ, đào giếng mà uống nước”, cày cấy trên đồng ruộng, đời này qua đời khác, năm này sang năm kia vẫn theo tái sản xuất giản đơn, họ là những người gánh vác thuế khóa lao dịch của Nhà nước. Điều này đã đúc nên đặc trưng hình thái nông nghiệp của văn hóa cổ đại Trung Quốc, và trên cơ sở này hình thành “tính kinh nghiệm – thực dụng” , như xã hội trọng nông, tinh thần thiết thực trọng thực tế không ảo tưởng, tính cách sống “an thổ lạc thiên”, ý thức tuần hoàn và vĩnh hằng, v.v..
Trung Quốc, đất nước lấy nông nghiệp làm gốc sinh tồn, tiết tấu sản xuất nông nghiệp sớm đã có mối tương thông với tiết tấu sinh hoạt dân chúng. Các ngày truyền thống của Trung Quốc, gồm có ngày tết long trọng nhất, vốn là xuất phát từ nghề nông, do diễn biến thời vụ nông nghiệp mà thành, và không giống với các dân tộc khác, ngày lễ đa số đến từ tôn giáo. Trong bầu không khí văn hóa như vậy, việc sinh ra chủ nghĩa trọng nông là điều thuận tình thuận lý. Người Trung Quốc sớm đã có nhận thức rằng canh nông là nguồn gốc của giàu có. Chu dịch có câu: “bất canh hoạch, vị phú dã” (không canh tác thu hoạch thì không giàu có được). Chu Công - Người sáng tạo ra văn hóa lễ cũng nói: “ô hô, quân tử sở kỳ vô dật, tiên tri gia tường chi gian nan, nãi dật” (ô hô, quân tử mà cái không an nhàn của anh ta là trước phải biết cái gian khó của cày cấy, ấy là an nhàn), thiên Vô dật sách Chu thư cho rằng người thống trị muốn xã hội an định trước tiên phải hiểu được tầm quan trọng của canh nông và nổi gian khó của người nông dân.
Thương Ưởng vào giữa thời Chiến quốc đã xem “thượng nông” là cơ sở của quân mạnh nước giàu. Ông ta ra lệnh khách dân Tam Tấn được miễn quân dịch ba đời để học yên tâm sản xuất nông nghiệp; còn áp dụng nhiều phương pháp để những người làm nghề phi nông nghiệp chuyển sang nghề nông, cấm “bất tác nhi thực” (không làm mà có ăn), do vậy mà chính sách “trọng nông ức thương” được hình thành, ảnh hưởng sâu xa đến các thời đại sau này. “Lã thị xuân thu” về mặt lý luận đã phát huy tư tưởng trọng nông, cho rằng “bá vương hữu bất tiên canh nhi thành bá vương giả, cổ kim vô hữu, thử hiền giả bất tiêu chi sở dĩ thù dã” (Bá vương mà không lo trước chuyện canh nông mà trở thành bá vương, thì trước nay chưa từng có, đó là cái điều đặc biệt dở ở người hiền). Thiên Thượng nông sách Lã thị Xuân thu nhấn mạnh rằng phát triển nông nghiệp là cơ sở hoàn thành bá nghiệp.
Sách Quản Tử được viết vào đầu thời Tây Hán cho rằng “hiếu để lực điền giả”, cũng tức là người nông trong xã hội đề xướng lấy nông làm “gốc”, lấy công thương làm “ngọn”, nhiều lần khuyên răng người thống trị phải lấy gốc để trị nước, chú trọng cái gốc để nuôi cái ngọn. Các vì vua cũng hiểu sâu sắc rằng nông nghiệp phồn vinh là nền tảng của một quốc gia bền vững. Như Hán Văn Đế ban bố chiếu thư trọng nông rằng: “nông, thiên hạ chi đại bổn dã, dân sở thị dĩ sinh dã. Nhi dân hoặc bất vụ bổn nhi sự mạc, cố sinh bất toại,” (nghề nông, cái gốc lớn của thiên hạ, dân chúng nhờ đó mà sinh sống, người dân có người không coi trọng gốc mà coi trọng ngọn sẽ không được toại nguyện). Quan niệm “nông bản thương mạc” (nông nghiệp là gốc, thương nghiệp là ngọn), “trọng nông ức thương” trong xã hội nông nghiệp Trung Quốc có thể gọi là thâm căn cố đế.
Tinh thần thực tế là xu hướng chủ đạo của đời sống nông nghiệp “cày cấy bao nhiêu, thu hoạch bấy nhiêu”. Nông dân – chủ thể của Trung Quốc trong quá trình lao động canh tác nông nghiệp đã lĩnh hội được chân lý giản dị: lợi không đến một cách dễ dàng tốt đẹp, sức lực không thể phí một cách vô ích, nói lời trống rỗng thì vô bổ đối với sự việc, thành tâm làm việc ắt sẽ được thu hoạch. Tính thực tế của người nông dân cũng ảnh hưởng đến kẻ sĩ, “đại nhân bất hoa, quân tử vụ thực” (bậc đại nhân không chỉ có vẻ bên ngoài, người quân tử quan tâm thực tế), là tinh thần chủ đạo từ trước đến nay của giới hiền triết Trung Quốc. Lời nói của Chương Thái Viêm: “quốc dân thường tính, sở sát tại chính sự nhật dụng, sở vụ tại công thương canh gia, chí tận vu hữu sinh, ngữ tuyệt vu vô hiểm” (tính thường của dân quan sát chính sự thường ngày, sinh sống bằng công thương canh nông, chí theo suốt cuộc đời, không nói khi thấy lời nói vô hiệu) , khắc họa một cách chính xác tính cách dân tộc “trọng thực tế không ảo tưởng” của người Trung Quốc mà chủ thể là nông dân. Chính tính cách dân tộc này làm cho người Trung Quốc phát triển tính kinh nghiệm - thực dụng, mà không chú trọng đến tư tưởng mang tính thuần khoa học, việc không xem thực dụng làm mục đích kiểu Aristos, do người có văn hóa bị tính hiếu kỳ thúc giục tìm tòi tự nhiên huyền bí, ít phát triển ở Trung Quốc. Đồng thời cũng làm cho dân tộc Trung Hoa trên cơ bản không rơi vào mê muội điên cuồng tôn giáo, tư tưởng thế tục, nhập thế cuối cùng áp đảo tư tưởng thần dị, xuất thế. Về chủ thể mà nói, “quan tâm cuối cùng” của người Trung Quốc tức là truy cầu ý nghĩa cuối cùng đối với cuộc sống, chưa cầu giải thoát ở thế giới bên kia, mà là học thánh hiền ở thế giới bên này, lấy “tam bất hủ” (lập đức, lập công, lập ngôn) mà cầu được nhân sinh. Đây chính là trào lưu chủ yếu của văn hóa truyền thống Trung Quốc – Nho học không phải là nguyên nhân căn bản của tôn giáo.
