Trong các số tạp chí 322, tháng 4-2011 và hai số tiếp sau, VHNT lần lượt giới thiệu với bạn đọc chùm bài nghiên cứu so sánh một khía cạnh văn hóa đời sống được phản ánh trong truyện cười dân gian hai nước.
Một mục đích của truyện cười là khám phá và chế giễu những mặt trái của cuộc sống trong nhiều lĩnh vực, từ món ăn thức uống đến các cách sinh hoạt thường nhật của người xưa. Cuộc sống của người dân qua từng mẩu truyện cười hiện lên một cách đầy đủ, sâu sắc.
Sự tương đồng
Qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy sự tương đồng về văn hóa ẩm thực là nổi bật nhất trong mảng truyện cười về văn hóa vật chất của hai nước. Câu thành ngữ “có thực mới vực được đạo” đã trở nên thân quen, gắn liền với bao thế hệ con người ở hầu hết các nước trên thế giới. Những bữa ăn dù đạm bạc hay no đủ, trước tiên, phải để bảo tồn sự sống. Miếng ăn được xem trọng nhưng nếu coi miếng ăn làm trọng thì lại dẫn đến rất nhiều chuyện vi phạm vào đạo đức xã hội, gây cười và hơn thế nữa.
Đả kích tính tham ăn của con người ở Nhật Bản có truyện Cám ơn quá sớm, khi tiệc mời được dọn ra, người đàn ông trong truyện đã quá phấn khích mà cảm ơn luôn chủ nhà: Nhiều món ngon vật lạ quá! Tôi thấy ngon miệng vô cùng. Tương tự, người Việt có truyện Được một bữa thả cửa. Một chị lấy phải anh chồng tham ăn, hễ ngồi vào mâm là chúi mũi gắp lấy gắp để, không nghĩ đến ai. Chị ta xấu hổ lắm, khuyên mãi phải ăn uống từ tốn mà anh chồng vẫn chứng nào tật ấy. Một hôm nhà bố vợ có giỗ, hai vợ chồng đi ăn cỗ, sợ chồng ăn uống thô lỗ thì xấu mặt chị ta liền lấy một sợi dây buộc vào chân chồng, còn đầu kia chị cầm lấy và dặn chồng: “Hễ bao giờ tôi giật dây mới được gắp đấy!”. Chồng đồng ý. Vào mâm, mọi người đều thấy anh này ăn uống từ tốn, lịch sự. Chị vợ ở dưới bếp vừa làm vừa giật dây. Đôi lúc mải làm, quên không giật làm anh chồng cứ phải ngồi ngây ra nhìn món ăn mà nhỏ rãi. Bố vợ phải gắp thức ăn cho. Đến giữa bữa, một con gà đi qua chẳng may vướng phải dây co chân giật gỡ mãi vẫn không được. Ở trên anh chồng thấy dây giật lia lịa, vội vàng cắm đầu gắp. Càng gắp thấy dây càng giật tưởng vợ cho ăn thả cửa, anh ta vớ luôn cả đĩa thức ăn trút vào bát. Hai nhân vật trong truyện mặc dù có người kiềm chế tính tham ăn của họ nhưng họ vẫn không thể che giấu được tính xấu kia. Không sớm thì muộn họ cũng tự bộc lộ bản chất của mình.
Thói tật ăn vụng những đồ cấm kị của các nhà sư cũng được dân gian hai nước phản ánh đầy đủ và sâu sắc trong các truyện Mua cá, Con mực, Nhổ lông gà… (Nhật Bản) và Con thanh tịnh, Đậu phụ cắn, Lá húng lá húng… (Việt Nam). Những tình huống ngẫu nhiên đã tố cáo việc ăn vụng đồ cấm kỵ của các nhà sư.
Truyện cười hai nước cũng phô bày tất cả những cái xấu xa, bất chấp cả lòng tự trọng trước miếng ăn của con người. Miếng ăn trở thành nguyên nhân gây hiểu lầm, xung đột giữa chủ nhà với khách Ăn theo bằng trắc, Ông ấy ăn hết cả, Chà lọ nghẹ, Hai phần cơm… (Việt Nam), Khách đến trong khi nướng bánh (Nhật Bản)… Hay vì chút sĩ diện hão mà người chồng đay nghiến vợ, đánh con để tỏ rõ tình cảm thiết đãi khách quý trong truyện Nước chấm này, Bẹo con, Hâm nước mắm... Bên cạnh đó có người trở nên lạnh lùng với bạn bè, không màng đến vợ con, mất cả tình anh em, gây tội lỗi cả với đấng sinh thành như nhân vật trong truyện: Không có con nào nhỏ cả, Dài tới rá xôi, Giờ mới ló đầu ra, Nó ăn ở trong, Chả lẽ mời cả làng ăn à?, Ăn chả cò, Có hiếu, Cúng giỗ… (Việt Nam), Ngày kiêng ăn, Cáo phó… (Nhật Bản).
