T |
rải qua các thời đại, xứ sở Korea đã có nhiều quốc hiệu và tên gọi khác nhau. Có tên do dân tộc hay chính quyền tự đặt, có tên do dân tộc/cá nhân nước ngoài đặt cho. Trải qua thời gian, hình thức ngữ âm/chính tả và nghĩa của những tên này đã bị mờ nhạt, hoặc biến dạng, có khi lại còn bị gán cho những nghĩa mới, xa lạ, tạo nên nhiều nhầm lẫn, ngộ nhận. Tìm hiểu một dân tộc cùng nền văn hoá của dân tộc và quốc gia ấy không thể bỏ qua việc nghiên cứu các quốc hiệu và ý nghĩa của chúng qua các thời đại*[1].
1. Quốc hiệu “Joseon” (Triều Tiên) và những tên gọi liên quan
Tên gọi quốc gia đầu tiên trên bán đảo Korea là “Joseon” (조선) như quốc hiệu của một quốc gia tương truyền là do vị vua huyền thoại Dan-Gun sáng lập vào năm 2333 trước công nguyên. Nơi định đô của Joseon là ở giữa lưu vực sông Liao (Liêu) và sông Daedong (Đại Đồng), đây là nơi mà ngày nay người ta khai quật được nhiều vật dụng bằng đồng nhất.
Tên Joseon được tiếp tục duy trì trong quốc hiệu “Wiman Joseon” (위만조선) do một đại thần của nước Yên tên là Wiman (衛滿, Wei Man = Vệ Mãn) lập ra. Sau khi Nhà Tần sụp đổ (khoảng năm 194 trước công nguyên), Vệ Mãn kéo theo hơn 1.000 người chạy loạn đến Joseon, lúc đầu theo phò vua Chun (준), rồi sau đã lợi dụng chiếm ngôi.
“Joseon” là một từ cổ thuần Hàn, rất có thể là bắt nguồn từ tộc danh “Suksin / Siksin / Chiksin” của những cư dân săn bắn sống ở phía đông Mãn Châu Lý [Pratt K. & Rutt R. 1999: 232, 449]. Do người Korea không có văn tự nên tên “Joseon” chỉ bắt đầu được lưu giữ lại trong những ghi chép của người Trung Quốc vào tk. V sau CN [Pratt K. & Rutt R. 1999: 232]. Vì vậy ngày nay người ta không xác định được chính xác cả âm lẫn nghĩa của nó.
Về âm, căn cứ vào những quy luật biến đổi ngữ âm, các nhà ngôn ngữ học đã khôi phục cách phát âm gần đúng của từ này vào thời xưa là /*trjaw-senx/. Người Hoa Hạ khi tiếp xúc với người Hàn đã ghi lại tên này. Nhưng chữ Hán là một thứ chữ tượng hình, mỗi âm tiết được ghi bằng một chữ, nên không thể nào phiên âm tên nước ngoài theo cách ghép chữ cái được. Bởi vậy, họ phải tìm những chữ có cách phát âm gần giống để biểu thị từng âm tiết một. Chính là theo cách ấy, tên nước “Joseon” trên bán đảo Hàn đã được người Hoa Hạ ghi lại bằng hai chữ 朝鮮 (âm Hán-Việt là “Triều Tiên”), đọc theo phương ngữ đông-bắc của tiếng Hán hiện nay là /chao-xian/, đã thể hiện được khá chính xác cách phát âm gốc.