Tính cách sống theo chủ nghĩa hòa bình, an cư lạc thổ, là tinh thần dân chúng được sinh ra trực tiếp từ văn minh nông nghiệp. Là một dân tộc nông nghiệp, cái chủ yếu mà người Trung Quốc áp dụng là phương thức sản xuất kết hợp giữa sức lao động nông nghiệp và sức tự nhiên đất đai, xã hội kinh tế tự nhiên mà họ thiết lập là một tiểu xã hội mang tính khu vực, lâm vào trạng thái bế quan tỏa cảng đối với thế giới bên ngoài. Nông dân cố thủ trên đất đai của họ, sinh hoạt thường ngày thì ổn định, canh tác có thời vụ. “An thổ trọng thiên” (ấm chỗ ngại dời, sống quen rồi không muốn dời đi chỗ khác) là quan niệm cố hủ của họ. Lễ ký: “bất năng an thổ, bất năng lạc thiên, bất năng lạc thiên, bất năng thành kỳ thân” (không được an cư thì không thể vui vẻ, không vui vẻ thì không thành được con người như vầy). Cái mà tổ tiên họ truy cầu là trong cố thổ của mình nền kinh tế nông nghiệp tự sản xuất tự tiêu thụ lập đi lập lại phải an ninh và ổn định. Thiên Tử Lộ sách Luận ngữ: “Thiện nhân vi bang bách niên, diệt khả dĩ thăng tàn khử sát hỹ” (nếu có những người hiền nối tiếp nhau làm việc nước năm năm, cũng có thể cảm hóa kẻ tàn bạo trở thành lương thiện, mà bỏ được hình phạt chém giết). Thiên Kiêm ái thượng sách Mặc Tử: “Nhược sử nhân thiên hạ kiêm tương ái, quốc dư quốc bất tương công, gia dư gia bất tương loạn, quân thần phụ tử giai năng hiếu từ, nhược thử tắc thiên hạ trị” (khiến cho người trong thiên hạ yêu mến nhau, các nước không đánh nhau, nhà nhà không làm rối nhau, quân thần phụ tử đều hiếu từ, như vậy là thiên hạ trị)
Thuyết tuần hoàn, ý thức vĩnh hằng và quan niệm biến dịch trong tư duy người Trung Quốc có mối liên hệ nội tại sâu sắc với văn minh nông nghiệp. Là một dân tộc nông nghiệp, người Trung Quốc nắm bắt được quy luật tuần hoàn từ gieo trồng, sinh trưởng đến thu hoạch và hiện tượng hết chu kỳ bốn mùa, bốn thời vụ rồi lập lại trong sản xuất nông nghiệp, đã sinh ra kiểu tư duy tuần hoàn luận. Như trong “Dịch truyện” khái quát: “cái lạnh đi qua ắt cái nóng sẽ đến, cái nóng đi qua ắt cái lạnh sẽ đến”. Tính chu kỳ của các triều đại trong đời sống chính trị thay thế nhau, lập đi lập lại hiện tượng thịnh suy trị loạn, cái gọi là “xu thế lớn trong thiên hạ, tan rồi hợp, hợp rồi tan”, và biến hóa li hợp theo kiểu “bạch vân thương cẩu” trong nhân thế, càng nhấn mạnh quan niệm tuần hoàn của con người, công thức “ngũ hành tương sinh tương khắc” kim mộc thổ thủy hỏa là triết học về tuần hoàn luận tự nhiên quan và xã hội quan. Thuyết tuần hoàn là tư duy thịnh hành ở xã hội nông nghiệp. Đặc điểm của loại tư duy này là chỗ xuất phát và chỗ quy tụ là hợp nhất hoặc gọi là “trùng hợp”. Điều này hoàn toàn phù hợp với chu kỳ sản xuất nông nghiệp và chu kỳ lập lại từ hạt giống đến hạt giống ở thực vật. Kiểu tư duy này thời kỳ dài chế ngự tư tưởng người Trung Quốc. Phật giáo được truyền bá ở Trung Quốc sau thời Hán, thuyết nhân quả, báo ứng, tu hành, giải thoát cũng là một hình thức tuần hoàn. Lý học Tống Minh kết hợp Nho Phật Đạo, quan điểm lịch sử của nó cũng là tuần hoàn luận, mô thức hết chu kỳ “nguyên, hội, vận, thế” rồi lập lại của Thiệu Ung là điển hình.
Trong xã hội nông nghiệp, người ta hài lòng về việc duy trì tái sản xuất giản đơn, thiếu động lực mở rộng tái sản xuất xã hội, do đó mà xã hội vận hành chậm chạp, trì trệ. Trong hoàn cảnh đời sống như vậy, rất dễ sinh ra ý thức vĩnh hằng, cho rằng thế giới là lâu đời, là tĩnh, là ổn định. Người Trung Quốc luôn luôn biểu hiện tập quán bình thường thì tốt, biến đổi thì xấu. Phản ánh trong văn hóa tinh anh, là quan niệm cầu cái lâu dài và hưng thịnh, Dịch truyện gọi là “khả cữu khả đại”, Trung Dung gọi là “ưu cữu thành vật”, Lão Tử gọi là “thiên trường địa cữu”, “thâm căn cố đế trường sinh cữu thị”, Đổng Trọng Thư gọi là “nguồn gốc của Đạo là từ Thiên, Thiên bất biến thì Đạo bất biến”,… đều là điển hình của quan niệm này. Phản ánh trong tâm thức dân gian, đối với vật dụng thì mong dùng lâu, đối với phương thức thống trị thì mong ổn định thủ thường, đối với gia tộc thì mong truyền đời vĩnh viễn, đều là biểu hiện của ý thức cầu sự lâu bền.