Bên cạnh nguồn thức ăn chính, chúng ta cũng bắt gặp nhưng thức uống hàng ngày của nhân dân hai nước như rượu, trà… qua các truyện Ông rậm râu, Bác cứ mời đi, Cái mũi thính, Ẻ vô ấm (Việt) và Đọc thư hộ, Người không rượu vĩ đại nhất, Người phu ngựa thồ, Bất cẩn… (Nhật). Thích uống nước trà cũng là một nét văn hóa rất riêng của ẩm thực Việt Nam, Nhật Bản mà truyện cười có đề cập. Dưới góc nhìn của truyện cười, bát nước trà không còn nguyên vẹn ở khía cạnh văn hóa lịch sự vốn có. Cái hài, cái tinh nghịch của người dân hai nước đã khiến nét văn hóa này thêm thú vị. Những yếu tố này góp phần tạo nên sự tương đồng trong truyện cười hai nước.
Văn hóa vật chất qua truyện cười hai nước còn thể hiện ở hoạt động kinh tế của người dân. Từ hoạt động này cũng tạo ra không ít điểm tương đồng giữa truyện cười hai nước. Rất hóm hỉnh, một loạt nghề của người dân hai nước được vẽ lên khá đầy đủ như: nghề buôn bán trong Tăng giá mọi điều (Nhật Bản) và Buôn vịt trời, Hết trị, Khóc cái tuổi, Không phải thịt lợn sề… (Việt Nam), nghề bán cá trong Con sò (Nhật Bản), Cái biển hàng (Việt Nam), nghề giúp việc trong Người hầu được trừ tà, Nhiệt độ nước tắm (Nhật Bản) và Ba anh đầy tớ, chó biết nói, Lửa cháy nhà, Mướn đầy tớ không tiền… (Việt Nam), nghề thầy thuốc trong Xem mạch người hầu, Thầy lang tự khen mình… (Nhật Bản) và Bốc thuốc theo sách, Bị mắng, Cái chổi lông gà, Mánh khóe, Cho sống lại, Chữa ma ra người… (Việt Nam), nghề ăn trộm trong Cửa hàng (Nhật Bản) và Ăn trộm bị lỗ vốn, Ăn trộm thật thà, Bắt được sợi dây… (Việt Nam), thậm chí nghề kỹ nữ cũng xuất hiện nhiều trong các truyện hai nước Thanh toán hóa đơn, Muốn làm samurai, Đi xem lồng đèn, Tiền thuốc…. (Nhật Bản) và Đi tu phải tội (Việt Nam)…
Sự khác biệt
Bên cạnh rất nhiều những điểm tương đồng, thói xấu biểu hiện trong văn hóa ẩm thực của hai nước cũng có những điểm khác biệt nhất định. Có những thói xấu xuất hiện rất nhiều trong truyện cười người Việt nhưng rất ít trong truyện cười người Nhật, như là thói ăn vụng. Ở Nhật Bản, thói ăn vụng chỉ xuất hiện ở những truyện chế giễu thói ăn vụng đồ cấm kỵ của nhà sư (Con mực, Mua cá), trong khi đó ở truyện cười của người Việt, thói ăn vụng xuất hiện rất nhiều và ở nhiều đối tượng khác nhau. Đó là những phụ nữ chuyên ăn quà vặt hàng quán như ở các truyện Múi lúi xơ lơ, Đồng môn đồng khoai, Răng hô, Củi sòi cá thòi lòi… Đó là những bà vợ luôn trốn chồng đi ăn vụng (Ăn phúng cháo kê, Bốn cu, Thông minh…) và kể cả các bậc mày râu cũng không thua kém các bà về khoản ăn vụng như anh chồng trong truyện Mồ hôi đen, Gãy xương sống, Lại chuyện ăn vụng cháo trè, Từ cha… Truyện cười Việt không chỉ phản ánh, phê phán những nông dân ít chữ có thói hư tật xấu trong văn hóa ẩm thực mà đến cả những trí thức, quan lại cũng không che giấu được hết hạn chế này của mình (Thày đồ liếm mật, Đừng nói nữa… tao thèm)…