Song mặt khác, tiếng Hán lại là thứ tiếng đơn âm (giống tiếng Việt), trong đó mỗi chữ (tiếng) đều có nghĩa. Thành ra khi phiên âm tiếng nước ngoài, nếu khéo chọn thì sẽ được một chuỗi âm tiết vừa gần giống với tên cần phiên âm về cách đọc, lại vừa tạo nên một nghĩa tổng thể nào đó. Bác Hồ từng phiên âm tên của tướng Mỹ Oét-mo-len thành “Vét Mỡ Lợn”. Người Trung Quốc đã phiên âm tên đồ uống “Coca Cola” thành ‘kě kŏu kě lè’ (可口可樂). Tuy cách phát âm không giống “Coca Cola” được bao nhiêu, nhưng tạo ra được nghĩa thú vị: “Khả khẩu khả lạc” là “vừa dễ uống (ngon miệng) lại vừa (khiến ta) vui sướng!”.
Tong trường hợp chao-xian朝鮮 (Triều Tiên), chữ 朝 (triều), ngoài nghĩa ‘trị vì’, ‘hướng về’ (như trong các từ ghép “triều đại”, “triều kiến”), còn có nghĩa là ‘buổi sáng’ (như trong từ ghép “triều nhật” = mặt trời buổi sáng). Về chữ 鮮 (tiên), sách “Thuyết văn” cho biết khởi đầu nghĩa là “tên cá đến từ nước Lạc” nên ban đầu có nghĩa là “cá sống”, sau mới mở rộng thành “mới mẻ” [Lý Lạc Nghị & Jim Waters 1997: 745]. Gộp lại, cách phiên âm /*trjaw-senx/ của người Trung Quốc thành “Triều Tiên” đã tạo ra nghĩa “triều đại mới”, hoặc xứ sở có “buổi sáng mát mẻ”.
Cách dịch ra tiếng phương Tây thành “Land of Morning Calm” (Mảnh đất Ban mai Yên tĩnh, Đất nước Bình minh Yên tĩnh) có lẽ xuất phát từ Claude Charles Dallet, một nhà truyền giáo người Pháp[2], trong cuốn Sérénité du Matin viết năm 1874, rồi sau đó được tổ chức American Percival Lowell dùng chính thức ở Triều Tiên vào năm 1885 [Pratt K. & Rutt R. 1999: 232]. Như vậy, cách giải nghĩa này chỉ có thể xem như một hình tượng văn chương giàu chất trữ tình, chứ không thể coi là một cách giải nghĩa khoa học nghiêm chỉnh như rất nhiều sách vở, luận văn, luận án lâu nay đã viện dẫn [Trịnh Huy Hóa 2001: 12; Hwang Gwi-Yeon & Trịnh Cẩm Lan 2002: 336, 339] [3].
Tên gọi “Joseon” xuất hiện trở lại lần thứ hai[4] trong lịch sử Korea vào cuối thế kỷ XIV. Năm 1392, sau khi tướng Yi Seong-ye (Lý Thành Quế) tiến hành đảo chính thành công và lập nên triều Yi (Lý), ông đã quyết định lấy lại tên gọi cổ nhất là “Joseon” làm quốc hiệu. Để phân biệt với Joseon của triều Lý, các sử gia đã gọi quốc gia “Joseon” đầu tiên là “Joseon cổ” (고조선, Ko-Joseon); cách gọi với mục đích phân biệt này hiện đã trở thành phổ biến đến mức nhiều người (kể cả người Korea) thành tâm nghĩ rằng “Ko-Joseon” là tên thực của quốc gia cổ đại này.
Tên gọi “Joseon” triều Lý tiếp tục tồn tại cùng với vương triều suốt năm thế kỷ cho đến tháng 10-1897, khi vua Gojong (Cao Tông) đổi tên nước thành “Daehan Jeguk” (대한제국, Đại Hàn Đế Quốc), trọng tâm ở chữ “한-Hàn ” là tên chỉ dân tộc, xuất hiện từ đầu công nguyên ở thời Samhan (삼한, Tam Hàn). Tất nhiên là quốc hiệu đầy tự hào này không thể tiếp tục tồn tại trong thời Nhật thuộc.