Đương nhiên sản xuất nông nghiệp cũng luôn cho con người thấy được những biến đổi và sinh sản không ngừng của sự vật, do vậy mà bổ sung cho quan niệm vĩnh hằng, quan niệm biến dịch cũng lưu truyền lâu đời ở Trung Quốc, cũng ảnh hưởng sâu xa. Quan niệm biến dịch này có đặc trưng của tuần hoàn luận rất rõ ràng. Biến dịch, tuần hoàn, vĩnh hằng kết hợp thống nhất với nhau một cách rất tự nhiên trong văn hóa Trung Quốc, hình thái biểu hiện chủ yếu của chúng là ở chỗ biến dịch trong bảo lưu giữ gìn, như “phục cổ cánh hóa” của Hán Võ Đế, “phục cổ” là kế tục chính thống đạo Nho Nghiêu Thuấn, “cánh hóa” là lấy triết lý Nho học mà cải biến hủ tục lưu truyền; lại như biến pháp của Vương An Thạch, cải cách của Trương Cư Chính, biến pháp Khang Hữu Vi, “phản bổn khai tân” do “tân Nho gia” đương đại hô hào đều là “thoát cổ cải chế” ở mức độ nào đó. Tư tưởng trở về cổ xưa mong đổi mới thời nay chính là biểu hiện độc đáo của văn hóa Trung Quốc về mặt biến dịch quan do kinh tế nông nghiệp nuôi dưỡng.
3. Văn hóa chủ nghĩa tập thể tông pháp lấy gia đình làm đơn vị gốc
Sự phát triển của lịch sử Trung Quốc đã rõ ràng, Trung Quốc tiến lên xã hội văn minh trong điều kiện xã hội thị tộc giải thể không triệt để, do vậy tàn dư của chế độ tông pháp xã hội thị tộc và hình thái ý thức của nó còn tích lũy lắng đọng lại, trong mấy ngàn năm, xã hội chưa có thời kỳ dài nào tồn tại chế độ đẳng cấp nghiêm trọng hàng thế kỷ như Ấn Độ cổ đại, Châu Âu. Tổ chức xã hội được thiết lập chủ yếu trên nguyên tắc tông pháp cha con, vua tôi, chồng vợ, hình thành nên kết cấu “gia quốc nhất thể”.
Chế độ tông pháp ở Trung Quốc thâm căn cố đế, không chỉ do xã hội thị tộc giải thể không triệt để, còn do nền kinh tế tự nhiên kéo dài, thôn xã “tiếng gà gáy tiếng chó sủa vang xen nhau, người dân đến già chết không qua lại giữa các thôn” tạo nên quần thể tế bào của xã hội Trung Quốc, và trong các thôn xóm này bao gồm hai mạng lưới lớn tông tộc gia đình và làng xóm, gia đình và gia tộc tập hợp thành tông tộc, tổ chức thành xã hội, tiến đến hình thành quốc gia. Kết cấu xã hội này là môi trường thuận lợi cho việc lưu truyền và kéo dài chế độ tông pháp và tư tưởng tông pháp. Việc biến đổi lớn xã hội thời kỳ Chiến quốc tuy có đột kích vào chế độ tông pháp, song nền kinh tế nông nghiệp tự nhiên và quan hệ tông tộc huyết thống lấy gia đình làm tế bào thì không lay động. Hơn hai ngàn năm sau đó, tổ tiên Trung Hoa đã lấy Nghiêu Thuấn trong truyền thuyết xã hội thị tộc tông pháp làm thánh nhân, lấy “thế giới đại đồng” của xã hội thị tộc tông pháp làm mẫu xã hội lý tưởng, bao trùm kết cấu tổ chức xã hội dưới âm hưởng của chế độ gia trưởng, người cha là vua của gia đình, vua là cha của một nước, gia quốc nhất thể, mối quan hệ tông pháp đã thấm sâu vào đời sống xã hội
Đơn vị cơ bản của mối quan hệ xã hội lấy gia tộc làm gốc là “tông tộc”. Trong tông tộc, mỗi người không là cá thể độc lập, ít nhất phải có mối liên hệ với hai thế hệ trên dưới (tức cha, con), hình thành ba đời, đây là “tông tộc” cơ bản nhất, hạt nhân nhất. Do ba thế hệ còn kéo dài lên trên và xuống dưới, có thể hình thành phía trên đến “cao tổ”, phía dưới đến “huyền tôn”, tổng cộng gồm chín thế hệ. Đây cũng chính là “thân thân, dĩ tam vi ngũ, dĩ ngũ vi cữu” (dòng họ, ba thành năm, năm thành chín) như trong “tan phục tiểu ký - Lễ ký” viết, đến chín thì hết. Do từ đây mà chúng ta có thể thấy rằng bởi quan niệm tông pháp mà cá nhân bị bao vây trong quần thể trùng trùng. Do vậy mỗi người đầu tiên phải suy nghĩ nghĩa vụ và trách nhiệm của mình, như phụ hiền, tử hiếu, huynh hữu, đệ kính, quyền lợi của cá nhân tỏ ra không quan trọng. Đây được gọi là “nhân đạo thân thân”. Trong thiên Đại truyện sách Lễ ký giải thích “nhân đạo thân thân” là “thân thân cố tôn tổ, tôn tổ cố kính tông, kính tông cố thâu tộc”. Do từ “tôn tổ” đến “kính tông” lại đến “thâu tộc”, mà toàn xã hội mới đoàn kết thống nhất lại, đây chính là quan điểm của Nho gia.