Trang phục người Việt cũng như người Nhật Bản ít được đề cập trong truyện cười. Nó chỉ được điểm xuyết qua cái hài ý nhị trong cách ăn mặc của người phụ nữ. Hầu hết phụ nữ Việt xưa đều mặc váy. Trang phục này xuất hiện có khi là tiếng nói buồn lòng cho người vợ khi nhất nhất nghe theo lời chồng trong chuyện ăn vận, cho dù là vận trang phục của chính họ. Tiêu biểu là nhân vật trong truyện Mặc váy nha. Nhưng cũng có khi đó là tiếng cười đả kích, châm biếm sâu cay vào bọn người xấu xa: Xắn mấn một tí là xong, Đọi rưỡi là vừa, Hay nói dại, Đằng trước hay đằng sau, Thả mấn, Nghiện thuốc phiện, Lòng gan đâu… Hầu như váy là trang phục điển hình lúc bấy giờ của phụ nữ Việt Nam. Áo dài lâu nay là trang phục truyền thống của người Việt nhưng không thấy xuất hiện trong những truyện cười mà chúng tôi khảo sát. Chi tiết này có thể nói lên nhiều điều về lịch sử của truyện cười dân gian Việt Nam được lưu trữ tới hôm nay mà chúng tôi xin được đề cập đến trong một nghiên cứu khác. Trang phục người Nhật cũng chỉ xuất hiện qua một vài truyện như: Quần áo mỏng, Tên trộm… Đó là áo choàng len, áo lót bông, áo gai, khố. Những thứ này lần lượt xuất hiện để một người khẳng định về sự mạnh dạn của mình. Một người khẳng định mình mạnh dạn hơn anh của mình chỉ vì lý do anh ta mặc quần áo ít hơn. Anh ta đưa ra ví dụ: Nếu anh ấy mặc áo choàng len thì tôi mặc áo lót bông. Nếu anh ấy mặc áo lót bông thì tôi không lót gì hết. Nếu anh ấy mặc áo không lót gì thì tôi mặc áo gai, và nếu anh ấy mặc áo gai tìh tôi đóng khố. Mọi người bấy giờ mới châm biếm hỏi thêm: “Còn khi anh ấy chỉ đóng khố thì sao?” Anh ta tự tin trả lời: “à, thì tôi sẽ để phất phơ”. Quả là mạnh dạn hơn người. Cũng như áo dài của người Việt, kimônô là trang phục truyền thống của người Nhật Bản nhưng rất ít xuất hiện trong truyện cười, chỉ xuất hiện trong hai truyện mà chúng tôi khảo sát. Trang phục cũng là một đặc điểm làm nên nét khác biệt giữa truyện cười hai nước. Qua khảo sát, chúng tôi thấy rằng vấn đề đi lại và nhà ở trong truyện cười Việt cũng chỉ làm nền cho những nội dung cười khác. Kiểu nhà trệt là hình thức chủ yếu phù hợp với mức sống của nhân dân Việt xưa, những ngôi nhà chủ yếu lợp bằng tranh tre có sẵn trong tự nhiên. Cũng qua những câu chuyện: Lợp lại mái nhà, Làm nhà chắc chắn, Chuyện mua nhà… thể hiện được sơ lược những vật dụng cần thiết để xây dựng một ngôi nhà. Cái cười thâm thúy trong Sư tre đè sư mít hay cái cười giòn giã trong Mua tre cũng biểu đạt cho vấn đề ăn ở của người dân Việt xưa. Nhà cửa còn thô sơ thì vấn đề đi lại ở mức độ đơn giản nhất. Chúng ta phần nhiều bắt gặp cảnh nhân dân đi bộ, những kẻ giàu sang quyền quý mới được ngồi võng lọng khi đi xa. Cãi võng lọng nghênh ngang ngoài đường khiến tạo ra những bức tranh trái ngược giữa tầng lớp quan lại với tầng lớp bình dân. Tiếng cười tung ra làm vũ khí đấu tranh chống lại những kẻ hợm mình cậy quyền cậy thế đi lại nghênh ngang. Cũng xuất hiện trong truyện cười Việt những loại đò, thuyền, bè qua lại trên sông nước. Những câu chuyện cười xuất hiện giữa nhiều con người khi đi trên những chuyến đò: Trên một chuyến đò, Ông lái đò nói lái…
Nhà ở cũng ít thấy được đề cập trong truyện cười Nhật Bản, chỉ được nói đến trong truyện Có người phụ giúp, Cửa hàng… Truyện Có người phụ giúp có nhắc đến công việc bài trí phòng khách và tục đãi khách để giới thiệu phòng mới… Phương tiện đi lại trong truyện cười cũng chỉ dừng lại ở cấp độ đơn giản nhất, chủ yếu là đi bộ, thỉnh thoảng đi bằng thuyền (truyện Qua sông, Đánh đu… (Nhật), cũng xuất hiện phương tiện đi lại bằng ngựa trong đời sống dân tộc Nhật Bản xưa (Người cầm kích, Cưỡi ngựa…). Ngoài ra, không thấy đề cập đến các phương tiện giao thông khác.