Từ năm 1910, thực dân Nhật Bản đã dùng lại tên “Joseon” để gọi vùng đất thuộc địa này, đọc theo cách phát âm Nhật là “Chosen”. Sau năm 1945, chính quyền của những người cộng sản ở phía Bắc đã tiếp tục sử dụng tên gọi “Joseon” (đọc theo cách phát âm miền bắc là “Josun”): thoạt đầu là “Ủy ban Nhân dân Lâm thời Triều Tiên” năm 1946, rồi “Ủy Ban Nhân Dân Triều Tiên” năm 1947, và cuối cùng là “Nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Triều Tiên” (조선 민주주의 인민 공화국, Triều Tiên Dân chủ Chủ nghĩa Nhân dân Cộng hòa Quốc) năm 1948.
Như vậy, “Joseon” là tên gọi được dùng nhiều lần nhất với tổng thời gian dài nhất trong lịch sử bán đảo Korea.
2. Quốc hiệu “Goryeo” (Cao Ly) và những tên gọi liên quan
Tuy tên gọi “Joseon” được dùng với thời gian dài nhất trong lịch sử Korea, nhưng lại không phải là tên được biết rộng rãi nhất ở phương Tây. Tên đại diện cho bán đảo Hàn ở phương Tây là “Goryeo”.
Tên này bắt nguồn từ tên nước Goguryeo /고구려 (高句麗), tương truyền do Chu-Mong /주몽 (朱蒙- Chu Mông) và các tùy tùng của ông chạy từ nước Buyeo (Phù Dư) về phía đông nam thành lập vào năm 37 trước công nguyên trên cơ sở liên kết năm bộ lạc ở bắc bán đảo và Mãn Châu. Goguryeo thuộc vùng đất Yemaek /예맥 (濊貊 - Uế Mạch), nằm trong khoảng từ giữa sông Amnok (Yalu, 鴨綠 = Áp Lục) đến lưu vực sông Tungchia (Đồng Giai).
Tên “Goguryeo” là một từ cổ thuần Hàn, có nghĩa là “thành (trên) núi”, hay “kinh đô” [Марков В.М. 1999: 12; Pratt K. & Rutt R. 1999: 232]. Người Hán đã phiên âm tên này thành高句麗 (âm Hán-Việt có tới ba cách đọc khác nhau là: “Cao Câu Ly”, “Cao Cú Ly”, “Cao Cú Lệ”).
Đến năm 918, khi Thái Tổ Wangkeon (Vương Kiến) tái thống nhất đất nước, lập ra vương quốc Hậu Goguryeo và lên làm vua, ông đã cho rút gọn tên nước ‘Goguryeo’ thành Goryeo (고려). Tên này trở thành phổ biến ở Trung Quốc dưới dạng phiên âm 高麗 Gaoli (âm Hán-Việt là ‘Cao Ly’) và ở Nhật Bản dưới dạng “Korai”.
Chính là thông qua Trung Quốc và Nhật Bản, những người đi biển phương Tây bắt đầu biết đến quốc hiệu này của người Korea. Nó xuất hiện ở phương Tây lần đầu tiên dưới dạng “Caule” trong báo cáo của William Rubruck về chuyến đi của ông đến Mông Cổ năm 1253 (ở chương 29). Trong những câu chuyện của nhà du lịch Marco Polo về cuộc kháng chiến chống quân Mông Cổ của người dân vùng Viễn Đông, tên này trở thành “Cauli”.
Đến cuối thế kỷ XIV, khi vương triều Joseon thay thế cho vương triều Goryeo trên Bán đảo Hàn, thì tên gọi của vương triều Goryeo trước đó tiếp tục được nhiều người phương Tây biết đến. Các nhà hàng hải Bồ Đào Nha đã mang về Châu Âu tên gọi “Coria”. Trên bản đồ của Fleming Peter Placius vẽ năm 1593 xuất hiện địa danh “Corai”; còn trên bản đồ của Jan Huygen van Linschoten vẽ năm 1596 ta gặp “Corea”.