Xuất phát từ quan niệm “thân thân”, có thể dẫn đến một hệ nguyên tắc ứng xử trong các mối quan hệ vua tôi, chồng vợ, bề trên kẻ dưới, bạn bè v.v., sở dĩ có những nguyên tắc này là do lấy “nghĩa vụ” làm hạt nhân. Trong Đại học – kinh điển Nho gia - có phạm trù “tri chỉ” (biết chỗ dừng), “tri chỉ” biểu hiện cụ thể ở “là bề tôi dừng ở chữ kính”, “là con dừng ở chữ hiếu”, “là cha dừng ở chữ từ” v.v.. những điều này đều là khái niệm “nghĩa vụ”. Chính do văn hóa truyền thống trọng gia tộc coi nhẹ cá nhân, trọng tập thể coi nhẹ cá thể, cho nên luôn nhấn mạnh trách nhiệm và nghĩa vụ của cá nhân trong tập thể, mà lướt qua quyền lợi cá nhân trong xã hội, cũng làm cho ý thức đạo đức bình đẳng “Nhân giai khả vi Nghiêu Thuấn” (mỗi người đều có thể trở thành Nghiêu Thuấn) trở thành một lý tưởng, mà “pháp trị” cũng không có đất dụng võ trong hệ thống như vậy, điều này thể hiện tính quan trọng thứ hai của văn hóa truyền thống Trung Quốc.
4. Sự phối hợp giữa chủ nghĩa tập quyền và chủ nghĩa dân bản
Xã hội nông nghiệp Trung Quốc cực đoan phân tán, ít thấy thôn xóm thành thị hình thành dựa trên quan hệ trao đổi hàng hóa, nền kinh tế tự nhiên hình thái nông nghiệp quyết định, không thể trông vào việc trao đổi hàng hóa mà liên kết hệ thống nhà nước lớn, chỉ có thể dựa vào chủ nghĩa tập quyền quân chủ trên lĩnh vực chính trị và tư tưởng thực hiện thống thất đất nước. Mặt khác, sự vận hành bình thường của xã hội tông pháp nông nghiệp lại phải dựa vào sự an cư lạc nghiệp của dân chúng, lấy nông dân làm chủ thể, người dân có thể nộp thuế và lao dịch cho triều đình, bảo đảm đời sống cơ bản mà xã hội cần, xã tắc được bảo toàn, nếu không sẽ có mối họa sụp đổ, bị tiêu diệt. Cho nên, tư tưởng truyền thống “vi dân bang bổn” (lấy dân làm gốc của nước) là sản phẩm tự nhiên của xã hội tông pháp nông nghiệp. “Tôn quân” và “trọng dân” tương phản mà lại tương thành, cùng tạo nên hai cánh tay của văn hóa truyền thống Trung Quốc.
Trung Quốc cổ đại, ngoài số ít nhà tư tưởng dị đoan ngoan cố đề xuất thuyết phi quân ra, các nhà tư tưởng của đa số các học phái ở mức độ khác nhau đều có tư tưởng tôn quân, thuyết tôn quân tuyệt đối là do Pháp gia đề ra. Hàn Phi xuất phát từ tư tưởng thiên hạ “định vu nhất tôn”, trong thiên Dương quyền sách Hàn Phi Tử đề xuất thiết chế chính trị trung ương tập quyền “sự tại tứ phương, yếu tại trung ương, thánh nhân chấp yếu, tứ phương lai hiệu” (sự việc ở xung quanh, cái chính yếu ở trung tâm, thánh nhân thực hiện cái chính yếu, xung quanh làm theo), và cho rằng vua có quyền uy vô thượng, nuôi dưỡng thần dân để sai khiến, mà thần dân đối với vua phải bảo gì nghe nấy. Vua lấy pháp, thuật, thế mà trị thiên hạ, thiên hạ xem vua là đầu não, trung khu, làm như vậy có thể trong thiên hạ định một ngôi nhất tôn, bốn bể quy về một mối. Đế quốc Tần đại thống nhất chính thức kiến lập sau đó không lâu, lấy tư tưởng Hàn Phi xây dựng đất nước.
Thuyết tôn quân không phải là của riêng pháp gia, Khổng Tử người đầu tiên sáng tạo ra Nho học tiên Tần đã diễn giải một cách có hệ thống tư tưởng tôn quân và ôn hòa, Đổng Trọng Thư gắn cho thuyết tôn quân sắc thái lý luận thần học, cái gọi là “thiên tử thọ mệnh vu thiên, thiên hạ thọ mệnh vu thiên tử” (vua phụng mệnh trời, thần dân phụng mệnh vua), pháp của “Xuân Thu” là “người theo vua, vua theo trời”, miêu tả vua là trung gian giữa trời và người. Hàn Du thời Đường từ góc độ phân công xã hội, đề xướng thuyết tôn quân dưỡng dân. Từ đó về sau, các nhà lý học Trình Di, Chu Hy v.v. thêm vào lý luận mang tính tư biện. Chủ nghĩa quân quyền tuyệt đối này đến đời Minh càng được đề cao tuyệt đỉnh trong thực tiễn xã hội. Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương để “thâu quyền uy trong thiên hạ về một tay người”, mà đã phế bỏ chức thừa tướng đã tồn tại hơn ngàn năm và chế độ tam tỉnh tồn tại hơn bảy trăm năm, nhập quyền của tướng thần vào quyền của vua; triệt tiêu “hành tỉnh”, thiết lập “tam tư” trực tiếp dưới quyền của triều đình (bố chính sử tư, an tế sử tư, đô chỉ huy sử tư), mở rộng quân quyền đến cực điểm, thật sự đạt đến trình độ “trẩm tức quốc gia” (vua tức là nước).
Tóm lại, xã hội nông nghiệp Trung Quốc cần và nuôi dưỡng thể chế tập quyền quân chủ, mà chính thể tập quyền quân chủ này một khi đã hình thành, nó trở thành một lực lượng dị kỷ vượt lên trên xã hội, nó đoạt hết tất cả quyền lợi của quần chúng nhân dân, các quyền lợi quân, chính, tài, văn, tư tưởng toàn bộ tập trung về triều đình thậm chí vào trong tay một người đó là hoàng đế. Đây là “chủ nghĩa chuyên chế đông phương” được sinh ra từ mảnh đất Châu Á mà Marx đã nhiều lần nhắc đến.
Cùng với chủ nghĩa tập quyền, xã hội nông nghiệp Trung Quốc còn nuôi dưỡng một ý thức chính trị khác có ảnh hưởng sâu xa, đó là “chủ nghĩa dân bản”.