Văn hóa vật chất qua truyện cười còn thể hiện ở hoạt động kinh tế của người dân. Qua truyện cười, các hoạt động kinh tế chủ yếu của nhân dân Việt là sản xuất nông nghiệp. Hình ảnh những nông dân qua truyện cười thật thà, mộc mạc. họ chỉ biết con trâu đi trước cái cày theo sau, suốt ngày lao động vất vả đề làm ra củ khoai, hạt gạo. Những câu chuyện thú vị về anh nông dân phải dắt trâu (bò) đi làm từ sớm mà nhìn nhầm hổ thành ra mất cả buổi cày (Mất buổi cày) và những hoạt động cấy, gặt vốn dĩ của nghề nông còn được trình bày trong các câu chuyện hóm hỉnh khác: Gãy xương sống, Anh chàng ngốc, Nghiện thuốc phiện, Chàng rể thông manh… Nông nghiệp là ngành nghề chính của dân Việt xưa để duy trì cuộc sống của mình. Những câu chuyện cười cất lên vừa khắc họa được bức tranh văn hóa vật chất đồng thời gây được tiếng cười lúc dí dỏm, giòn giã sảng khoái, khi thâm thúy sâu cay của nhân dân Việt xưa. Đặc điểm này không thấy trong truyện cười Nhật Bản mà chúng tôi nghiên cứu.
Ở lĩnh vực nghề nghiệp, bên cạnh những điểm tương đồng cũng có không tí những nét khác biệt, có những nghề không thấy trong truyện cười người Việt mà chúng tôi khảo sát. Ví dụ như nghề thầy bói, phù thủy, thày bùa, thày số, thày pháp… (Ai nuôi tôi, Hỏi khách qua đường, Thầy bùa, Thầy pháp râu đỏ..), nghề thày cúng (Chết nhầm, Chủ Nguyễn Thị Tẹo, Tra đuôi vào…), nghề thợ mộc, thợ bạc, thợ may (Nhất bên trọng nhất bên khinh, Cũng một môn, Hai kiểu áo…), nghề vẽ truyền thần (Thày quên mặt nhà con rồi sao), nghề chụp hình (Mau phai), nghề tô tượng, đúc chuông, làm cầu (Khuyến giáo…), nghề hàn kim (Thợ hàn lâm), nghề làm nông (Trung thần nghĩa sĩ cả, Mua phân…), thậm chí nghề cho vay nặng lãi cũng được tác giả dân gian Việt đề cập đến trong truyện Đâu dám làm ông khổ lây. Ngược lại, một loạt nghề của người dân Nhật Bản được đề cập trong truyện cười nhưng không thấy ở truyện cười người Việt như: nghề bán thuốc dạo (trong Thuốc chống bổ), nghề cho thuê nhà, xay lúa, đào giếng (trong Đào giếng trong nhà), nghề quảng cáo, tiếp thị (trong Biển quảng cáo, Bán đầu), nghề dạy thuật đánh kiếm (trong Thuật đánh kiếm), nghề canh tuần (trong Thất bại của người tuần đêm, Người canh phòng lửa)…, điểm này cũng góp phần tạo nên sự khác biệt giữa truyện cười hai quốc gia.
Chợ, một địa điểm hoạt động kinh tế thương mại cũng xuất hiện trong truyện cười của người Việt nhưng không thấy trong truyện cười Nhật Bản mà chúng tôi khảo sát. Sản vật bày bán trong chợ là những sản vật xung quanh khuôn viên gia đình bé nhỏ của mỗi gia đình. Người dân hầu như đem những thứ hàng hóa do mình làm ra để trao đổi cho nhau. Đồng tiền xuất hiện làm giá trị trao đổi nhưng cũng chỉ dừng lại ở mức thấp, những quan tiền hay đồng xu. Từ hoạt động thương mại này, người dân cũng chê cười các tật xấu như ăn quà, trộm cắp còn tồn tại ở một số đối tượng (Đồng môn đồng khoai, Kêu trước lên là vừa…).
Những câu chuyện cười cất lên vừa khắc họa được bức tranh văn hóa vật chất đồng thời gây tiếng cười lúc dí dỏm, giòn giã, sảng khoái, khi thâm thúy, sâu cay của người dân hai nước Việt Nam - Nhật Bản.
Nguồn: T/c Văn hóa nghệ thuật, số 322/2010, tr.70