Vào thế kỷ XVII, tên “Corea” dần dần trở thành phổ biến ở phương Tây. Cách viết “Korea” (với chữ cái đầu là K) xuất hiện vào đầu năm 1738 và sau đó đã được chấp nhận rộng rãi vào thế kỷ XIX. Trong khi đó, cách viết “Corea” (với chữ cái đầu là C) vẫn còn tiếp tục được dùng đến tận năm 1940 [Pratt K. & Rutt R. 1999: 232]. Riêng người Pháp ngày nay vẫn giữ tên này ở dạng “Corée”[5].
Cũng giống như “Triều Tiên” trở thành ‘Đất nước của Bình minh Yên tĩnh’, một số người phương Tây giàu óc tưởng tượng đã căn cứ vào ý nghĩa của hai chữ 高麗 (Cao Ly) trong tiếng Hán mà giải nghĩa “Korea” thành ‘Cao và Sáng’ [Trịnh Huy Hóa 2001: 12]. Có lẽ chữ “ly 麗” ở đây đã được đồng nhất với chữ “ly離” là tên một quẻ trong bát quái hậu thiên. “Ly 離” trong bát quái hậu thiên có nghĩa là ‘phương Nam’, ‘nắng nóng’, ‘ánh sáng’.
Đây là một diễn giải hết sức tuỳ tiện, vì chữ “ly” 麗 trong “Cao Ly” chỉ có nghĩa là ‘đẹp’, và vị trí Korea trong địa văn hóa của bát quái thì ở phía đông bắc, hoàn toàn không liên quan gì đến phương Nam nắng, sáng cả! Do vậy, cách giải nghĩa này cũng chỉ có thể dùng như một hình tượng văn chương thơ mộng chứ không thể xem là một cách giải nghĩa khoa học nghiêm chỉnh được.
3. Quốc hiệu “Hankuk” (Hàn Quốc)
Tên gọi “Daehan Jeguk” (Đại Hàn Đế Quốc) do vua Gojong (Cao Tông) đặt ra năm 1897 tuy rằng với tư cách là một quốc hiệu chính thức chỉ tồn tại được trong một thời gian ngắn (23 năm, từ 1897 đến 1910), nhưng đối với những người dân mất nước thì tên gọi Daehan (Đại Hàn) này rất thích hợp để thể hiện lòng yêu nước và tinh thần dân tộc của mình. Bởi vậy mà chính phủ lưu vong thành lập ở Thượng Hải tháng 4-1919 đã lấy tên là “Daehan Minguk Imsi Cheongbu” (Đại Hàn Dân quốc Lâm thời Chính phủ). Sau khi thành lập, các thành viên của chính phủ lưu vong này đã tìm kiếm sự ủng hộ của thế giới và các quốc gia phương Tây, trong đó có Mỹ. Năm 1945, họ trở về tham gia lãnh đạo phía Nam. Và, để kế tục truyền thống của mình, năm 1948 các nhà lãnh đạo phía Nam đã lấy tên nước là “Daehan Minguk” (대한민국, Đại Hàn Dân quốc), gọi tắt là “Hanguk” (한국, Hàn Quốc).
4. Tên gọi “Dongi” (Đông Di)
Ngoài các quốc hiệu chính thức, còn có khá nhiều tên gọi tồn tại như những “biệt hiệu” do người Hàn tự đặt hoặc do các dân tộc khác đặt ra để gọi bán đảo này.