“Chủ nghĩa dân bản” được sinh ra từ thời tiên Tần Trung Quốc là một khái niệm có hàm ý lịch sử đặc biệt và nội dung văn hóa dân tộc, khi sử dụng khái niệm này phải phân biệt rõ ràng với khái niệm “chủ nghĩa nhân văn” và “chủ nghĩa nhân bản” của phương Tây. “Chủ nghĩa nhân văn” được sinh ra từ thời phục hưng Châu Âu là chủ nghĩa nhân đạo và thuyết nhân tính đối lập với thần học tôn giáo bảo vệ sự thống trị của phong kiến; “chủ nghĩa nhân bản” được đề ra vào thế kỷ 19 do nhà triết học người Đức (费尔巴哈) Feierpaha [Foierbach?], chỉ mối quan hệ xã hội và điều kiện lịch sử cụ thể đánh vào con người, quan điểm triết học chủ nghĩa duy vật cũ xem con người chỉ là một loại sinh vật học tồn tại. Chủ nghĩa dân bản của Trung Quốc là một phạm trù lịch sử hoàn toàn khác.
Chủ nghĩa dân bản của Trung Quốc chỉ cắm rễ sâu trong tâm lý xã hội trọng nông, thượng nông. Lão Tử cho rằng người thống trị phải thuận theo ý dân, “thánh nhân vô thường tâm, dĩ bách tính tâm vi tâm”. Khổng Tử (trong thiên Học nhi sách Luận ngữ) nói: “tiết dụng nhi ái nhân, sử dân dĩ thời” (dè dặt sự tiêu dùng, yêu thương dân, sai khiến dân theo thời vụ), lại có chủ trương “tu kỷ dĩ an dân”, “tu kỷ dĩ an bách tính” (sửa mình để làm yên lòng người khác, sửa mình để làm yên lòng trăm họ), cái đạo đức chính trị mà ông đề xướng, lấy “dụ dân” (làm cho dân no đủ) làm tiền đề, mong rằng bậc thống trị “nhân dân chi lợi nhi lợi chi” (nhân sự lợi ích của dân mà làm lợi cho dân) (trong thiên Nghiêu Viết sách Luận ngữ). Về sau Mạnh Tử phát huy thành hệ thống tư tưởng dân bản này. Ông nói rằng: “dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh. Thị cố đắc hồ khưu dân nhi vi thiên tử, đắc hồ thiên tử vi chư hầu, đắc hồ chư hầu vi đại phu” (nhân dân là quý trọng nhất, kế đó mới đến xã tắc, vua được xem nhẹ nhất. Cho nên được lòng dân mới trở thành thiên tử, được sự thử thách của Thiên tử mới trở thành Chư hầu, được sự thử thách của chư hầu mới trở thành Đại phu) (trích trong thiên Tận tâm hạ sách Mạnh Tử), ở đây đề xuất tư tưởng “dân vi quốc bản” (dân là gốc của nước), “chính đắc kỳ dân” (chính sự đạt được ở tại lòng dân). Đường Thái Tông Lý Thế Dân trong những lần nói chuyện với đại thần đều nói đến đạo lý nước có thể nâng thuyền cũng có thể nhấn chìm thuyền, một lần nữa nhấn mạnh “vi quân chi đạo bị tất tiên tồn bách tánh” (cái đạo làm vua trước hết phải bảo dưỡng trăm họ) (trong Luận quân đạo – Trinh quan chính yếu)
Tóm lại, tư tưởng dân bản “dân vi bang bản” (dân là gốc của nước), “sử dân dĩ thời” (sai khiến dân hợp thời vụ), “dân quý quân khinh” (quý dân, xem nhẹ vua) v.v. là tư tưởng chính trị truyền thống của xã hội nông nghiệp Trung Quốc.
Chủ nghĩa chuyên chế quân chủ và chủ nghĩa dân bản đều quan trọng như nhau. Một mặt, tư tưởng dân bản lấy “ái dân”, “trọng dân” làm ngọn cờ, đối lập với thuyết quân quyền tuyệt đối và tư tưởng bạo chính cực đoan “tàn dân” (hại dân), “tiện dân” (coi rẻ dân) của chủ nghĩa chuyên chế, người Trung Quốc xưa nay công kích bạo chính hầu như đều đề xướng chủ nghĩa dân bản. Mặt khác, chủ nghĩa dân bản và chủ nghĩa chuyên chế quân chủ bổ sung cho nhau, hình thành cái gọi là “minh quân luận”. Vì vua sáng suốt “trọng dân”, “tích dân” (kính dân), dân chúng sẽ đặt hy vọng có được đời sống cơm no áo ấm vào vì vua sáng suốt. “Trăm họ dựa vào một người, một người làm yên lòng trăm họ”. Có thể thấy rằng, chủ nghĩa dân bản và chủ nghĩa dân chủ (chủ quyền thuộc về dân) là không như nhau. Chủ nghĩa dân bản phân một cách rạch ròi “trị nhân giả” và “trị vu dân giả”, nó xuất phát từ trị vì lâu dài của người cai trị, mới chú ý lòng dân ủng hộ hay phản đối. Người thống trị thời đại phong kiến Trung Quốc và phần tử trí thức của nó, một mặt nhấn mạnh “nước lấy dân làm gốc”, mặt khác lại nhấn mạnh “dân dĩ quân vi chủ” (dân xem vua là chúa), đối với họ “tôn quân” và “trọng dân” là thống nhất.
5. Bài trừ niềm tin đời sống độc đoán thần học
Khảo sát lịch sử văn hóa thế giới, văn hóa Trung Quốc là nền văn hóa sớm bài trừ thần. Khởi lên từ tinh thần nhân văn đời Chu, đến phát triển tư tưởng nhân văn Nho gia thời Xuân Thu Chiến Quốc và việc hình thành chủ nghĩa tự nhiên đạo gia, chính là thể hiện quá trình vận động chi phối và khai triển lý tưởng nhân văn Trung Quốc bài trừ thần. Quá trình này, có thể nói là bước chuyển trọng đại của văn hóa Trung Quốc, đặt tiêu chí thoát ly văn hóa Trung Quốc với tôn giáo thời kỳ đầu Trung Quốc.