Phổ biến nhất trong số này là tên gọi do người Hán đặt ra để gọi bán đảo Hàn là “Đông Di” (东夷, Dongyi), tiếng Hàn là 동이 (Dongi). Theo giáo sư Kim Ki-su thì Dongyi (Đông Di) với Donghu (Đông hầu), Tunghou và Tungus đều là những biến thể của cùng một tên gọi và đều xuất phát từ tiếng Hán [Kim Ki-su 1974: 20-21]. Tên gọi này ban đầu không có ý khinh miệt. Chỉ có từ thời Tần-Hán về sau, khi Hoa Hạ đã trở nên lớn mạnh cả về diện tích, dân số và văn hóa, nhờ tích hợp được diện tích, dân số và văn hóa của các dân tộc phía Đông và phía Nam, họ mới bắt đầu tỏ ra khinh miệt “tứ di”. Và từ đó các tên như “Đông Di” (để gọi xứ của người Hàn), “Nam Man” (để gọi xứ của người Việt) mới trở nên có nghĩa miệt thị.
Bảng 1: Các tên gọi phổ biến
Stt |
Tên gọi |
Thời kỳ tồn tại |
Chủ thể sáng tạo |
Nguồn gốc |
Biến thể |
1. |
조선 / Joseon |
Trước CN |
Người Hàn |
|
Ko-Joseon |
2. |
조선 / Joseon |
Triều Lý |
Người Hàn |
Joseon cổ |
朝鮮, Triều Tiên, ‘Land of Morning Calm’ |
3. |
고려 / Goryeo |
Tk 10-13 |
Người Hàn |
고구려/ Goguryeo |
高麗, Cao Ly, Korea, Corée, ‘Cao và Sáng’ |
4. |
한국 / |
Từ 1897 và 1948 |
Người Hàn |
Daehan Jeguk và Daehan Minguk |
|
5. |
동이 / Dongi |
Từ trCN |
Người Hán |
东夷 / Đông Di |
Donghu (Đông hầu), Tunghou, Tungus |
5. Các tên gọi không phổ biến
Ngoài tên gọi “Đông Di”, còn có nhiều tên khác ít phổ biến hơn do người Hán, người Hàn và người phương Tây đặt ra để gọi bán đảo này.
“Quân Tử Chi Quốc” (tiếng Hán: 君子之國Junzi zhi guo; tiếng Hàn: 군자지국 Kunja-ji-guk) là một tên gọi xuất phát từ người Hán (được ghi trong Sơn Hải kinh là một cuốn sách cổ của Trung Hoa[6]), với ý nghĩa ca ngợi nơi đây là “đất nước của những người quân tử”.
Cũng trong Sơn Hải kinh, bán đảo Hàn còn được gọi là “靑丘Qingqiū” (Thanh Khâu, tiếng Hàn: 청구Cheonggu) nghĩa là “Gò xanh”. Sở dĩ “Gò xanh” lại có thể chỉ bán đảo Korea là vì thứ nhất, Korea là vùng núi (đồi/gò), và thứ hai, theo ngũ hành thì màu xanh (靑 “thanh”) là màu biểu tượng của phương Đông.
Do vị trí của Korea là ở phía đông Trung Hoa nên vào thời Lý lưu truyền một loạt tên gọi phản ánh đặc điểm này: Dongguk (동국 = 東國) ‘Đông Quốc’ (Nước ở phía Đông); Dongbang (동방 = 東邦) ‘Đông Bang’ (Bang (nước) ở phía Đông); Haedong (해동 = 海東) ‘Hải Đông’ (nước ở phía Đông của Biển); Dongto (동토 = 東土) ‘Đông Thổ’ (Đất ở phía Đông); Daedong (대동 = 大東) ‘Đại Đông’ (nước Đông Lớn). Việt Nam và Korea trong trường hợp này rất giống nhau: do vị trí ở phía nam của Trung Hoa nên Việt Nam cũng có các tên gọi tương ứng như: Nam Việt, Nam Quốc, Nam Bang, Đại Nam. Không ai bảo ai, tâm lý tự ti đã khiến cả Korea lẫn Việt Nam trong lịch sử đều khẳng định mình cũng là nước lớn (Đại Đông và Đại Nam) chẳng kém gì Trung Quốc!