Cũng như bất kỳ một dân tôc nào trên thế giới, thời kỳ cổ đại xa xôi của Trung Quốc, cũng sinh ra tôn giáo nguyên thủy và sùng bái tuyệt đối đối với thiên mệnh quỹ thần. Thời Ân Chu, quan niệm thiên đế quỹ thần tôn giáo của Trung Quốc còn ngự trị, thống trị bền vững trong tư tưởng con người. Đến thời Chu, sức ảnh hưởng này ngày càng giảm, quan niệm tôn giáo của người Trung Quốc có sự thay đổi lớn. Xuất hiện trào lưu tư tưởng nghi “thiên, và những quan niệm, tư tưởng “kính đức bảo dân”, “thiên mệnh mị thường”. Học giả thời cận đại đã chú ý đến hiện tượng lịch sử này, Vương Quốc Duy nói về sự biến đổi văn hóa và chính trị Trung Quốc từ thời Ân Chu, ông cho rằng, sự thay đổi này là “chế độ cũ tàn, chế độ mới thịnh, văn hóa cũ tàn văn hóa mới thịnh”. Mấu chốt quan trọng trong đó, “từ trên đến dưới đều dựa vào đạo đức, cả thiên tử, chư hầu, khanh, đại phu, thứ dân hợp thành một tập thể đạo đức”. Cũng tức là nói trong quan niệm người Tây Chu, từ tông pháp sinh ra đạo đức, mà đạo đức là sợi dây cơ bản nối toàn xã hội. Thiết lập quan niệm đạo đức tông pháp làm cho quan niệm độc đoán thần học yếu dần và bị bài trừ. Đây là một đặc điểm quan trọng của văn hóa truyền thống Trung Quốc, cũng là một ưu điểm vượt trội khác biệt với văn hóa phương Tây, văn hóa Ấn Độ v.v..
So với độc đoán thần học trong văn hóa Châu Âu và văn hóa Ấn Độ, văn hóa Trung Quốc biểu hiện mặt lý tính của nó. Đạo đức từ đâu mà đến? Mạnh tử cho rằng cái thiện của đạo đức bắt nguồn từ bản tính con người, con người có “lòng trắc ẩn”, “lòng xấu hổ và căm ghét”, “lòng khiêm tốn nhượng nhịn”, “lòng thị phi”, đây là bốn cái điều thiện, từ bốn cái điều thiện này mà thành bốn cái phẩm chất đạo đức nhân, nghĩa, lễ, trí. Mạnh Tử bàn về vấn đề đạo đức này để hướng con người tu dưỡng, bài trừ quan niệm đạo đức của thuyết hữu thần. Tuân Tử cho rằng lễ nghĩa đạo đức bắt nguồn từ việc tôi luyện, cải tạo hoàn cảnh sống của con người. Ông nói: “phàm cái tính của con người, Nghiêu Thuấn và Kiệt Trụ đều như nhau, quân tử và tiểu nhân đều như nhau” (trong Tính ác – Tuân Tử), sở dĩ thành những người khác nhau đều bởi vì tập tục khác nhau, đạo đức và tri thức đều do giáo dục và tích lũy trong hoàn cảnh sống mà có. Quan điểm này so với Mạnh Tử càng bài trừ một cách triệt để quan niệm đạo đức của thuyết hữu thần.
Một mạch lớn khác của văn hóa Trung Quốc đó là học thuyết Đạo gia, tuy cho rằng Đạo sinh ra trời đất vạn vật, nhưng lại nhiều lần nhấn mạnh “sinh nhi bất hữu, vi nhi bất thị, trường nhi bất tế” (chương thứ 51 – Lão Tử), phủ định thần có nhân cách, có ý chí. Những tư tưởng này cũng ảnh hưởng sâu sắc đến Nho gia, đặc biệt là học thuyết của Tuân Tử.
Đối với quan điểm quỷ thần, Nho gia có mặt lý tính, cũng có mặt thực dụng. Khổng Tử trong Luận ngữ viết: “vị năng sự nhân, yên năng sự quỷ?” (chưa thể làm cho người làm sao có thể làm cho quỷ?), “vị tri sinh, yên tri tử?” (chưa biết cuộc sống, làm sao biết được cái chết?). Đây là mặt lý tính. Khổng Tử lại nói: “tế như tại, tế thần như thần tại” (tế tổ tiên như tổ tiên ở đó, tế thần thánh như thần thánh ở đó), “quân tử hữu tam úy: úy thiên mệnh, úy đại nhân, úy thánh nhân chi ngôn” (người quân tử có ba cái sợ: sợ thiên mệnh, sợ đại nhân, sợ lời nói của thánh nhân). Đây là mặt thực dụng. Nho gia theo lập trường thực dụng mà đối với quỷ thần và thiên mệnh. Văn hóa Trung Quốc phát triển sau thời kỳ Xuân Thu Chiến Quốc, kiên trì quan điểm về thuyết vô thần, không chỉ có các nhà tư tưởng các nhà khoa học, còn có nhà văn học, lịch sử học, có thể nói hình thành một truyền thống văn hóa vô thần luận.
Do truyền thống văn hóa Trung Quốc từ thời Tiên Tần đã có quan điểm bài trừ độc đoán thần học, cho nên trong lịch sử Trung Quốc, chưa từng xuất hiện “thời đại đen tối” do thần học chiếm địa vị thống trị tư tưởng như Cơ Đốc giáo ở Châu Âu. Tín ngưỡng dân gian trong truyền thống Trung Quốc có tính thực dụng vô cùng lớn, dân gian có câu “đốt hương bái Phật”, hàm nghĩa của “Phật” ở đây có thể là Thích Ca Mâu Ni, Quan Âm Bồ Tát, cũng có thể là “thổ địa”, “lão quân”, … điều này không thể cùng tồn tại với tính nghiêm khắc của tôn giáo trong văn hóa phương Tây, sự khác biệt rất xa. Hiện tượng văn hóa này dù ở trình độ nào cũng thể hiện trí tuệ đặc biệt của văn hóa Trung Quốc.
6. Khuynh hướng học thuật trọng nhân luân khinh tự nhiên
Văn hóa Trung Quốc lấy con người làm trung tâm, nó biểu hiện trên các lĩnh vực như triết học, sử học, giáo dục, văn học, khoa học, nghệ thuật, lạc dĩ thành đức, văn dĩ tải đạo, theo đuổi cái hoàn thiện của con người, theo đuổi lý tưởng của con người, theo đuổi sự hòa hợp giữa con người và tự nhiên, biểu hiện rõ đặc sắc trọng nhân văn, trọng nhân luân. Nhưng về phương diện nhận thức và cải tạo giới tự nhiên lại không chú ý đến. Thể hiện của tư tưởng Nho gia về mặt này rất rõ. Có học giả thống kê trong Luận ngữ tri thức về tự nhiên không đáng kể, không phong phú, nhưng xét kỹ thì nội dung của nó đều là “lợi dụng tri thức tự nhiên để nói chủ trương về đạo đức, chính trị, mà không lấy việc nghiên cứu bản thân tự nhiên làm mục đích”.
Khuynh hướng học thuật của Nho gia trọng nhân luân khinh tự nhiên ảnh hưởng sâu sắc đối với văn hóa Trung Quốc. Giới học thuật thời Ngụy Tấn tuy có bàn về “tài”, “tính”, nhưng cuối cùng vẫn chưa giải quyết vấn đề quan hệ giữa “đức” và “trí”. Đường Thái Tông nghị sự với đại thần, vẫn là “một ngày hành đức, hai ngày trung trực, ba ngày học rộng, bốn ngày lời văn hoa mỹ, năm ngày văn chương thư tịch” (trong Nhiệm hiền – Trinh quan chính yếu). Các nhà Lý học thời Tống Minh có bị lôi cuống vào việc học về tâm tính, Chu Hy tuy cũng đã từng phát biểu về vấn đề lý giải tri thức khoa học tự nhiên, nhưng lại lấy chương “Cách vật trí tri” của “Đại học” bổ sung, như chính các nhà nghiên cứu đề xuất mục tiêu chủ yếu của các nhà Lý học không ở chỗ cầu cái chân của tri thức, mà cầu cái thiện của đạo đức.
Tư tưởng trọng nhân luân khinh tự nhiên cũng thể hiện trong lĩnh vực giáo dục, luôn là những người tài mà thân phận tương đối thấp đi học khoa học tự nhiên, như “Nhị quan lục học” thời Đường (Hoằng văn quan, Sùng văn quan, Quốc tử học, Thái học, Tứ môn học, Thư học, Toán học, Luật học) thâu nhận đệ tử dựa vào xuất thân cao hay thấp, trong đó Thư, Toán, Luật của “lục học” được đặt ở cuối cùng, những học sinh của ông ta là con của quan bát phẩm trở xuống và con của thứ dân, tình cảnh này nói lên sự ảnh hưởng rộng lớn của Nho học thời phong kiến.
Đương nhiên, chúng ta nên thấy rằng từ Hán Đường đến Tống Nguyên Minh khoa học kỹ thuật của Trung Quốc trong thời gian dài dẫn đầu thế giới, nhưng cận đại thế kỷ 16,17 khi mà khoa học tự nhiên ở phương Tây ra đời và tiến mạnh, Trung Quốc lại lạc hậu. Có nhiều nguyên nhân, nhưng nhìn từ góc độ văn hóa sử, khuynh hướng trọng nhân luân khinh tự nhiên của văn hóa truyền thống Trung quốc cũng là một trong những nguyên nhân đó. Chuyên gia khoa học kỹ thuật người Trung Quốc nổi tiếng thế giới nhận định thế này: Nho học tin tưởng vào trật tự đạo đức của vũ trụ (trời), họ dùng một chữ “đạo”, chủ yếu nếu không nói là duy nhất – là chỉ đạo đức lý tưởng hoặc trật tự trong xã hội con người, điều này biểu hiện rõ ở thái độ đối với thế giới tinh thần và tri thức. Cố nhiên họ không tách cá nhân và con người xã hội, cũng không tách con người xã hội với cả giới tự nhiên, nhưng họ luôn chủ trương đối tượng duy nhất thích hợp mà nghiên cứu nhân loại là bản thân con người”. Do ảnh hưởng rộng lớn của Nho học trong văn hóa truyền thống, trong lịch sử học thuật cổ đại, về lý luận kết cấu lôgich chặt chẽ, về thực nghiệm khống chế mang tính kỹ thuật, và thao tác nghiệm chứng mối quan hệ giữa chúng đều không được xem trọng và phát triển.
Trung Quốc cổ đại tuy đã xuất hiện thời hoàn kim học thuật “trăm hoa đua nở”, nhưng trình độ sản xuất đương thời còn thấp, cung cấp cho lĩnh vực hoạt động khoa học còn hạn chế; xã hội phong kiến dai dẳng lấy thống trị chuyên chế làm đặc trưng, tuy sản xuất có phát triển chậm, nhưng nhu cầu đối với khoa học cực kỳ bé nhỏ, lại còn tư tưởng khoa học bị xem là dị đoan, cho dù ngẫu nhiên trong khe hở nảy nở mầm sống khoa học mới nhỏ nhoi, cũng lập tức gặp phải áp lực và bị hủy hoại.
7. Kinh học ưu tiên và bao trùm tất cả các lĩnh vực văn hóa
Văn hóa luân lý Trung Quốc còn có một đặc điểm nổi bật đó là truyền thống kinh học của nó. Truyền thống kinh học đó là văn hóa Trung Quốc trong thời kỳ dài lấy kinh học Nho gia làm dòng chính thống, xuyên suốt.
Kinh, là tên thường gọi của những thư tịch mà chính phủ phong kiến Trung Quốc cho là hợp pháp, do Nho gia mà đại biểu là Khổng Tử biên soạn. Nó phần lớn là những tác phẩm trước Tần Hán, và đã được tuyển chọn. Nội dung của Kinh ban đầu chỉ giới hạn ở “Lục Kinh” do Khổng Tử san định, đó là “Kinh Thi”, “Kinh Thư”, “Kinh Dịch”, “Kinh Lễ”, “Kinh Nhạc”, “Kinh Xuân Thu”. Trong các điển tịch văn hiến cổ đại này bao gồm nội hàm văn hóa phong phú như chính trị, sử học, triết học, văn học, lễ nhạc, chế độ điển chương v.v.. Sau khi Khổng Tử mất Nho gia chia thành tám phái. Về phương diện kế tục và diễn giải lục kinh có những trường hợp rất phức tạp. Trong các chư tử thời Tiên Tần, Nho gia là “Hiển học”, bách gia chư tử khác cũng đều có mối liên hệ mật thiết với “Lục Kinh”.