Cũng với ý là nước ở phía đông, giới Nho sĩ người Hàn đã tạo ra một biểu tượng rất thú vị là “Kê Lâm”: Vì ở phía đông nên đón bình minh sớm, mà gà gáy là báo hiệu bình minh, vậy là có tên “Gyerim” (계림 = 鷄林, Kê Lâm) nghĩa là ‘Rừng Gà’!
Asadal /아사달 là một tên khác người Hàn dùng để gọi đất nước mình với nét nghĩa phía đông. “Asadal” là một từ cổ thuần Hàn. Vào thời xa xưa, “Asa” có nghĩa là “Achim” (buổi sáng), và “Dal” có nghĩa là “Kot” (nơi, chốn) [박 영 순 2002: 180]. Vậy thì Asadal nghĩa là ‘nơi của buổi sáng, nơi đón bình minh’ (giống như người Nhật gọi quê hương mình là ‘đất nước mặt trời mọc’ vậy).
“Jindan” (진단 = 震檀, âm Hán-Việt là “Chấn Đàn”) cũng là một tên gọi bán đảo Korea. “Từ điển Tân Quốc ngữ Dong-a” của Lee Ki-Moon[7] giải nghĩa “Jindan” là “đất nước chúng ta”. Năm 1934 các nhà dân tộc học Korea có thành lập một tổ chức lấy tên là “Hội Chấn Đàn học” (Jindan hak-hoi, 진단학회). Vì sao hai chữ “Chấn Đàn” lại có thể có nghĩa là “đất nước Korea”? Tra cứu không thấy sách nào giải nghĩa về từ nguyên học của từ này, song theo chúng tôi, ‘Chấn’ đây chính là quẻ chấn trong Bát quái. Trong Bát quái tiên thiên, quẻ Chấn nằm ở phía đông bắc, nên nó ứng với vị trí của bán đảo Korea. Còn ‘đàn’ là cây thần chiên đàn, cây tổ trong huyền thoại lập quốc Dan-Gun (= Đàn Quân)[8]. Như vậy, có thể hiểu “Chấn Đàn” là ‘(xứ) cây Đàn tọa ở quẻ Chấn (phía Đông-Bắc)’. Từ “chấn” với nghĩa là quẻ chấn của Bát quái còn tạo ra tên Jinyeok / 진역 (= 震域), âm Hán-Việt là “Chấn Vực” (“vực” = “khu vực”).
Cách tư duy lấy Trung Hoa làm chuẩn mực để so sánh còn sản sinh ra một tên gọi nữa là “Sohwa” (소화 = 小華, Tiểu Hoa): Người ta là “Hoa” thì mình cũng là “Hoa”. Chỉ có điều do diện tích to nhỏ khác nhau nên người ta là “Hoa lớn”, còn mình là “Hoa nhỏ” (“tiểu”) mà thôi!
Người Hàn có một loại hoa được xem là rất gắn bó và linh thiêng, một quốc hoa – đó là Mugunghwa - hoa vô cùng. Hoa vô cùng là một loại hoa thuộc họ dâm bụt, gần giống hoa dâm bụt của người Việt. Đây là loài hoa có sức sống bền bỉ, mãnh liệt, nó nở một cách thầm lặng ở khắp nơi trên đất Korea, suốt từ đầu hè đến cuối thu. Bởi vậy, hoa này được người Korea xem là tượng trưng cho sự bền vững nên được gọi là “hoa vô-cùng”, “hoa vĩnh-cửu”. Vào thời mình, vương quốc Silla đã tự xưng là Mugunghwa-guk /무궁화국 - “Nước Hoa-vô-cùng”.
Tên bằng chữ Hán của hoa vô cùng là木槿花 ‘mộc cẩn hoa’. Vì vậy. đầu tk. XX xuất hiện tên gọi Geunyeok /근역. Tên này xuất phát từ chữ Hán 槿域 ‘Cẩn Vực’, trong đó 域 (vực) là ‘khu vực’, còn “cẩn” (槿 = 근geun) là tên tắt của ‘mộc cẩn hoa’, tức “hoa vô cùng” của người Hàn. “Geunyeok”, hay “Cẩn Vực” có nghĩa là ‘Xứ Hoa vô cùng’.