Đến đời Hán, Hán Vũ Đế theo kiến nghị của Đổng Trọng Thư, bãi truất bách gia, độc tôn Nho thuật, địa vị của “Kinh” được đề cao tột đỉnh, Kinh học trở thành “quan học” từ sau thời Hán. “Kinh” cũng không ngừng mở rộng. Đầu tiên có “thất Kinh”, đến đời Đường tăng lên “cữu Kinh”, đến đời Tống lại tăng “thập tam Kinh”. Trở thành kinh điển mang tính chỉ đạo của nền học thuật văn hóa, thập tam Kinh thường được khắc trên bia đá, để nói lên tính uy quyền không thay đổi của nó. Có thể nói, sự phát triển của văn hóa Trung Quốc sau thời Hán, “Kinh học” trở thành hình thức quan trọng.
Sự phát triển của học thuật Trung Quốc, nếu phân ra thì có: thời Tiên Tần là “chư tử chi học”; thời Lưỡng Hán là Kinh học; sau đó có Huyền học Ngụy Tấn, Phật học Tùy Đường, Lý học Tống Minh, “phát học” đời Thanh. Nhưng khách quan khảo sát thì từ sau thời Hán mãi đến trước phong trào tân văn hóa “ngũ tứ”, sự phát triển học thuật hơn hai ngàn năm của Trung Quốc, thực sự dòng chính của nó vẫn là Kinh học. Sự phát triển văn hóa Trung Quốc bất luận là triết học, sử học, giáo dục học, chính trị học, xã hội học, tôn giáo học, cho đến y học, khoa học và nghệ thuật, đều có quan hệ mật thiết với Kinh học. Có thể nói, ở Trung Quốc cổ đại, hễ là phần tử tri thức, bất luận anh ta thích học về lĩnh vực gì, phương hướng nghiên cứu của anh ta là như thế nào, cái nhiệm vụ đầu tiên và chủ yếu của anh ta là phải học Kinh, không có sự lựa chọn nào khác. Khổng Tử nói: “bất học thi, vô dĩ ngôn” (không học Kinh Thi không lấy gì để nói chuyện); “bất học lễ, vô dĩ lập” (không học Kinh Lễ không lấy gì để lập thân) (thiên Quý thị sách Luận ngữ). Có thể thấy rằng một lời nói một hành động của một người không thoát khỏi sự chi phối của “Kinh”.
Đặc điểm này của văn hóa Trung Quốc khác rất xa với văn hóa phương Tây. Ở Hy Lạp cổ sự phát triển của văn hóa tuy có đặc điểm mang tính tổng hợp, nhưng việc phân ngành khoa học đã xuất hiện rõ ràng, trên các mặt như số học, thiên văn học, sinh vật học v.v. hầu như đều phát triển độc lập tương đối. Sự phát triển của văn hóa Trung Quốc hơn hai ngàn năm từ sau thời Tần được bao trùm trong không khí của “kinh học”.
Truyền thống Kinh học có ảnh hưởng nhất định đối với văn hóa Trung Quốc.
Trước tiên, tư tưởng Nho gia ăn sâu và rộng trên các mặt của văn hóa Trung Quốc. Thời Tiên Tần Nho học chẳng qua là một trong bách gia chư tử, nhưng trong chốc lát trở thành “kinh”, dưới sự ủng hộ của lực lượng chính trị, nó ăn sâu vào các lĩnh vực văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần.
Thứ đến, dưới sự ảnh hưởng của kinh học, khoa học không thể độc lập rõ ràng. Kinh học là một khoa học tổng hợp bao trùm, nó bao hàm khoa học nhân văn và một số khoa học tự nhiên, bản thân nó không bài xích khoa học tự nhiên, ngược lại, chủ nghĩa lý tính và phương pháp tư duy biện chứng trong Nho học lại có tác dụng gợi mở đối với khoa học tự nhiên. Nhưng mấu chốt của vấn đề là kinh học đã vượt lên trên tất cả các tri thức, vô hình chung bài trừ tính độc lập của các khoa học khác. Do vậy mà dưới học thuật của Nho học, sự phát triển của khoa học cổ đại Trung Quốc chỉ có thể đi trên con đường đặc biệt độc lập.
Cuối cùng, truyền thống Kinh học cũng có ảnh hưởng nhất định đối với sự phát triển của tôn giáo Trung Quốc. Trong văn hóa thế giới, tôn giáo chiếm vị trí vô cùng quan trọng. Nhưng thời cổ đại Trung Quốc, sự ảnh hưởng của tôn giáo là tương đối, có thể nói là hơi yếu. Có nhiều nguyên nhân, nhưng nhìn từ tiến trình phát triển của lịch sử sự khống chế của truyền thống Kinh học đối với sự phát triển của tôn giáo đã quá rõ ràng dễ thấy. Do Kinh học mà Nho gia làm chủ thể, được chính quyền thống trị các thời đại nâng đỡ ủng hộ, Phật Đạo vẫn không chiếm vị trí chủ đạo trong văn hóa Trung Quốc, lịch sử Trung Quốc cũng chưa từng xuất hiện tình trạng như ở Châu Âu thế kỷ Cơ Đốc giáo chiếm vị trí là quốc giáo.
Đương nhiên, sự ảnh hưởng của truyền thống Kinh học cổ đại Trung Quốc đối với sự phát triển tôn giáo là vấn đề phức tạp, chúng ta xem xét và đánh giá trên nhiều gốc độ mới có thể lý giải và nhận thức tốt văn hóa truyền thống Trung Quốc.
Nguồn: Người dịch
Tài liệu dịch:
Trần Quýnh (cb) 2001: Trung Quốc văn hóa tu từ học, NXB Cổ tịch Giang Tô [陈炯 主编:《中国文化修辞学》,江苏古籍出版社,2001年]