Tên gọi “Vương quốc Ẩn sĩ” (Hermit Kingdom) do người phương Tây đặt ra để chỉ đất nước Korea xuất hiện lần đầu tiên trong tên một bài báo bằng tiếng Anh, đó là bài “Corea, last of the Hermit Nations” (Korea, đất nước cuối cùng của những Dân tộc Ẩn dật), in trên tờ “The Independent” (Độc lập) xuất bản ở New York tháng 5-1878 [Pratt K. & Rutt R. 1999: 232]. Sang tiếng Hàn, tên này được chuyển thành Swoeguk (쇄국 - 鎖國), âm Hán-Việt là “Toả Quốc” (“toả” = khép kín, đóng cửa, ss. phong toả) hoặc Tunguk (둔국 - 遁國), âm Hán-Việt là “Độn Quốc” (trong đó “độn” = chạy trốn, ss.: độn thổ). Cả hai tên đều có nghĩa là ‘quốc gia ẩn cư’.
Bảng 2: Các tên gọi không phổ biến
Stt |
Tên gọi |
Thời kỳ tồn tại |
Chủ thể sáng tạo |
Nguồn gốc |
1. |
군자지국 |
Từ trCN |
Người Hán |
君子之國 |
2. |
해동/ Haedong |
Thời Lý |
Người Hàn |
海東/ Hải Đông |
3. |
동토 / Dongto |
Thời Lý |
Người Hàn |
東土 / Đông Thổ |
4. |
동국 / Dongguk |
Thời Lý |
Người Hàn |
東國 / Đông Quốc |
5. |
동방 / Dongbang |
Thời Lý |
Người Hàn |
東邦 / Đông Bang |
6. |
대동 / Daedong |
Thời Lý |
Người Hàn |
大東 / Đại Đông |
7. |
계림 / Gyerim |
Thời Lý |
Người Hàn |
鷄林 / Kê Lâm |
8. |
아사달 / Asadal |
Không rõ |
Người Hàn |
(từ cổ thuần Hàn = ‘nơi của buổi sáng’) |
9. |
소화 / Sohwa |
Thời Lý |
Người Hàn |
小華 / Tiểu Hoa |
10. |
진단 / Jindan |
Thời Lý |
Người Hàn |
震檀, Chấn Đàn |
11. |
진역 / Jinyeok |
Thời Lý |
Người Hàn |
震域, Chấn Vực |
12. |
무궁화국 / |
Thời Silla |
Người Hàn |
(từ thuần Hàn + Hán Hàn = ‘Nước hoa-vô-cùng’) |
13. |
근역 / Geunyeok |
Đầu tk. 20 |
Người Hàn |
槿域, Cẩn Vực |
14. |
쇄국 / Swoeguk, |
Từ tk.19 |
Phương Tây |
Hermit Kingdom / Vương quốc Ẩn sĩ |
Kết luận
Việc tìm hiểu các quốc hiệu và tên gọi của một đất nước không chỉ làm thỏa mãn trí tò mò và đáp ứng nhu cầu hiểu biết, mà còn góp phần giải đáp những câu hỏi của lịch sử và giúp ta hiểu hơn bản sắc văn hóa và tính cách của một dân tộc.
Với 19 quốc hiệu và tên gọi (phổ biến và không phổ biến) vừa nêu, chúng ta đã có 5 loại thông tin sau về đất nước và con người Korea:
a) Lịch sử liên tục của bán đảo Korea - từ thời vua Tan-Gun huyền thoại sáng lập vương quốc Joseon cổ (tương truyền là vào năm 2333 trước công nguyên), Goguryeo, Goryeo, Joseon triều Lý đến hai nước Korea hiện nay.
b) Địa lý Korea với vị trí đông và đông bắc, với núi non và biển cả – qua các tên: Hải Đông, Đông Thổ, Đông Quốc, Đông Bang, Kê Lâm, Thanh Khâu...
c) Quan hệ quốc tế phức tạp với Trung Hoa - qua các tên: Đông Di, Tiểu Hoa, Đại Đông...
d) Quan hệ quốc tế trong giai đoạn đầu tiếp xúc với phương Tây như một thế giới biệt lập và xa lạ – qua các tên: Tỏa Quốc, Độn Quốc.
e) Và cuối cùng, tính cách dân tộc và bản sắc văn hóa Korea - qua các tên: Chấn Đàn, Chấn Vực, Nước Hoa-Vô-Cùng, Thanh Khâu, Cẩn Vực, Vương quốc Ẩn sĩ[9].
Tài liệu tham khảo
1. Hwang Gwi-Yeon & Trịnh Cẩm Lan (2002), Tra cứu văn hoá Hàn Quốc. Nxb.Đại học Quốc gia Hà Nội, 456 tr.
2. Trịnh Huy Hóa (Biên dịch) (2001), Đối thoại với các nền văn hóa: Triều Tiên, Nxb.Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh, 198 tr.
3. Pratt K. & Rutt R. (1999), Korea – A Historical and Cultural Dictionary. – Curzon, 568 p.
4. Kim Ki-Su (1974), People. // In: Kim Ick-dal (publisher): Korea - Its People and Culture (with 56 contributors). – Seoul: Hakwon-sa, Ltd., 1974, pp. 18-27.
5. Марков В.М. (1999), Республика Корея: Традиции и современность в культуре второй половине ХХ века. – Владивосток, Изд. Дальневост. ун-та, 448 с. (Markov V.M. Hàn Quốc: truyền thống và hiện đại trong văn hoá nửa sau tk. XX, tiếng Nga).
6. 박 영 순 (2002), 한국어 교육을 위한 한국 문화론. - 한국 문화사, 403 p. (Bak Yeong-sun. Văn hóa Hàn Quốc luận về việc giáo dục tiếng Hàn. – Nxb. Văn hóa Hàn Quốc).
7. Lý Lạc Nghị & Jim Waters (1997), Tìm về cội nguồn chữ Hán. – H.: NXB Thế giới.
[1] Phiên âm Latinh các từ Hàn trong bài thực hiện theo quy định phiên âm của Bộ giáo dục Hàn Quốc năm 2000.
[2] Claude Charles Dallet, sinh năm 1829, là tác giả cuốn Histoire de l’Eglise de Corée (1874) viết về lịch sử thâm nhập của đạo Thiên Chúa vào Korea. Ông mất do bệnh tật tại Sài Gòn năm 1887 [Pratt K. & Rutt R. 1999: 93].
[3] Trong tiếng Việt cũng xảy ra nhiều trường hợp tương tự. Chẳng hạn, sông Lam ở Nghệ An thường được giải thích là ‘sông Xanh’, nhưng thực ra “Lam” chỉ là một cách Hán-Việt hoá tên cổ của sông này là Rum nghĩa là ‘nước’ (ss. “nậm Rốm”).
[5] Như vậy cách viết Corea (với C) đã xuất hiện ở phương Tây trước cách viết Korea (với K). Thực tế này đã bác bỏ cách giải thích khá phổ biến cho rằng người Korea cố tình muốn viết tên nước mình bằng C để được đứng trước tên nước Nhật Bản (Japan – với J) trong các danh sách quốc tế.
[6] “Sơn Hải kinh” (山海經, t. Hàn 산해경, Sanhae-gyeong) là một cuốn sách Trung Hoa được viết vào đời Hán (nhưng thường được cho là viết sớm hơn rất nhiều), chứa đựng những miêu tả hoang đường về thế giới, bao gồm các kỳ quan, kỳ vật, kỳ nhân.